Đề tài Pháp Luật Việt Nam hiện hành thành lập doanh nghiệp

Table of Contents

A. PHẦN MỞ BÀI: 1

B_ PHẦN NỘI DUNG. 2

I. Những vấn đề lí luận chung về thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh doanh. 2

1. Cơ sở pháp lí: 2

2. Khái niệm về thành lập và đăng kí kinh doanh cho doanh nghiệp. 2

3.Ý nghĩa pháp lí của việc thành lập doanh nghiệp. 3

II. Chế độ pháp lí về thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật hiện hành. 4

1. Điều kiện về ĐKKD. 4

2. ĐKKD 9

III. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập doanh nghiệp 15

1. Một số phân tích, nhận xét, đánh giá. 15

2. Những tồn tại vướng mắc cơ bản. 17

3. Một số kiến nghị về giải pháp hoàn thiện pháp luật về thành lập doanh nghiệp và thực thi pháp luật về doanh nghiệp. 18

C. PHẦN KẾT LUẬN: 22

 

 

doc26 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5266 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Pháp Luật Việt Nam hiện hành thành lập doanh nghiệp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p định của doanh nghiệp trong suốt quá trình hoạt động kinh doanh. Đồng thời, Nhà nước chưa có quy định thống nhất trong một văn bản về ngành,nghề kinh doanh đòi hỏi phải có vốn pháp định.           Hiện nay, vốn pháp định không phải là điều kiện bắt buộc đối với mọi ngành nghề . Việc xác định ngành, nghề kinh doanh phải có vốn pháp định và mức vốn pháp định cụ thể của từng ngành nghề được thực hiện theo Nghị định của Chính phủ, trong đó có nhiều nghị định được ban hành trước khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực: - Kinh doanh bảo hiểm ( Nghị định 43/CP ngày 1/8/2001 quy định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và môi giới bảo hiểm)           Đối với doanh nghiệp bảo hiểm thì gồm có doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phia nhân thọ cần có vốn pháp định là 70 tỷ, hoặc 5 triệu USD; và kinh doanh bảo hiểm  nhân thọ cần có vốn pháp định là 140 tỷ đồng hoặc 10 triệu USD .           Đối với doanh nghiệp mua giới bảo hiểm thì vốn pháp định là 3 tỷ đồng  hoặc 300 nghìn USD. - Ngành nghề kinh doanh liên quan đến chứng khoán (Nghị định 144/CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán).           Môi giới chứng khoán, quản lí doanh mục đầu tư, tư vấn đầu tư chứng khoán là 3 tỷ đồng           Bảo lãnh phát hành là 22 tỷ đồng. - Kinh doanh vàng theo Nghị định số 174/CP ngày 9/12/1999 về quản lí hoạt động kinh doanh vàng và Nghị định 44/CP ngày 11/6/2003 sửa đổi, bổ sung 174 về hoạt động quản lí kinh doanh vàng.           Mặc dù có những hạn chế nhưng cũng phải thấy rằng với việc pháp luật hiện hành quy định vốn chỉ áp dụng đối với một số ngành nghề kinh doanh đã giảm thiểu được các chi phí và thủ tục phiền hà cho nhà đầu tư. Từ đây các nhà đầu tư sẽ yên tâm tập trung    trong sản xuất, kinh doanh không phải lo toan về vốn, các chủ nợ cũng cẩn thận hơn khi hợp tác cho vay phải dựa trên cơ sở tình hình sản xuất kinh danh và báo cáo tài chính hàng năm là biểu hiện của khả năng thanh toán chứ không phải là vốn pháp định. ·        Thứ ba. Điều kiện về ngành, nghề kinh doanh Đây là những ngành nghề mà nếu cho phép tự do kinh doanh thì sẽ xâm hại đến những giá trị, lợi ich mà pháp luật đã và đang bảo vệ. Thực hiện sự đổi mới phương pháp quản lí từ cơ chế doanh nghiệp “chỉ làm những gì cho phép” sang cơ chế “được làm những gì mà pháp luật không cấm”, các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế được ĐKKD ở hầu hết các ngành nghề,trừ một số ngành nghề liên quan đến an ninh,xã hội mà nhà nước cấm kinh doanh. Việc quy định, xác định ngành, nghề không chỉ nhằm đảm bảo cho lợi ích của cộng đồng không bị xâm hại mà Nhà nước còn định hứong doanh nghiệp phát triển trong các ngành nghề mà nhu cầu xã hội đang đặt ra , qua đó đảm bảo sự giám sát của nhà nước đối với sự định hướng, phát triển nói chung. Để quản lí ĐKKD có hiệu quả, Nhà nước quy định cụ thể về ngành nghề kinh doanh với các loại hình: Ngành nghề cấm kinh doanh; ngành nghề kinh doanh có điều kiện;ngành nghề phải có vốn pháp định; ngành nghề kinh doanh phải có giấy phép hoặc chứng chỉ ngành nghề.             Pháp luật hiện hành đã quy định khá đầy đủ và chi tiết các ngành nghề bị cấm kinh doanh; bao gồm: Kinh doanh vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng và phương tiện kĩ thuật chuyên dùng trong các lực lượng vũ trang. Kinh doanh chất nổ, chất phóng xạ, chất độc; Kinh doanh mại dâm, dịch vụ tổ chức mại dâm, buôn bán phụ nữ, trẻ em. Kinh doanh tổ chức gá bạc, đánh bạc.v.v... Bằng hình thức quy định cụ thể các ngành nghề cấm kinh doanh, Nhà nước chính thức thừa nhận doanh nghiệp có quyền làm tất cả những gì mà pháp luật không cấm. Phạm vi các ngành nghề cấm kinh doanh nói trên là phù hợp với yếu cầu và đòi hỏi của tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước ta trong giai đoạn hội nhập hiện nay.           Ngành nghề kinh doanh có điều kiện: Đây là những ngành nghề kinh doanh mà ít nhiều cũng đe doạ đến lợi ích của người tiêu dùng, lợi ích của Nhà nước và cộng đồng. Theo pháp luật hiện hành thì để được kinh doanh các ngành nghề này, các doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện nhất định, ĐKKD phải được thể hiện  dưới một hình thức: + Giấy phép kinh doanh do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp: Giấy phép kinh doanh là công cụ pháp lí quan trọng để nhà nước quản lí một số ngành nghề kinh doanh nhất định. Nhưng việc cơ quan nào cs quyền đặt ra giấy phép kinh doanh và đó là loại giấy gì thì cũng lại cần có sự quản lí của nhà nước. + ĐKKD không cần giấy phép: Đó là những ngành nghề kinh doanh tuy không đòi hỏi phải có giấy phép nhưng phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường, vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định về phòng cháy, chữa cháy, trật tự an toàn xã hội, giao thông...           Ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ ngành nghề: Chứng chỉ ngành nghề là văn bản được cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc hội nghề nghiệp cấp cho các cá nhân có đủ trình độ chuyên môn và kinh nghiệm về một ngành nghề nhất định. Việc pháp luật quy định chứng chỉ ngành nghề để nhằm bảo vệ quyền lợi của khách hàng trong những trường hợp cần thiết. Thực chất điều kiện về chuyên môn xuất phát từ yêu cầu về bảo vệ lợi ích xã hội trên cơ sở từng ngành nghề kinh doanh nhất định. Đối với ngành nghề kinh doanh đặc thù: Kinh doanh trong lĩnh vực Y tế, Dược, Tư vấn pháp luật...Là những ngành nghề mà sản phẩm của nó khi “bán ra thị trường khách hàng không có khả năng kiểm tra được chất lượng”. Mặt khác, đây cũng là những ngành nghề không phải lúc nào cũng có khả năng đáp ứng cho khách hàng, mà chúng đòi hỏi nhà cung cấp phải có trình độ chuyên môn nhất định thì mới đảm bảo được dịch vụ “bán ra”. Theo quy định của pháp luật hiện hành thì những ngành nghề sau đây đòi hỏi người kinh doanh phải có những chứng chỉ hành nghề: - Kinh doanh dịch vụ pháp lí. - Kinh doanh dịch vụ khám chữa bệnh, kinh doanh dược phẩm. - Kinh doanh dịch vụ thú y, kinh doanh thuốc thú y. - Kinh doanh dịch vụ thiết kế công trình; - Kinh doanh dịch vụ kiểm toán; - Kinh doanh dịch vụ mua giới chứng khoán. Với việc quy định cụ thể vấn đề ngành nghề kinh doanh phải có chứng chỉ ngành nghề, Nhà nước không chỉ tạo ra môi trường đầu tư minh bạch cho sự lựa chọn ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp mà còn dựa vào đó mà có cơ sở để xử lí khi có vi phạm.    ·        Các điều kiện khác Ngoài các điều kiện như đã nêu ra và phân tích ở trên, thì các chủ thể thành lập doanh nghiệp để được ĐKKD còn pahỉ thoả mãn một số điều kiện nhất định khác: + Điều kiện về trụ sở: Trụ sở của doanh nghiệp phải là một địa điểm có thực trong bản đồ hành chính Việt Nam + Điều kiện về tên của doanh nghiệp: Tên của doanh nghiệp không được trùng lặp hoặc gây nhầm lẫn với tên của doanh nghiệp khác đã đăng kí kinh doanh, không đuợc vi phạm truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc.           Tóm lại. Luật doanh nghiệp đã có sự tiến bộ vượt bậc trong việc quy định về các ngành nghề kinh doanh, đã thực hiện sự đột phá vào lĩnh vực hành chính vốn lâu nay đang bị xem là “vật cản”trong tiến trình phát triển, khắc phục được tình trạng lạm dụng giấy phép làm công cụ trong quản lí nhà nước. Các quy định này đã góp phần mở rộng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, đồng thời cũng làm tăng hiệu lực quản lí của Nhà nước. 2. ĐKKD a. Hồ sơ ĐKKD:           Hồ sơ ĐKKD là điều kiện cần và đủ để Nhà nước xem xét, quyết định cho một doanh nghiệp có được ra đời hay không. Để đáp ứng yêu cầu của quyền tự do kinh doanh mà trực tiếp là quyền tự do thành lập doanh nghiệp, pháp luật hiện hành đã quy định theo hướng đơn giản hoá và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư. Về cơ bản việc thành lập doanh nghiệp là do các nhà đầu tư tự quyết định và thành lập, Nhà nớc chỉ can thiệp vào quá trình thành lập doanh nghiệp ở giai đoạn ĐKKD. Do vậy, hồ sơ ĐKKD chủ yếu là các giấy tờ tài liệu do nhà đầu tư tự xây dựng. Theo quy định của Luật doanh nghiệp 2005, thì tuỳ vào loại hình doanh nghiệp mà Nhà nước có những quy định về nội dung về hồ sơ ĐKKD là khác nhau. + Hồ sơ ĐKKD của Doanh nghiệp Tư nhân bao gồm: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan ĐKKD có thẩm quyền quy định. - Bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác. - Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan tổ chức có thẩm quyền đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định. - Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc và cá nhân khác đối với doanh nghiệp kinh doanh ngành nghề mà theo quy địn của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. + Hồ sơ ĐKKD của công ty Hợp danh: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan ĐKKD có thẩm quyền quy định. - Dự thảo Điều lệ công ty; - Danh sách thành viên, bản sao giấy chứng minh nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp của mỗi thành viên. - Văn bằng xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty Hợp danh kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định - Chứng chỉ hành nghề của thành viên hợp danh và các thành viên khác đối với công ty hợp danh kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật quy định phải có chứng chỉ hành nghề; + Hồ sơ ĐKKD của công ty Trách nhiệm hữu hạn bao gồm: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền quy định; - Dự thảo Điều lệ công ty; - Danh sach thành viên và các giấy tờ kèm theo sau đây:           Đối với thành viên là Tổ chức: Bản sao quy định thành lập; giấy chứng nhận ĐKKD hoặc tài liệu tương ứng khác của tổ chức;văn bản uỷ quyền; giấy chứng minh thư nhân dân; hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của đại diện theo uỷ quyền của công ty. Đối với thành viên là tổ chức nước ngoài thì bản sao giấy chứng nhận ĐKKD phải có chứng thực của cơ quan nơi tổ chức đó đã đăng kí không quá 3 tháng trước ngày nộp hồ sơ ĐKKD. Văn bản xác định vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định; Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề. + Hồ sơ ĐKKD của công ty Cổ phần. Đối với công ty Cổ phần thì hồ sơ ĐKKD đựoc quy định tại điều 19 Luật doanh nghiệp 2005, Bao gồm: - Giấy đề nghị ĐKKD theo mẫu thống nhất do cơ quan ĐKKD có thẩm quyền quy định; - Dự thảo Điều lệ công ty; - Danh sách cổ đông sáng lập và các giấy tờ kèm theo sau đây:           Đối với cổ đông là cá nhân: bản sao giấy chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác;           Đối với cổ đông là tổ chức: bản sao quyết định thành lập, giấy chứng nhận ĐKKD hoặc tài liệu tương đương khác của tổ chức; văn bản uỷ quyền, giấy chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu hoặc chứng thực cá nhân hợp pháp khác của người đại diện theo uỷ quyền.           Đối với cổ đông là tổ chức nước ngoài thì bản sao giấy chứng nhận ĐKKD phải có chứng thực của cơ quan tổ chức đó đã đăng kí không quá ba tháng trước ngày nộp hồ sơ ĐKKD. - Văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có vốn pháp định. - Chứng chỉ hành nghề của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và cá nhân khác đối với công ty kinh doanh ngành nghề mà theo quy định của pháp luật phải có chứng chỉ hành nghề.           Như vậy, hồ sơ ĐKKD như hiện nay đã có sự đơn giản hoá tối đa về mặt thủ tục hành chính nhưng lại tương đối chặt chẽ và là cơ sở để tăng cường công tác quản lí Nhà nước và tính tự chịu trách nhiệm của người thành lập doanh nghiệp. Việc áp dụng các quy định này trong thực tiễn thời gian qua đã phát huy nhiều tác dụng tích cực trong đời sống kinh tế xã hội. b. Trình tự, thủ tục ĐKKD. - Hồ sơ ĐKKD theo quy định trên đây sẽ nộp tại phòng ĐKKD cấp Tỉnh ( Phòng ĐKKD thuộc Sở kế hoạch và đầu tư), nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của hồ sơ ĐKKD. Theo quy định của pháp luật trước đây, để thành lập công ty hoặc doanh nghiệp tư nhân thì nhà đầu tư phải thực hiện thủ tục qua hai giai đoạn: Xin phép thành lập và ĐKKD, mà trong mỗi giai đoạn nhà đầu tư cần phải làm rất nhiều cac khác nhau. Cho đến khi Luật doanh nghiệp năm 1999 ra đời và gần đây nhất là Luật doanh nghiệp 2005, thì thủ tục thành lập doanh nghiệp đã trở nên hết sức đơn giản, nhà đầu tư chỉ cần thực hiện một thủ tục duy nhất là ĐKKD tại các cơ quan có thẩm quyền. Thành lập doanh nghiệp là do tự bản thân nhà đầu tư quyết định, đó là quyền của họ mà không một cơ quan tổ chức nào có quyền ngăn cản. Ngoài việc giản lược các quy trình thành lập doanh nghiệp, trong thủ tục ĐKKD cũng có nhiều thay đổi theo hướng đơn giản, gọn nhẹ, nhanh chóng, tạo ra một cơ chế thông thoáng trong thủ hành chính và là động lực thúc đẩy sự ra đời và phát triển của doanh nghiệp. Trình tự, thủ tục ĐKKD được pháp luật quy định cụ thể tại điều 15 LDN 2005, theo đó , việc ĐKKD được tiến hành tại cơ quan ĐKKD (Phòng ĐKKD cấp Tỉnh) qua các bước sau: “1. Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ ĐKKD theo quy định của Luật doanh nghiệp tại cơ quan ĐKKD có thẩm quyền và phải chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của nội dung hồ sơ ĐKKD. 2.Cơ quan ĐKKD có trách nhiệm xem xét hồ sơ ĐKKD và Giấy chứng nhận ĐKKD trong thời hạn mười ngày làm việc, kể từ ngày nhận hồ sơ; nếu từ chối cấp giấy chứng nhận ĐKKD thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết. Thông báo phải nêu rõ lí do và các yêu cầu sửa đổi, bổ sung. 3.Cơ quan ĐKKD xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ khi cấp giấy chúng nhận ĐKKD; không được yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác không quy định trong Luật này. 4.Thời hạn cấp Giấy chứng nhận ĐKKD gắn với dự án đầu tư cụ thể thực hiện theo quy định của pháp luật về đầu tư.” - Nộp hồ sơ ĐKKD.           Hồ sơ ĐKKD là những khai báo về bản thân chủ đầu tư và do chính họ lập ra, do đó, pháp luật quy định cho họ phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực của nội dung hồ sơ ĐKKD trong quá trình ĐKKD và trong suốt thời gian doanh nghiệp hoạt động.   - Tiếp nhận hồ sơ ĐKKD           Tiếp nhận hồ sơ ĐKKD được thực hiện bằng việc cơ quan ĐKKD ghi vào sổ tiếp nhận hồ sơ ĐKKD của cơ quan mình, đồng thời trao giấp biên nhận về việc nhận hồ sơ cho người nhận hồ sơ. Thời điểm tiếp nhận hồ sơ được coi là có căn cứ để xác định thời hạn thực hiện trách nhiệm ĐKKD của cơ quan ĐKKD. Cũng chính vì thế mà giấy biên nhận về việc tiếp nhận hồ sơ là cơ sở pháp lí để nhà đầu tư có thể thực hiện quyền khiếu nại của mình trong trường hợp cơ quan ĐKKD không tiến hành việc ĐKKD theo đúng thời hạn. - Cấp Giấy chứng nhận ĐKKD.           Cơ quan ĐKKD cấp Giấy chứng nhận ĐKKD cho doanh nghiệp nếu: Ngành nghề ĐKKD không thuộc lĩnh vực cấm kinh doanh. Tên doanh nghiệp được đặt theo đúng quy định của pháp luật; Có trụ sở chính theo quy định của pháp luật; Có hồ sơ ĐKKD hợp lệ theo quy định của pháp luật.           Như vậy, doanh nghiệp sẽ không được cấp giấy chứng nhận ĐKKD trong trường hợp nếu ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp thuộc danh mục ngành nghề cấm kinh doanh. Trường hợp người nộp hồ sơ nhưng không nộp đủ hoặc nộp không đủ lệ phí thì   coi như không nộp hồ so ĐKKD và vì vậy cũng không được ĐKKD. Lệ phí ĐKKD được xác định căn cứ vào số lượng ngành nghề ĐKKD; mức lệ phí do Chính phủ quy định.           Sau khi được cấp giấy chứng nhận ĐKKD, doanh nghiệp sẽ được khắc con dấu và được sử dụng con dấu của mình, được quyền thực hiện các hoạt động kinh doanh theo đúng nội dung mà mình đã đăng kí, trừ trường hợp kinh doanh ngành nghề có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được tiến hành kinh doanh sau khi được cơ quan có thẩm quyền   cấp giấy phép kinh doanh kinh doanh hoặc sau khi đã thoả mãn các điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc cấp giấy chứng nhận ĐKKD đã hoàn toàn thừa nhận tư cách chủ thể của doanh nghiệp trên thương trường. Đồng thời, với việc cấp giấy chứng nhận ĐKKD đã chấm dứt vai trò Nhà nước trong giai đoạn “Tiền kiểm” để chuyển sang giai đoạn mới_ giai đoạn “Hậu kiểm”.           Theo  khoản 1 Điều 28 LDN2005: “Trong thời hạn ba mươi ngày kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận ĐKKD, doanh nghiệp phải đăng trên mạng thông tin doanh nghiệp của cơ quan ĐKKD hoặc một trong các loại tờ báo viết hoặc báo điện tử trong ba số liên tiếp về các nội dung chủ yếu sau đây: a. Tên doanh ngiệp... g. Nơi ĐKKD”. Việc đăng báo vừa là để quảng bá sự xuất hiện của doanh nghiệp trên thương trường, vừa là để dảm bảo sự quản lí của Nhà nước đối với hoạt đông của doanh nghiệp. Do vậy, nó vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của doanh nghiệp. c.      Cơ quan có thẩm quyền ĐKKD.           Với quan điểm: vấn đề không phải ở chỗ là nên giao chức năng thẩm quyền cho riêng bộ, ngành nào mà là làm thế nào để nâng cao được hiệu quả giám sát hoạt động của doanh nghiệp,cũng như trong việc tập hợp, lưu trữ và cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp. Vì thế, việc quy định thẩm quyền ĐKKD thuộc về nhiều cơ quan khác nhau như hiện nay có những ưu điểm nhất định.           Theo điều 6 NĐ 88/2006/NĐ-CP ngày 29/8/2006 về ĐKKD thì cơ quan có thẩm quyền ĐKKD được tổ chức ở Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và ở huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc tỉnh. Bao gồm: + Ở cấp Tỉnh: Phòng ĐKKD thuộc sở Kế hoạch và đầu tư (gọi chung là Phòng ĐKKD cấp Tỉnh). + Ở cấp huyện: Thành lập phòng ĐKKD tại các quận, huyện, thị xã, thành phố trực thuộc Tỉnh, có số lượng Hộ kinh doanh và Hợp tác xã đăng kí thành lập mới hàng năm trung bình từ 500 trở lên trong 2 năm gần nhất.           Nhưng bên cạnh những ưu điểm đó thì việc quy định thẩm quyền ĐKKD cho các doanh nghiệp thuộc về nhiều cơ quan khác nhau như vậy sẽ gây ra những khó khăn nhất định cho công tác quản lí Nhà nước về ĐKKD, đặc biệt là khó khăn cho công tác tổng hợp, nắm bắt, theo dõi hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên phạm vi toàn quốc. Chẳng hạn, với tình trạng kết hợp giữa các trong bộ máy nhà nước như hiện nay thì sẽ rất khó khăn để thiết lập được một hệ thống mạng thông tin về ĐKKD trong toàn quốc, phục vụ yêu cầu quản lí cũng như nhu cầu tìm hiểu của người dân. Không những thế, việc phân tán đầu mối cơ quan ĐKKD còn gây ra khó khăn các nhà đầu tư khi muốn kinh doanh.           Nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan ĐKKD là tiếp nhận hồ sơ, xem xét tính hợp lệ của hồ sơ ĐKKD và cấp giấy chứng nhận ĐKKD cho các doanh nghiệp. Ngoài ra, theo quy định tại điều 163 LDN2005 thì cơ quan này còn có những nhiệm vụ và quyền hạn sau: “a. Giải quyết việc ĐKKD và cấp Giấy chứng nhận ĐKKD theo quy định của pháp luật; b. Xây dựng, quản lí hệ thống thông tin doanh nghiệp; cung cấp thông tin cho cơ quan  Nhà nước,tổ chức và cá nhân có có yêu cầu theo quy định của pháp luật... g. Thực hiện các nhiệm vụ và quyền hạn khác theo quy định của Luật này và pháp luật có liên quan.”           Tóm lại, việc quy định nhiệm vụ quyền hạn của cơ quan ĐKKD như trên là điều hợp lí, bởi trong cơ chế mới không còn sự kiểm soát chặt chẽ ở khâu đầu vào như trước kia mà Nhà nước chỉ thực hiện ĐKKD sau đó thực hiện “Hậu kiểm”.           III. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thành lập doanh nghiệp 1. Một số phân tích, nhận xét, đánh giá. Cho đến nay, vẫn chưa có đầy đủ các văn bản hướng dẫn thực hiện các quy định của Luật doanh nghiệp. Do vậy, đã gây trở ngại không chỉ cho cá nhân các doanh nghiệp mà còn làm giảm hiệu lực quản lí của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực: - Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu tên doanh nghiệp, thương hiệu...Nhưng chưa có quy định cụ thể hoá chế định tên doanh nghiệp;mạng thông tin doanh nghiệp vẫn chưa được hình thành đồng bộ. Vì vậy, vấn đề chống trùng tên nhầm tên doanh nghiệp mới chỉ hạn chế trong phạm vi nhỏ - Luật doanh nghiệp quy định phù hợp với nội dung điều 16 Hiến Pháp 1992 về quyền tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Tuy vậy, vẫn còn có trường hợp do pháp luật chuyên ngành chưa có quy định về điều kiện kinh doanh, đã dẫn đến cách xử lí khác nhau của các cơ quan nhà nước trước các ngành nghề kinh doanh mới phát sinh trong thực tiễn của nền kinh tế của đất nước. - Về cơ cấu doanh nghiệp theo địa bàn: Các doanh nghiệp được cấp giấy chứng nhận ĐKKD có sự phân bố không đều giữa các quận, huyện…Các doanh nghiệp ĐKKD chủ yếu đặt trụ sở tại các quận, huyện nội thành. Trong giai đoạn hiện nay, với tốc độ đô thị hóa ở các quận, huyện ngoại thành và đang có xu thế hình thành, thành lập nhiều đơn vị hành chính. Vì thế, bước đầu đã làm tăng số lượng các doanh nghiệp đặt trụ sở ở các huyện ngoại thành. Tuy vậy, số lượng và mật độ các doanh nghiệp đăng kí trụ sở ở trong các quận, huyện nội thành vẫn cao, chiếm tỉ lệ khá lớn. Do đó, nhiều vấn đề khó khăn vướng mắc lien quan đến doanh nghiệp vẫn chưa được chỉ đạo và có phương hướng giải quyết kịp thời.Việc xây dựng, quản lí và cung cấp thông tin về doanh nghiệp cho các cơ quan nhà nước, các tổ chức, cá nhân còn mang tính hình thức; việc phân cấp cho Ủy ban nhân dân cấp quận, huyện tham gia quản lí doanh nghiệp theo địa bàn còn bị hạn chế do thiếu tổ chức, thiếu đội ngũ cán bộ chuyên trách, hay cán bộ còn thiếu chuyên môn nghiệp vụ. - Do chưa có hệ thống cơ quan ĐKKD thống nhất từ trung ương xuống địa phương, nhiều vấn đề nghiệp vụ trong ĐKKD còn chưa được thông suốt, nhất là vấn đề: Đăng kí bảo hộ tên doanh nghiệp; đăng kí về người quản lí và thành lập doanh nghiệp; đăng kí chi nhánh; văn phòng đại diện…Trong ba loại nghiệp vụ này, về bản chất phải được xử lí trên cơ sở thống nhất thông tin trong phạm vi cả nước. Nhưng các quy định pháp luật hiện hành mới chỉ giải quyết một phần ở phạm vi cấp tỉnh. Đồng thời, những tồn tại này  đã và sẽ tạo nên những tranh chấp khiếu nại giữa các doanh nghiệp với cơ quan ĐKKD; giữa các doanh nghiệp với nhau mà không có cơ quan có thẩm quyền và có cơ sở pháp lí để giải quyết.           Đến nay, trên thực tế các cơ quan ĐKKD mới chỉ hoàn thành được một nhiệm vụ là cấp giấy chứng nhận ĐKKD. Hầu hết ở các phòng ban ĐKKD, quá trình cấp giấy phép ĐKKD vẫn thực hiện theo lối thủ công và phương thức truyền thống, nghĩa là cho người ĐKKD phải trực tiếp giao dịch với cán bộ phụ trách ĐKKD với một bộ hồ sơ bằng giấy. Chưa xác định được một hệ thống thông tin về doanh nghiệp đầy đủ, cập nhật và có thể truy cập, kể cả ở cấp quốc gia và ở địa phương. Do vậy. thông tin về các doanh nghiệp đã ĐKKD vẫn chưa được cung cấp một cách có hiệu quả và đầy đủ. Đây là một hạn chế lớn nhất đối với môi trường kinh doanh, hạn chế tính minh bạch, tăng cường độ rủi ro cho thị trường…Đi ngược lại với nguyên tắc “Tiền đăng, hậu kiểm”.          Mặc dù các cải cách về cấp giấy phép kinh doanh mang lại những kết quả thật đáng ghi nhận, song một làn sóng về cấp giấy phép kinh doanh mới đang hình thành và xuất hiện, có nguy cơ làm tổn hại tiêu cực tới môi trường kinh doanh.           Giấy phép thực ra là một hình thức pháp lí cần thiết, không chỉ riêng Việt Nam mà hầu hết tại các quốc gia trên thế giới đều áp dụng để quản lí nền kinh tế phát triển theo những mục tiêu nhất định và vẫn đảm bảo môi trường kinh doanh tốt. Với 300 giấy phép kinh doanh chưa phải là nhiều so với khoảng 2000 giấy phép kinh doanh của Auxtralia, 3000 giấy phép của Mĩ…Nhưng điều quan trọng là những giấy phép đó phải hợp lí để tránh những phiền hà, tiêu cực trong quá trình thực thi, áp dụng rộng rãi.           Như vậy, có thể nói về thực trạng hiện nay là tất cả những nỗ lực có hệ thống, có tổ chức trong cải cách các quy định về cấp giấy phép, ĐKKD khác hầu như đã không còn hoạt động. Trong khi đó, một xu hướng và quán tính tạo ra giấy mới, tạo ra điều kiện áp đặt đối với hoạt động kinh doanh làm công cụ quản lí nhà nước đang phục hồi và đang có xu thế trỗi dậy khá mạnh mẽ. 2.     Những tồn tại vướng mắc cơ bản. Thực tiễn áp dụng Luật doanh nghiệp 2005 trong thời gian qua đã bộc lộ nhiều hạn chế. Đặc biệt là ở các quy định về quản lí Nhà nước đối với doanh nghiệp: chưa có quy định rõ rang và cụ thể về thực hiện và giám sát các điều kiện về ĐKKD__ một khâu trọng tâm của công tác hậu kiểm. - Các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ĐKKD chưa được quy định rõ ràng về vị trí, địa vị pháp lí trong hệ thống cơ quan Nhà nước. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho các cơ quan ĐKKD trên phạm vi cả nước chưa tạo thành một hệ thống thống nhất, vì thế mà hiệu quả hoạt động của các cơ quan ĐKKD chưa cao. - Theo quy định của pháp luật, hiện nay chế định ĐKKD chưa đề cập tới vấn đề cơ quan nào sẽ có trách nhiệm theo dõi, nắm bắt quá trình diễn biến hoạt đọng của doanh ngiệp. Sở Kế hoạch và Đầu tư cấp ĐKKD cho các doanh nghiệp là xong, mà khong có cơ quan nào thường xuyên kiểm tra những biến động về quy mô hoạt động, ngành nghề kinh doanh, tình hình tài chính, lao động, bảo hiểm xã hội và các quyền lợi khác của các doanh nghiệp và người lao động. Chính vì vậy, có những doanh nghiệp ĐKKD một ngành, nhưng lại kinh doanh ngành nghề khác có lợi hơn cho doanh nghiệp, mà Nhà nước hầu như là không nắm được. Có những doanh nghiệp sau khi  được cấp Giấy chứng nhận ĐKKD nhưng lại không đi

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT.doc
Tài liệu liên quan