MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở VIỆT NAM.
1.1. KINH TẾ TƯ NHÂN.
1.1.1. Khái niệm.
1.1.2. Bản chất của kinh tế tư nhân.
1.2 TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA SỰ TỒN TẠI VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH Ở NƯỚC TA.
1.3. BÀI HỌC LỊCH SỬ VỀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN RÚT RA TỪ KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI.
1.3.1. Tư tưởng của LêNin trong thời kỳ chính sách kinh tế mới.
1.3.2. Sự phát triển của kinh tế tư nhân ở Trung Quốc trong bối cảnh hội nhập.
2. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN.
2.1.1. Trước những năm 1986.
2.1.2. Những năm sau 1986.
2.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Những đánh giá chung.
2.2.2. Những thành tựu đã đạt được.
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÓ.
2.3.1. Những vấn đề tồn tại.
2.3.2. Nguyên nhân của tình trạng đó
3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM THÚC ĐẨY SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NỀN KINH TẾ TƯ NHÂN VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CNXH.
3.1. TẠO MÔI TRƯỜNG KINH DOANH THUẬN LỢI
3.2. NHÀ NƯỚC CẦN CÓ NHỮNG BIỆN PHÁP HỖ TRỢ KINH TẾ TƯ NHÂN.
3.3 PHÁT TRIỂN NHỮNG MỐI QUAN HỆ HỢP DOANH
3.4. HƯỚNG KINH TẾ TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN THEO CON ĐƯỜNG TƯ BẢN NHÀ NƯỚC.
3.5. ĐỔI MỚI CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH NHẰM THÚC ĐẨY KINH TẾ TƯ NHÂN PHÁT TRIỂN.
3.6. TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ, KIỂM TRA, GIÁM SÁT CỦA NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC HOẠT ĐỘNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 3024 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hức hợp doanh. Năm 1952, sản lượng của kinh tế tư nhân chiếm 5,7% sản lượng quốc dân. Nhưng sau cách mạng văn hoá 1966, tất cả các doanh nghiệp tư nhân phải đóng cửa. Kinh tế tư nhân không tồn tại trong giai đoạn từ 1966-1979.
Cuối 1988, Trung Quốc có rất nhiều doanh nghiệp tập thể nhưng thực chất là sở hữu tư nhân. Đó là những “ doanh nghiệp đội mũ đỏ” với mục đích núp dưới danh nghĩa tập thể để tránh những ngăn cấm từ phía chính phủ và những phân biệt về tư tưởng hệ. Năm 1988 đánh dấu sự thừa nhận chính thức doanh nghiệp tư nhân ở Trung Quốc. Vào tháng 4-1988 đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc đã thông qua hiến pháp sửa đổi, điều 11 của Hiến pháp này được sửa như sau: “ Nhà nước Trung Quốc cho phép kinh tế tư nhân tồn tại và phát triển trong phạm vi luật pháp quy định. Kinh tế tư nhân là một thành phần bổ sung cho kinh tế nhà nước xã hội chủ nghĩa. Nhà nước bảo vệ quyền và thu nhập hợp pháp của doanh nghiệp tư nhân, có sự hướng dẫn, giám sát, điều chỉnh đối với kinh tế tư nhân.
Từ đó đến nay, Nhà nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Trung Hoa đã dưa ra nhiều chính sách nhằm khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển và trở thành bộ phận quan trọng trong nền kinh tế. Qua đó, đề ra những bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
Phải giải phóng được tư tưởng về sự tiêu cực phát triển kinh tế tư nhân đến nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. Cuộc tranh cãi kéo dài về mặt lý luận rằng kinh tế tư nhân phát triển liệu có làm lệch hướng sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc hay không? Nhưng cuối cùng Hiến pháp sửa đổi năm 1999 đã chính thức thừa nhận tầm quan trọng tương đương nhau của khu vực kinh tế tư nhân và khu vực kinh tế nhà nước.
Thông qua chính sách và pháp luật, Nhà nước phát huy thế mạnh, hạn chế được mặt trái của kinh té tư nhân và hướng nó vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội mang màu sắc Trung Quốc. Tháo gỡ được quan điểm kinh tế tư nhân không đối lập với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa là cơ sở cho việc giải toả tâm lý xã hội và sự kỳ thị, phân biệt đối xử đối với kinh tế tư nhân, tạo niềm tin và sự an tâm cho người dân bỏ vốn đầu tư kinh doanh.
Xây dựng những chính sách và thể chế phù hợp thúc đẩy phát triển đối với doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ như: vốn, nguồn nhân lực, đất đai…
Chính phủ và các hiệp hội doanh nghiệp có vai trò quan trọng thúc đẩy hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân.
2. THỰC TRẠNG CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở NƯỚC TA HIỆN NAY.
2.1. TIẾN TRÌNH PHÁT TRIỂN.
2.1.1. Trước những năm 1986.
Sau khi chiến thắng sự xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng ta đã bắt tay ngay vào việc phát triển kinh tế. Việt Nam đã thử áp dụng kế hoạch tập trung đối với nền kinh tế nông thôn nghèo sau khi thống nhất đất nước năm 1975. Ở Miền Bắc, việc chiến tranh kết thúc và sự quen thuộc đối với nền nông nghiệp tập thể không đem lại nhiều tiến bộ, sản lượng lương thực tăng 22% trong giai đoạn từ 1974 đến 1986, chậm hơn tỷ lệ tăng dân số.Chính sách này cũng không có kết quả tốt đẹp ở miền Nam với nhưng nỗ lực tập thể hóa bị chống đối một cách tiêu cực. Tuy nhiên, việc tăng diện tích trồng các mùa vụ hàng năm lên 30% thông qua những đầu tư vào hệ thống thủy lợi và việc đưa ra nhiều loại giống cải tạo đã đẩy sản lượng gạo năm 1986 tăng mạnh thêm 39% so với năm 1975. Dù vậy lương thực vẫn bị thiếu hụt và lạm phát tăng nhanh. Sản lượng lúa tăng 28% nhưng do dân số trong giai đoạn này tăng 27% nên hầu như không có chút cải thiện nào đối với sản lượng gạo tính theo đầu người. Điều đó hoàn toàn không gây ấn tượng đối với một quốc gia phục hồi từ chiến tranh.
Đặc biệt ở thời kỳ này, kinh tế tư nhân được coi là bộ phận đối lập với kinh tế xã hội chủ nghĩa, vì vậy nằm trong diện cải tạo và tiến tới xóa bỏ. Nhà nước tiến hành cấm các hình thức kinh doanh hộ gia đình, tập trung lại hợp tác xã. Mọi cá nhân trước đây từng làm ăn buôn bán đều bị nghi ngờ là phần tử phản động, có tư tưởng chống đối cách mạng.
2.1.2. Những năm sau 1986.
Sau năm 1986, nhận thức được những sai lầm đã mắc phải trong thời kỳ đầu xây dựng đất nước Đảng và Nhà nước ta đã đưa đất nước bước vào thời kỳ đổi mới.Và có thể nói đó là một thành công lớn của nước ta, đổi mới đã đưa Việt Nam từ một nước nghèo lên một nước đang phát triển hàng đầu. Đổi mới đã giải phóng các lực lượng sản xuất trong toàn bộ dân chúng và trên khắp đất nước, cải thiện hầu hết mọi khía cạnh của đời sống cho hầu hết tất cả mọi người.
Nhưng trong những năm đầu của đổi mới kinh tế tư nhân vẫn không được thừa nhận đúng vị trí, vai trò của nó trong nền kinh tế. Kinh tế tư nhân vẫn bị coi là thành phần tư bản, là thành phần chống phá chủ nghĩa xã hội nên vẫn chưa có điều kiện để phát triển cho xứng với tiềm năng vốn có. Nhà nước vẫn chưa đưa ra những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển. Nên trong giai đoạn này sự phát triển của kinh tế tư nhân rất mờ nhạt, không có gì nổi bật.
Đến đại hội Đảng lần thứ IX, thấy được tính tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần, Đảng và Nhà nước đã nhận rõ vai trò của kinh tế tư nhân đối với sự phát triển của đất nước. Đại hội Đảng khẳng định: “Khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân phát triển rộng rãi, không hạn chế quy mô hoạt động trong những ngành nghề sản xuất kinh doanh có lợi cho quốc kế dân sinh. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển”, “Tạo điều kiện để kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển thuận lợi”, “kinh tế cá thể tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị được nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ để phát triển năng động, có hiệu quả”. Những chính sách đó đã được biểu hiện cụ thể qua sự tăng trưởng các doanh nghiệp tư nhân trên mọi lĩnh vực kinh tế.
Việc “tư nhân hóa” trong lĩnh vực nông nghiệp là một thành công đáng ngạc nhiên, góp phần làm giảm đói nghèo nhiều hơn bất cứ điều gì khác trong thập niên đầu của đổi mới. Tỷ lệ nghèo đói giảm từ khoảng 3/4 xuống dưới 1/4 sau hai thập kỷ, bất chấp sự sụp đổ của Liên bang Xô viết- đối tác viện trợ và thương mại chính của Việt Nam.
Tiếp đó là quyết định năm 1999 và được triển khai vào tháng 1-2000 về việc giảm các rào cản pháp luật đối với công ty tư nhân là một quyết định quan trọng, có thể coi đây là quyết định lớn nhất kể từ sau các cải cách nông nghiệp cuối những năm 1980. Một danh nhân giờ không cần xin sự chấp thuận của một cán bộ để khởi đầu hoạt động kinh doanh hợp pháp nữa mà chỉ còn đăng ký và nộp đơn. Tất nhiên là điều đó cũng không hẳn dễ dàng nhưng các cuộc khảo sát cho thấy thời gian, tiền bạc và tình trạng không rõ ràng xung quanh việc đăng ký kinh doanh mới đã giảm đáng kể. Trong giai đoạn từ 1991-1999 chỉ có duới 5.000 doanh nghiệp mới đăng ký hàng năm, còn trước năm 1991 thì tổng cộng chỉ có 5.000 doanh nghiệp. Phản ứng trong vòng vài năm sau khi thông qua Luật đó đã vượt xa sự mong đợi của gần như tất cả mọi người. Cho đến năm 2005, có trên 120.000 công ty mới đã đăng ký, một tỷ lệ đăng ký hàng năm gấp 6 lần so với những năm 1990! Trong khi một số doanh nghiệp đã tồn tại trước đó như những công ty gia đình rồi mới “xuất hiện” khi đã an toàn hơn, hầu hết các doanh nghiệp khác mới là thật sự. Tất nhiên là cũng nhiều doanh nghiệp trong số đó không còn nữa. Những con số ước tính về tăng trưởng tổng sản phẩm công nghiệp của các công ty tư nhân trong nước điển hình từ 18-24%/năm sau khi Luật Doanh Nghiệp ra đời. Tỷ lệ sản phẩm công nghiệp của lĩnh vực này là 33% trong quý đầu tiên năm 2006, lớn hơn so với tỷ lệ 30% của lĩnh vực nhà nước. Liên quan đến việc làm, có khoảng một triệu người trong các công ty tư nhân chính thức và tập thể (khó phân biệt tư nhân và tập thể trên thực tế nếu không phải trên lý thuyết: tư nhân bao gồm các công ty một chủ, công ty hợp danh và công ty cổ phần). Đến năm 2004, khảo sát về lực lượng lao động cho thấy 3,3 triệu người làm việc trong các công ty tập thể và “tư nhân” ( không phải hộ gia đình). Điều đó có nghĩa là tăng hơn gấp 3 lần trong 5 năm.
Đối với tổng sản phẩm công nghiệp, tỷ lệ của lĩnh vực tư nhân trong nước tăng từ 1/4 năm 2000 lên 1/3 trong quý I năm 2006, còn các lĩnh vực nhà nước và nước ngoài đều giảm với tỷ lệ tương đương. Tỷ lệ tăng trưởng sản phẩm công nghiệp trong lĩnh vực nhà nước nay chỉ còn 15-20%, mặc dù sử dụng nhiều vốn và lao động có trình độ hơn trong lĩnh vực tư nhân. Một lần nữa, việc dựa vào lĩnh vực tư nhân đã có kết quả tốt đẹp đáng kinh ngạc, góp phần tiếp tục giảm đói nghèo và tăng cao hơn nữa tỷ kệ tăng trưởng GDP.
2.2. THỰC TRẠNG KINH TẾ TƯ NHÂN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
2.2.1. Những đánh giá chung.
Chỉ sau mấy năm, khi tư tưởng của đai hội VI được quán triệt trong cuộc sống, khu vực kinh tế tư nhân có những bước phát triển rõ rệt. Nếu quan niệm kinh tế tư nhân gồm các doanh nghiệp tư nhân, các công ty trách nhiệm hữu hạn và các công ty cổ phần được thành lập theo Luật doanh nghiệp thì ta thấy có bước phát triển rất nhanh chóng và trở thành một thành phần kinh tế hết sức quan trọng đối với nền kinh tế nước ta giai đoạn hiện nay.
Đóng gópvào GDP: Khu vực kinh tế tư nhân đã có đóng góp đáng kể vào GDP. Khu vực này đã tạo ra 255,7 nghìn tỷ đồng, chiếm 33.2% tổng GDP ( năm 2003). Trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 8,8%, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chiếm 13,8%.
Vốn đầu tư : Hiện nay doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng đầu tư 26,7% toàn xã hội. Đặc biệt, sau 6 năm áp dụng Luật Doanh Nghiệp 1999, đã có 26 tỷ USD vốn nội địa được huy động.
Thu hút lao động: Lao động làm việc trong khối doanh nghiệp năm 2000 chiếm 11,3% tổng số lao động toàn xã hội đang tham gia làm việc và tăng lên 13% trong năm 2001.Trong những năm gần đây, số doanh nghiệp tăng nhanh đã giải quyết được nhiều việc làmcho người lao động. Tại thời điểm 01-01-2003 là 4,658 triệu lao động. Bình quân mỗi năm gần 700 nghìn lao động, là con số đáng kể trong giải quyết yêu cầu tạo ra việc làm mới cho toàn xã hội.
Về cơ cấu : Những năm 1991-1996 trong tổng số 17.442 cơ sở thì lĩnh vực thương mại dịch vụ có khoảng 6.802 cơ sở chiếm tỷ trọng 39%, lĩnh vực công nghiệp chế biến có 6.105 cơ sở chiếm tỷ trọng 35%, các lĩnh vực khác có 4.534 cơ sở chiếm 26%. Trong những năm 1997-1998 có sự chuyển biến theo hướng các doanh nghiệp thương mại dịch vụ tăng (trong tổng số 26.021 doanh nghiệp thì các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ có 12.753 cơ sở chiếm 49%). Với các vùng : loại hình doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh và tập trung nhiều nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long 40%, ở đồng bằng sông Hồng là 33% và ở Đông Nam Bộ là 25%. Các công ty cổ phần phát triển mạnh ở Đông Nam Bộ là 54% và ở đồng bằng sông Hồng là 23%.
2.2.2. Những thành tựu đã đạt được.
Trong lĩnh vực nông nghiệp:
Cùng với sự đổi mới kinh tế hợp tác, sự ra đời của Luật doanh nghiệp đã có tác động mạnh mẽ đến nông nghiệp của nước ta. Kinh tế hộ gia đình, kinh tế trang trại, các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động có tính chất công nghiệp ở nông thôn phát triển mạnh mẽ, tạo sự thay đổi to lớn bộ mặt của nhiều vùng nông thôn. Nếu như năm 1990, số lượng các hộ cá thể có khoảng 9,4 triệu họ thì đến năm 1995 đã lên tới 11.974.595 hộ hoạt động trên gần 9000 xã trong khắp 7 vùng sinh thái. Trong đó số hộ nông nghiệp là 9.528.896 hộ: hộ lâm nghiệp là 18.456 hộ; hộ thủy sản là 229.909 hộ; hộ công nghiệp là 160370 hộ; hộ xây dựng là 31.914 hộ; hộ thuơng nghiệp là 384.272 hộ; hộ dịch vụ là 14.165 hộ. Trong các hộ đó, nhóm hộ côngnghiệp chiếm tỷ trọng lớn nhất. Đây thực sự là lực lượng kinh tế mạnh thể hiện ở những mặt sau đây:
Chỉ trong thời gian ngắn, các hộ nông dân đã mua sắm các trang thiết bị hiện đại, tăng cường cơ sở vật chất kỹ thuật cho nông nghiệp lên một bước: các nông dân mua sắm thêm được 109.483 máy phát điện, 9088 động cơ điện, 36011 động cơ chạy xăng, 97808 máy tuốt lúa.
Nông dân đã bỏ vốn ra lập trên 110.000 trang trại trong đó riêng tỉnh phía Bắc 67.000 trang trại. Trang trại là những tổ chức kinh tế nằm trong khu vực kinh tế tư nhân nhằm đưa sản xuất nông nghiệp lên trình độ sản xuất hàng hóa với số vốn khá lớn, vốn bình quân của một trang trại là 291,43 triệu đồng. Các trang trại đã tạo ra một lượng hàng hóa lớn với tỷ trọng hàng hóa là 86,74% tạo việc làm cho 60 vạn lao động, với mức tiền công hàng tháng là 434,29 ngàn đồng.
Có thể nói khu vực kinh tế tư nhân trong nông nghiệp thời gian qua đã góp phần xứng đáng vào thành tích của ngành nông nghiệp nói chung: tạo ra gần 1/4 tổng sản lượng của Việt Nam và 30% kim ngạch xuất khẩu (bao gồm cả thủy sản). Theo cục thống kê, nếu như năm 1990 nông nghiệp chiếm 30% GDP của Việt Nam thì năm 1999 nông nghiệp chiếm tỷ trọng 24% GDP.
Trong lĩnh vực công nghiệp.
Với cơ chế mới khu vực kinh tế tư nhân cũng thâm nhập mạnh mẽ vào lĩnh vực công nghiệp. Toàn bộ khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp ( bao gồm các doanh nghiệp hộ gia đình, các doanhnghiệp vừa và nhỏ trong nước, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ) đã đưa phần đóng góp vào sản lượng công nghiệp cả nước từ 37% năm 1990 lên 58% năm 2000, trong đó đóng góp quan trọng nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực dầu khí và lĩnh vực công nghiệp chế tạo (khu vực kinh tế tư nhân trong năm 2000 chiếm 22,7%; khu vực đầu tư nước ngoài chiếm 35,2%). Khu vực kinh tế tư nhân trong nước mà đặc biệt là các doanh nghiệp hộ gia đình có vai trò quan trọng trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo (năm 1999 có 600.000 doanh nghiệp hộ gia đình nhỏ hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp chế tạo, chiếm 1/4 số doanh nghiệp rất nhỏ, đóng góp 28% giá trị gia tăng trong công nghiệp chế tạo. Ngoài ra còn 5.600 doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng hoạt động trong ngành công nghiệp chế tạo và tạo ra 10% GDP của ngành công nghiệp.
Vai trò của khu vực kinh tế tư nhân trong công nghiệp sẽ còn tăng hơn nữa vì những đổi mới trong thể chất rất mạnh với những bộ luật mới ra đời từ năm 1998 đến nay, nhất là Luật doanh nghiệp và Luật đầu tư nước ngoài.
Trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ.
Đây là khu vực kinh tế tư nhân hoạt động sôi nổi nhất lấn át cả khu vực quốc doanh. Số lượng tăng lên nhanh chóng: năm 1986 là 56,8 vạn hộ, đến năm 1995 đã đến 94 vạn hộ, với tổng mức bán lẻ năm 1987 là 59% đến năm 1991 là 74,9%.
Về mặt số lượng và cơ cấu: Tính đến 1/1/1995 số hộ cá thể trong cả nước là 1.882.798 hộ, trong đó riêng lĩnh vực thương mại và khách sạn là 940.994 hộ. Tuy nhiên số lượng hộ phân bố không đều, tập trung nhiều ở các thành phố lớn: Thành phố Hồ Chí Minh có 12 vạn hộ; thủ đô Hà Nội có 7,6 vạn hộ; An Giang có 7,5 vạn hộ ...
Về mặt lao động: Lĩnh vực thương mại và dịch vụ tư nhân là nơi thu hút lao động và giải quyết công ăn việc làm. Tỷ trọng lao động thương nhân cá thể từ chỗ chỉ chiếm 68,7% lao động thương nghiệp xã hội năm 1990 đã lên đến 84,7% năm 1995. Ngành giao thông vận tải tư nhân đã huy động đến 267.700 lao động.
Về doanh số hoạt động: Tổng mức bán lẻ của thương nghiệp tư nhân đã tăng 66,9% lên 75,1% và thương nghiệp quốc doanh giảm từ 30,4% xuống còn 23,7%. Giao thông vận tải tư nhân đã đảm nhận 63,5% khối lượng hàng hóa vận tải và 74,5% khối lượng hành khách, tạo ra 989,8 tỷ đồng. Đã có trường hợp tư thương cá thể lấn át thương nghiệp quốc doanh và hợp tác xã mua bán. Ví dụ: ở tỉnh An Giang tính đến tháng 10/1997 cả tỉnh có 3 hợp tác xã với số vốn chưa đầy 1 tỷ đồng trong khi toàn tỉnh có 21.979 hộ kinh doanh thương mại cá thể với tổng số vốn đăng ký 112 tỷ đồng chiếm 98,38% tổng mức bán lẻ toàn tỉnh.
Về đóng góp vào nguồn chi ngân sách: Tổng số thuế nộp vào ngân sách Nhà nước đã tăng từ 908 tỷ đồng( năm 1991) lên 5180 tỷ đồng ( năm1995)
Trong lĩnh vực thương mại dịch vụ, còn phải kể đến vai trò của kinh tế tư nhân nhân trong xuất nhập khẩu. Tỷ trọng của khu vực doang nghiệp tư nhân trong nước, trong giá trị xuất khẩu không kể dầu lửa đã tăng từ 12% trong năm 1997 lên 22% vào giữa năm 2000 và tỷ trọng giá trị nhập khẩu đã tăng từ 4% lên tới 16%. Nếu tính cả doanh nghiệp đầu tư nước ngoài thì khu vực doanh nghiệp tư nhân đã đóng góp trong xuất khẩu là 35% năm 1997 và 54% giữa năm 2000.
Trong xây dựng kết cấu hạ tầng
Với chiến lược phát triển kinh tế xã hội 10 năm, Chính phủ đã đề ra chương trình với rất nhiều kỳ vọng về xây dựng kết cấu hậ tầng, bao gồm những chương trình lớn về phát triển đường sắt, đường bộ và hệ thống cầu qua sông, đường hàng không với hệ thống các sân bay quốc tế và nội địa.Kết cấu hạ tầng có vị trí quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giải quyết những vấn đề xã hội nhưng để có kết cấu hạ tầng phát triển như kế hoạch của Chính phủ thì cần có nguồn vốn rất lớn mà nếu chỉ Nhà nước thì không đủ sức thực hiện. Những chỉ số sau đây cho thấy rõ điều đó: số vốn đầu tư cho ngành năng lượng hàng năm xấp xỉ 2-2,5 tỷ USD, trong đó nhàng điện dự định cấn số vốn đầu tư trung bình hàng năm là 1,5-2 tỷ USD mà 52-58% dành cho sản xuất điện và 42-48% dành cho truyền tải và phân phối điện. Vì kết cấu hạ tầng ngành năng lượng của Việt Nam rất lạc hậu nên phải dành 5,3-5,5% GDP đầu tư cho lĩnh vực này. Như vậy, việc thu hút sự tham gia của khu vực kinh tế tư nhân trong xây dựng kết cấu hạ tầng là hết sức quan trọng.
2.3. NHỮNG VẤN ĐỀ CÒN TỒN TẠI VÀ NGUYÊN NHÂN CỦA NHỮNG VẤN ĐỀ ĐÓ.
2.3.1. Những vấn đề tồn tại.
Mặc dù giữ vai trò, vị trí quan trọng song hiện nay khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn nhiều hạn chế, điều này thể hiện trên các mặt sau:
Số lượng doanh nghiệp : Cho đến cuối năm 2005 Việt Nam có khoảng 220.000 đến 250.000 doanh nghiệp. Tuy nhiên, số doanh nghiệp thưc sự còn hoạt động ít hơn nhiều so với con số doanh nghiệp cấp được đăng ký kinh doanh. Tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam trên số doanh nghiệp đăng ký không cao. Ở một số địa phương, số lượng doanh nghiệp bị thu hồi giấy phép đăng ký kinh doanh và giải thể khá lớn. Trong một nền kinh tế thị trường tự do cạnh tranh, việc dừng kinh doanh cũng như đăng ký kinh doanh mới là hiện tượng bình thường, song điều đáng nói ở đây là nhiều doanh nghiệp thành lập chỉ là doanh nghiệp ma để mua hóa đơn đỏ.
Quy mô doanh nghiệp còn nhỏ và phân tán : Mặc dù số lượng lớn và tăng nhanh trong thời gian gần đây song quy mô của hầu hết doanh nghiệp còn rất nhỏ. Theo só liệu điều tra doanh nghiệp ( Tổng cục thống kê 2000-2004), quy mô vốn bình quân của doanh nghiệp chỉ đạt 22,5 tỷ đồng. Tỷ lệ doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng chiếm 86,06% (trong đó dưới 5 tỷ đồng chiếm 78,43%), từ 10 đền dưới 50 tỷ đồng chiếm9,23%; từ 50 đến 200 tỷ đồng chiếm 3,4%; trên 200 tỷ đồng chiếm 1,2%. Doanh nghiệp có vốn trên 500 tỷ đồng ( tương đương 32 triệu USD trở lên) chưa phải là lớn nhưng cũng chỉ chiếm gần 0,4%. Xét theo quy mô lao động, quy mô doanh nghiệp nước ta cũng chỉ đạt 77 lao động/doanh nghiệp và có tới 81,58% số doanh nghiệp có quy mô dưới 50 người ( trong đó dưới 10 lao động chiếm 46,6%).
Hiệu quả sản xuất kinh doanh: Hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung còn thấp. Doanh thu thuần trên vốn của toàn doanh nghiệp chỉ đạt mức 84,2% và tỷ suất lợi nhuận trên tổng vốn kinh doanh đạt 4,09%. Theo số liệu từ kết quả điều tra nói trên, tỷ trọng vốn ấy trong tổng vốn còn chiếm tới 67,2%. Rõ ràng là hoạt động tài chính của khu vực kinh tế tư nhân vốn đã kém hiệu quả, song còn tiềm ẩn những nhân tố thiếu an toàn trong nguồn vốn kinh doanh. Số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thua lỗ vẫn còn tới 20,86% v à có xu hướng tăng lên (con số này ở các năm 2001,2002,2003 lần lượt là 19,39%; 19,76% và 23,26%).
Tính liên kết giữa các doanh nghiệp còn thấp: Tính liên kết thấp này có thể thấy qua sự liên kết giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp thuần túy vốn trong nước. Các doanh nghiệp thuần túy vốn trong nước sản xuất sản phẩm trung gian cung cấp cho doanh nghiệp FDI để sản xuất ra thành phẩm cuối cùng. Trong thời gian qua các doanh nghiệp FDI có khuynh hướng dùng nguyên liệu và bán thành phẩm từ nhập khẩu.Chẳng hạn như ngành dệt may, theo điều tra của CIE, vào năm 2002, vẫn còn tới hơn 2/3 số doanh nghiệp FDI dùng nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng may mặc. Hay như ngành xe máy- ngành có tỷ lệ nội địa hóa cao với việc dùng linh kiện và sản phẩm trung gian khác sản xuất tại Việt Nam, nhưng các linh kiện đó chủ yếu là do sản xuất trong nội bộ nhà máy mua từ các doanh nghiệp FDI khác. Điều đó hàm ý rằng đi cùng với việc huy động vốn các doanh nghiệp FDI cần có chính sách phát triển cho các doanh nghiệp phụ trợ để ngày càng có nhiều doanh nghiệp trong nước có điều kiện liên kết với các doanh nghiệp FDI.
2.3.2. Nguyên nhân của tình trạng đó
Về thái độ xã hội: Trong một thời gian dài chúng ta chỉ coi trọng kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể, coi thường thậm chí thành kiến với kinh tế tư nhân dẫn đến coi thường cả những người tham gia trong hoạt động này. Từ thái độ tiêu cực trong nhận thức dẫn dến thái độ đối xử không đúng với thành phần tư nhân và cả những con người trong khu vực đó.Từ thái độ kỳ thị của xã hội dẫn đến thái độ thành kiến, e dè của bộ máy hành chính.
Về nguồn lực tài chính: Sau một thời gian dài của cơ chế bao cấp, lại không được khuyến khích phát triển nên tình trạng thiếu vốn của các doanh nghiệp tư nhân là chuyện phổ biến, trong khi đó hệ thống tín dụng cũng chưa chuyển đổi phù hợp đã cản trở việc hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này. Bên cạnh đó cũng phải kể đến các thể chế chính sách khác có liên quan đến vấn đề vốn như chính sách đất đai, việc thế chấp quyền sử dụng đất hoặc tài sản để vay vốn cũng chưa được hoàn chỉnh.
Về môi trường kinh doanh: Còn nhiều cản trở đối với các doanh nghiệp. Nguyên nhân chủ yếu của vấn đè này là do những thủ tục quá phức tạp của bộ máy hành chính; sự không thống nhất, chồng chéo giữa các thủ tục đã gây khó khăn cho các doanh nghiệp; tình trạng quan liêu, tham nhũng, cửa quyền của bộ máy quản lý. Những điều đó được thể hiện cụ thể như sau:
Thủ tục đăng ký kinh doanh : Tuy thủ tục cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh đã được rút ngắn đáng kể, song vẫn còn phức tạp. Đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính đầu tiên của doanh nghiệp khi gia nhập thị trường. Hiện nay, thủ tục gia nhập thị trường của doanh nghiệp được thực hiện ở nhiều cơ quan khác nhau.Một doanh nghiệp muốn khởi sự kinh doanh phải đăng ký kinh doanh tại cơ quan đăng ký kinh doanh; sau đó đăng ký mã số thuế và đăng ký khắc dấu tại công an.Theo báo cáo về môi trường kinh doanh toàn cầu năm 2005 của Ngân hàng Thế giới, ở Việt Nam, để hoàn thành thủ tục đăng ký cần gần đến 50 ngày, trải qua 3 thủ tục chính và 6 thủ tục phát sinh đi kèm. Trong đó 3 thủ tục kéo dài thời gian nhất là cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh ( 10 ngày), khắc dấu (10 ngày), đăng ký mã số thuế và mua hóa đơn( 15 ngày). Nhưng những vướng mắc sau thủ tục đăng ký kinh doanh không chỉ phức tạp và mất nhiều thời gian làm thủ tục đăng ký kinh doanh mà vẫn còn nhiều tồn tại sau đó nữa. Báo cáo gần đây của CIEM-GTZ lại cho thấy các thủ tục hành chính sau đăng ký kinh doanh là rào cản cho việc thực hiện ý tưởng kinh doanh. Để thực hiện được một ý tưởng kinh doanh, doanh nghiệp sẽ phải hoàn tất 13 thủ tục hành chính với tổng thời gian là 260 ngày. Ngoài ra giấy phép kinh doanh và các điều kiện kinh doanh khác ngày càng tăng cũng là một trở ngại lớn.
Chi phí đầu vào cao: Nhìn chung, Việt Nam có thể có lợi thế về chi phí kinh doanh thấp hơn các nước trong khu vực. Nhưng đi sâu vào những chỉ tiêu cụ thể lại có những kĩnh vực mà Việt Nam đắt đỏ hơn nhiều. Cuộc điều tra đầu năm 2006 của tổ chức xúc tiến thương mại Nhật Bản (JETRO) cho thấy, các chi phí đầu vào hiện đang còn cao, bao gồm chi phí vận tải, thuê văn phòng, đóng góp an sinh xã hội và thiết bị sản xuất. Chẳng hạn cước vận chuyển container 40 feet từ hải cảng chính của Việt Nam là Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh tới cảng Yokohama tại Nhật Bản thường đắt hơn nhiều nước trong khu vực. Tính trung bình thì cước vận chuyển ở Việt Nam trong năm 2005 vẫn ở mức không cạnh tranh so với các nước trong khu vực, bất chấp nỗ lực giảm giá của các nhà dịch vụ Việt Nam trong năm qua.
Tiếp cận đất đai: Đây vẫn là một mối lo lắng lớn của khu vực doanh nghiệp tư nhân Việt Nam. Một doanh nghiệp phải mất 230 ngày và 7 thủ tục để có được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay thuê đất. Hệ quả tất yếu là nhiều doanh nghiệp đang sử dụng đất cũng không có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khoảng 70% các giao dịch chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện ở thị trường ngầm. Do vậy các tài sản chuyển nhượng này sẽ không được thế chấp tại ngân hàng để vay tiền, tức là sẽ hạn chế khả năng tiếp cận tài chính và cơ hội phát triển của doanh nghiệp. Thiếu chứng nhận quyền sử dụng đất và các biện pháp bảo đảm đi kèm, doanh nghiệp sẽ đầu tư ít đi, còn ngân hàng cho vay dè dặt hơn. Cần phải có nỗ lực lớn để Luật đất đai thi hành có hiệu quả, tiếp tục đơn giản hóa thủ tục hành chính và giảm thiểu chi phí không thật sự cần thiết về đất đai.
Hệ thống pháp luật vẫn còn là một cản trở lớn: Cho đến nay hệ thống pháp luật của Việt Nam vẫn còn một số vấn đề có tác động không thuận lợi lên môi trường kinh doanh. Hệ thống pháp luật và chính sách về kinh doanh hiện nay còn nhiều mâu thuẫn và thiếu đồng bộ. Mâu thuẫn không chỉ tồn tại trong bản thân các luật và chính sách mà còn xuất hiện thêm khi các luật và chính sách mới ra đ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Phát triển kinh tế tư nhân trong thời kì quá độ lên CNXH ở Việt Nam.DOC