MỤC LỤC
A. Lời mở đầu 1
B. Nội dung 2
I. LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT- QUAN HỆ SẢN XUẤT- QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ GIỮA HỢP QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT 2
1.Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất 2
1.1.Lực lượng sản xuất 2
1.2.Quan hệ sản xuất 4
2. Quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 6
2.1. Tính chất của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất 6
2.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất 7
2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với LLSX 7
II. SỰ VẬN DỤNG CỦA ĐẢNG TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 10
1. Sự vận dụng của Đảng 10
1.1. Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. 10
1.2. Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH-HĐH đất nước 11
2. Thành tựu và hạn chế 12
2.1. Thành tựu đạt được 12
2.2. Hạn chế 16
C. Kết luận 18
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1681 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Sự vận dụng quy luật này của Đảng ta trong giai đoạn hiện nay, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàm lượng trí tuệ của lao động ngày càng cao. Ngày nay, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, lao động trí tuệ ngày càng đóng vai trò chủ yếu.
Cùng với người lao động công cụ lao động cũng là một yếu tố cơ bản trong lực lượng sản xuất đóng vài trò quyết định trong tư liệu sản xuất. Công cụ lao động do con người tạo ra, nó "Nhân" sức mạnh của con người trong quá trình lao động sản xuất. Công cụ lao động là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất. Cùng với quá trình tích luỹ kinh nghiệm, với những phát minh và sáng chế kỹ thuật, công cụ lao động không ngừng được cải tiến và hoàn thiện. Chính sự cải tiến và hoàn thiện không ngừng công cụ lao động đã làm biến đổi toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét đến cùng đó là nguyên nhân sâu xa của mọi biến đổi xã hội. Trình độ phát triển của công cụ lao động là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là tiêu chuẩn phân biệt các thời đại kinh tế trong lịch sử.
Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, khoa học đóng vai trò ngày càng to lớn. Sự phát triển khoa học gắn liền với sản xuất và là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sản xuất phát triển. Ngày nay, khoa học đã phát triển đến mức độ trở thành nguyên nhân trực tiếp của nhiều biến đổi to lớn trong sản xuất, trong đời sống và trở thành "lực lượng sản xuất trực tiếp". Những phát minh khoa học trở thành điểm xuất phát ra đời những ngành sản xuất mới, những máy móc thiết bị mới, công nghệ mới, nguyên vật liệu mới, năng lượng mới. Sự thâm nhập ngày càng sâu của khoa học vào sản xuất, trở thành 1 yếu tố không thể thiếu được của sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất có bước phát triển nhảy vọt, tạo thành cuộc cách mạng khoa học và cách mạng hiện đại. Yếu tố trí lực trong sức lao động đặc trưng cho lao động hiện đại không còn là kinh nghiệm và thói quen của họ mà là tri thức khoa học. Có thể nói: khoa học và công nghệ hiện đại là đặc trưng cho lực lượng sản xuất hiện đại.
Nước ta từ trước tới nay nền kinh tế lấy nông nghiệp là chủ yếu, trình độ khoa học kỹ thuật kém phát triển. Công cụ sản xuất của ta vừa nhỏ, vừa lạc hậu so với trình độ phát triển chung trên thế giới. Thực tế trong nhiều ngành sản xuất thủ công vẫn là chủ yếu, lao động thủ công chiếm tỉ lệ cao, cơ giới hoá vẫn còn chưa phát triển. Mặt khác, trong 1 thời gian khá dài, lực lượng sản xuất bị kìm hãm trong lối suy nghĩ bảo thủ, trì trệ. Chính bởi vậy, Đại hội Đảng 6 đặt ra nhiệm vụ "Giải phóng mọi năng lực sản xuất hiện có, khai thác mọi khả năng tiềm tàng của đất nước, sử dụng có hiệu quả giúp đỡ của quốc tế để phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất". Chúng ta đang ở trong giai đoạn mà cách mạng khoa học kỹ thuật trên thế giới phát triển một cách mạnh mẽ, nó đòi hỏi chúng ta tiếp thu cái mới một cách nhanh chóng để phát triển nguồn lực bên trong. Hiện nay nước ta đang tiến dần lên với tự động hoá, lực lượng lao động có trình độ, có khả năng vận hành máy móc, tay nghề thành thạo, được đào tạo căn bản đang dần tăng lên. Cùng với sự đầu tư máy móc thiết bị tiên tiến, Việt Nam hy vọng có thể thay đổi căn bản trình độ lực lượng sản xuất.
1.2. Quan hệ sản xuất
Quan hệ sản xuất là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất (sản xuất và tái sản xuất xã hội). Do con người không thể tách khỏi cộng đồng nên trong quá trình sản xuất phải có những mối quan hệ với nhau. Vậy việc phải thiết lập các mối quan hệ trong sản xuất tự nó đã là một vấn đề có tính quy luật. Nhìn tổng thể, quan hệ sản xuất gồm 3 mặt.
- Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, tức là quan hệ giữa người với tư liệu sản xuất, nói cách khác là tư liệu sản xuất thuộc về ai?
- Quan hệ trong tổ chức quản lý sản xuất, tức là quan hệ giữa người với người trong sản xuất và trao đổi của cải vật chất như: phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động, quan hệ giữa người quản lý và công nhân
- Quan hệ trong phân phối sản phẩm sản xuất ra, tức là quan hệ chặt chẽ giữa sản xuất và sản phẩm với cùng một mục tiêu chung là sử dụng hợp lý và có hiệu quả tư liệu sản xuất.
Quan hệ sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó hình thành một cách khách quan trong quá trình sản xuất, không phụ thuộc theo ý muốn chủ quan của con người. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của sản xuất, giữa 3 mặt của quan hệ sản xuất thống nhất với nhau, tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động và phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.
Trong 3 mặt của quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu với tư liệu sản xuất là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, đặc trưng cho quan hệ sản xuất trong từng xã hội. Nó quyết định quan hệ về tổ chức quản lý sản xuất, quan hệ phân phối sản phẩm cũng như các quan hệ sản xuất khác (sự phát triển của nhân loại đã chứng kiến có 2 loại hình sở hữu cơ bản về tư liệu sản xuất; sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân là loại hình sở hữu trong đó tư liệu sản xuất tập trung vào tay một số ít người, còn đại đa số không có hoặc có rất ít tư liệu sản xuất. Vì vậy quan hệ giữa người với người trong sản xuất vật chất và trong đời sống xã hội là quan hệ thống trị và bị trị, bóc lột và bị bóc lột. Sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà trong đó tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên trong cộng đồng. Nhờ đó, quan hệ người với người là quan hệ bình đẳng, hợp tác và giúp đỡ nhau.
Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất trực tiếp tác động đến quá trình sản xuất, đến tổ chức, điều khiển quá trình sản xuất. Nó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm quá trình sản xuất. Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất do quan hệ sở hữu quyết định và nó phải thích ứng với quan hệ sở hữu. Tuy nhiên, cũng có quan hệ tổ chức và quản lý không thích ứng với quan hệ sở hữu, làm biến dạng quan hệ sở hữu.
Quan hệ phân phối sản phẩm sản xuất ra mặc dù do quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất và quan hệ tổ chức quản lý sản xuất chi phối, song nó kích thích trực tiếp đến lợi ích của con người, tác động đến thái độ của con người trong lao động sản xuất, và do đó có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sản xuất phát triển.
ở nước ta vừa tồn tại quan hệ sản xuất mở của quá trình đi lên chủ nghĩa xã hội vừa tồn tại quan hệ sản xuất tàn dư của xã hội cũ. Chúng ta quan niệm chưa đúng về quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm chưa hợp lý. điều đó khiến nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển. Muốn phát triển, Đảng và Nhà nước cần xác định rõ quan hệ sở hữu cần thiết của quá trình đổi mới, tổ chức quản lý sản xuất (đặc biệt là sự phân công chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động) một cách khoa học, phân phối sản phẩm mở rộng. Đó chính là xây dựng một quan hệ sản xuất lý tưởng trong tình hình hiện tại của nước ta.
2. Quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
Quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất: lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là hai mặt không tách rời nhau của phát triển sản xuất. Chúng tác động lẫn nhau một cách biện chứng và quy định vai trò quyết định của phương thức sản xuất đối với sự hình thành và phát triển của những cơ cấu sản xuất . Do đó mối liên hệ này được gọi là quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với tổ chức và trình độ của lực lượng sản xuất. Quy luật này chỉ ra sự phụ thuộc tất yếu khách quan của quan hệ sản xuất vào lực lượng sản xuất và sự tác động trở lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Bản chất của quy luật này là sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất.
2.1. Tính chất của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất
Tính chất của lực lượng sản xuất là tổ chức của tư liệu lao động và của lao động, đó là tính chất cá thể hay tính chất xã hội của chúng. Còn trình độ của lực lượng sản xuất là sự phát triển của công cụ lao động, của kỹ thuật kinh nghiệm và kỹ năng biểu hiện thông qua quy mô cơ cấu sản xuất, phân công lao động. Tổ chức của l sản xuất liên hệ chặt chẽ với trình độ của lực lượng sản xuất. Trình độ của lực lượng sản xuất càng cao thì phân công lao động xã hội càng sâu sắc, do đó tính chất xã hội của nó càng cao.
2.2. Lực lượng sản xuất quyết định quan hệ sản xuất
Lực lượng sản xuất là nội dung còn quan hệ sản xuất là hình thức trong phát triển sản xuất. Nội dung quyết định hình thức.
Lực lượng sản xuất là yếu tố động, cách mạng trong phương thức sản xuất vì trong quá trình lao động con người không ngừng cải tiến công cụ do kinh nghiệm luôn được tích lũy, do nhu cầu sản xuất không ngừng tăng lên. Trong khi đó quan hệ sản xuất có khuynh hướng bảo thủ, ổn định. Do đó những thay đổi của phát triển sản xuất đều bắt nguồn sâu xa trước hết là sự tự biến đổi của lực lượng sản xuất.
Lực lượng sản xuất quyết định sự phân công lao động xã hội do đó quyết định quan hệ giữa các tập đoàn người về mặt sở hữu tư liệu sản xuất thông qua quyết định quá trình tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm.
Khi lực lượng sản xuất phát triển mâu thuẫn với quan hệ cũ đang kìm hãm nó,thì nó đòi hỏi phải được thay thế bằng quan hệ sản xuất mới phù hợp để cho sản xuất phát triển. Như vậy sự thay thế quan hệ sản xuất này bằng quan hệ sản xuất khác do lực lượng quy định chứ không phải do quan hệ sản xuất.
Khi ảnh hưởng sản xuất mới thay thế quan hệ sản xuất cũ thì phát triển sản xuất cũ kết thúc và phương thức sản xuất mới ra đời.
2.3. Tác động ngược lại của quan hệ sản xuất đối với lực lượng sản xuất. Quan hệ sản xuất không chịu sự tác động của lực lượng sản xuất một cách thụ động mà có tác động trở lại đối với lực lượng sản xuất.
Trước hết quan hệ sản xuất là mặt không thể thiếu của phát triển sản xuất lực lượng sản xuất không thể tồn tại, phát triển ở bên ngoài quan hệ sản xuất, nó là hình thức tất nhiên của phương thức sản xuất. Quan hệ sản xuất có thể tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm lực lượng sản xuất.
Khi quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất thì nó mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển bằng cách nó sắp xếp các yếu tố của lực lượng sản xuất đúng vị trí, chức năng của chúng,làm cho chúng phát huy được tính năng, tác dụng của chúng. Nhưng khi quan hệ sản xuất phù hợp không phù hợp với lực lượng sản xuất thì trở thành xiềng xích trói buộc đối với lực lượng sản xuất làm cho chúng không phát huy tác dụng. Sự không phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất có thể xảy ra theo 2 xu hướng vượt quá hoặc lạc hậu so với lực lượng sản xuất.
Quan hệ sản xuất xác định mục đích xã hội của nền sản xuất nào, tổ chức sản xuất được tiến hành vì lợi ích của tập đoàn sản xuất nào, tổ chức sản xuất vì lợi ích nào và phân phối, sản phẩm có lợi cho ai. Như thế có nghĩa là mọi mặt của quan hệ sản xuất đều ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực đến lực lượng sản xuất trực tiếp.
Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với lực lượng sản xuất là quy luật chung cơ bản của quá trình lịch sử loài người. Nó tác động trong những giai đoạn lịch sử cơ bản của xã hội, là nguyên nhân căn bản của sự hình thành và phát triển ổn định của những cấu trúc kinh tế xã hội xác định trong lịch sử. Đồng thời cũng là nguyên nhân của những bước chuyển lịch sử cơ bản từ giai đoạn lịch sử này sang giai đoạn khác.Từ phát triển sản xuất nguyên thủy sang phát triển sản xuất chiếm hữu nô lệ, tiếp theo là phương thức phong kiến rồi sang phương thức tư bản và cuối cùng là sang phát triển sản xuất cộng sản chủ nghĩa.
Sự tác động của quan hệ này trong lịch sử đã xác định vai trò quy định của phát triển sản xuất trong sự hình thành và phát triển của những cấu trúc xã hội nhất định.
Điều kiện tự nhiên và dân số là những yếu tố tất yếu, tác động thường xuyên đến quá trình sản xuất, tạo điều kiện thuận lợi hoặc khó khăn nhất định cho sản xuất và cũng như quá trình tồn tại và phát triển xã hội. Nhưng không phải là nhân tố quyết định.Chỉ có sự phát triển của phương thức sản xuất mới là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người.
Nước ta đang ở thời kỳ quá độ từ một nước sản xuất nông nghiệp là chủ yếu tiến thẳng lên một phương thức sản xuất cao hơn phát triển sản xuất cộng sản bỏ qua phương thức sản xuất TBCN. Sở dĩ có thể tiến hành như vậy là vì trên toàn thế giới phương thức sản xuất tư bản đã không còn chiếm vị trí độc tôn kế từ khi cách mạng CNXH ở nước Nga bùng nổ và thắng lợi.
Nhưng cần phải hiểu được sự bỏ qua không phải một cách máy móc mà trái lại phải tiếp thu tất cả những thành tựu khoa học, kỹ thuật phương thức tổ chức nền kinh tế tiến triển mà xã hội tư bản đã đặt được để phát triển triển nền kinh tế của chúng ta. Không những thế còn phải tiếp nhận cả những yếu tố của những giai đoạn phát triển kinh tế thấp hơn đang có mặt ở nước ta để hướng chúng vào mục tiêu cuối cùng là phương thức sản xuất cộng sản.
II. Sự vận dụng của đảng ta trong giai đoạn hiện nay
1.Sự vận dụng của Đảng
1.1.Sự hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần
Sau khi giành được chính quyền từ tay đế quốc Pháp nền kinh tế nước ta đi lên theo nền kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp, nền sản xuất nhỏ trình độ khoa học kém phát triển, quan hệ giữa lực lượng sản xuất với trình độ sản xuất rời rạc, tẻ nhạt. Đánh thắng đế quốc Pháp thì giặc Mỹ lại xâm chiếm đánh phá nước ta. Thế rồi non sông về một mối cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội với một lực lượng sản xuất lớn và tiềm năng mọi mặt còn non trẻ đòi hỏi nước ta phải có một chế độ kinh tế phù hợp với nước nhà và do đó nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ra đời. Nhìn thẳng vào sự thật chúng ta thấy rằng, trong thời gian qua do quá cường điệu vai trò của quan hệ sản xuất, do quan niệm không đúng về mối quan hệ giữa sở hữu và quan hệ khác, do quên mất điều cơ bản là nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội từ một xã hội tiền tư bản chủ nghĩa. Đồng nhất chế độ công hữu với chủ nghĩa xã hội lẫn lộn đồng nhất giữa hợp tác hoá và tập thể hoá. Không thấy rõ các bước đi có tính qui luật trên con đường tiến lên CNXH nên đã tiến hành ngay cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế quốc dân và xét về thực chất là theo đường lối "đẩy mạnh cải tạo xã hội chủ nghĩa, đưa quan hệ sản xuất đi trước mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển. Thiết lập chế độ công hữu thuần nhất giữa hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể". Quan niệm cho rằng có thể đưa quan hệ sản xuất đi trước để tạo địa bàn rộng rãi, thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển đã bị bác bỏ. Sự phát triển của lực lượng sản xuất xã hội này đã mâu thuẫn với những cái phân tích trên. Trên con đường tìm tòi lối thoát của mình từ trong lòng nền xã hội đã nảy sinh những hiện tượng trái với ý muốn chủ quan của chúng ta, có nhiều hiện tượng tiêu cực nổi lên trong đời sống kinh tế như quản lý kém, tham ô,... Nhưng thực ra mâu thuẫn giữa yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất với những hình thức kinh tế - xã hội xa lạ được áp đặt một cách chủ quan không thích hợp cho lực lượng sản xuất mới nảy sinh và phát triển. Khắc phục những hiện tượng tiêu cực trên là cần thiết.Về mặt này trên thực tế chúng ta chưa làm hết nhiệm vụ mình phải làm. Phải giải quyết đúng đắn giữa mâu thuẫn lực lượng sản xuất với quan hệ sản xuất, từ đó khắc phục những khó khăn và tiêu cực của nền kinh tế. Thiết lập quan hệ sản xuất mới với những hình thức và bước đi phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, luôn luôn thúc đẩy sản xuất phát triển với hiệu quả kinh tế cao. Trên cơ sở củng cố những đỉnh cao kinh tế trong tay nhà nước cách mạng. Cho phép phục hồi và phát triển chủ nghĩa tư bản và buôn bán tự do rộng rãi có lợi cho sự phát triển sản xuất. Quan điểm đổi mới từ đại hội VI cũng đã khẳng định không những khôi phục thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể mà phải phát triển chúng rộng rãi theo chính sách của Đảng và Nhà nước. Nhưng điều quan trọng là phải nhận thức được vai trò của thành phần kinh tế nhà nước trong thời kỳ quá độ. Để thực hiện vai trò này một mặt nó phải thông qua sự nêu gương về các mặt năng suất, chất lượng và hiệu quả. Thực hiện đầy đủ đối với nhà nước. Đối với thành phần kinh tế tư bản tư nhân và kinh tế cá thể thực hiện chính sách khuyến khích phát triển. Tuy nhiên với thành phần kinh tế này phải có những biện pháp để cho quan hệ sản xuất thực hiện phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong thời kỳ quá độ. Vì như thế mới thực sự thúc đẩy sự phát triển của lực lượng lao động.
1.2.Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong quá trình CNH-HĐH đất nước
Thuộc phạm trù của lực lượng sản xuất và vận động không ngoài biện chứng nội tại của phương thức sản xuất, vấn đề công nghiệp hoá gắn chặt với hiện đại hoá, trước hết phải được xem xét từ tư duy triết học. Trước khi đi vào công nghiệp hoá - hiện đại hoá và muốn thành công trên đất nước thì phải có tiềm lực về kinh tế con người, trong đó lực lượng lao động là một yếu tố quan trọng. Ngoài ra phải có sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ phát triển lực lượng sản xuất, đây mới là nhân tố cơ bản nhất.
Đất nước ta đang trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá với tiềm năng lao động lớn cần cù, thông minh, sáng tạo và có kinh nghiệm lao động nhưng công cụ của chúng ta còn thô sơ. Nguy cơ tụt hậu của đất nước ngày càng được khắc phục. Đảng ta đang triển khai mạnh mẽ một số vấn đề của đất nước về công nghiệp hoá - hiện đại hoá trước hết trên cơ sở một cơ cấu sở hữu hợp quy luật gắn liền với một cơ cấu các thành phần kinh tế hợp quy luật, cũng như cơ cấu một xã hội hợp giai cấp. Cùng với thời cơ lớn, những thử thách ghê gớm phải vượt qua để hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước vì dân giàu nước mạnh công bằng văn minh hãy còn phía trước mà nội dung cơ bản trong việc thực hiện là phải nhận thức đúng đắn về qui luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong giai đoạn hiện nay của nước ta.
2.Thành tựu và hạn chế
2.1.Thành tựu đạt được:
Trong Đại hội Đảng VI (121986) là mốc thời gian quan trọng, đánh dấu bước chuyển mình phát triển của đất nước ta: xoá bỏ chế độ bao cấp sản phẩm, bãi bỏ sự cấm đoán phát triển kinh tế thị trường, sự phát triển yếu ớt của đời sống xã hội thay thế bằng sự hội nhập với thế giới, quan tâm và chú trọng phát triển đời sống của người dân
Đại hội VII (6/1991), Đại hội VIII (61996), Đại hội IX (4/2001) đã tiếp tục khẳng định bổ sung và hoàn thiện các chủ trương, chính sách đổi mới kinh tế - xã hội: phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, điều chỉnh cơ cấu các ngành kinh tế, đổi mới cơ chế quản lí, đổi mới về công cụ lao động và chính sách quản lý kinh tế - xã hội, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại (cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân).
Sau 16 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa quan trọng.
- Nền kinh tế tăng trưởng liên tục, nhiều năm có tốc độ cao và trong 5 năm đầu đổi mới (86-90), khi chế độ bao cấp bị xoá bỏ dần, các doanh nghiệp nhà nước và hợp tác xã gặp nhiều khó khăn, khu vực kinh tế tư nhân và cá thể chưa phát triển, nền kinh tế rơi vào tình trạng bất ổn, bình quân chỉ đạt 3,9%/năm (riêng 1986: 0,3%) và lạm phát cao kéo dài. Nhưng đầu thập kỷ 90, nền kinh tế liên tục tăng trưởng ổn định và đạt đến đỉnh cao là 9,5% vào năm 1995. Đặc biệt trong kế hoạch 5 năm (1991 - 1995) ta đã hoàn thành vượt mức vì chỉ tiêu chủ yếu đưa nước ta thực sự thoát khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH-HĐH đất nước. Toàn bộ các mục tiêu chuyển kế hoạch 5 năm 1996-2000 và chiến lược 10 năm đều đạt và vượt kế hoạch. GDP trong 10 năm này tăng bình quân 7,56%/năm, GDP năm 2000 gấp 2,07 lần năm 1990. Đến năm 2000-2002 tốc độ tăng trưởng bình quân đạt ổn định 6,7%; 6,8% và 7,0%.
Nông nghiệp phát triển toàn diện cả trồng trọt và chăn nuôi, nghề rừng và thuỷ sản. Sản lượng lương thực tăng nhanh từ 21,5% triệu tấn (1990) lên 27,5 triệu tấn (1995) và 34,5 triệu tấn (năm 2000), gần 36 triệu tấn (năm 2002), bình quân mỗi năm tăng 1,4% triệu tấn. Tốc độ tăng lương thực bình quân 5%/năm, cao hơn tốc độ tăng dân số (1,8%) nên sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 304 kg (1985) lên 364 Kg (1995); 4448 Kg (2000) và 450 Kg (2002). Việt Nam từ một nước thiếu lương thực đến 1989 trở thành nước xuất khẩu gạo thứ 2 thế giới. Sở dĩ nông nghiệp tăng nhanh là nhờ những đổi mới trong cơ chế chính sách quản lý nông nghiệp: nhân dân được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài, phát triển trang trại, khuyến khích khai hoang mở rộng diện tích canh tác, nâng cao năng suất cây trồng. Những thành tựu trên mặt trận lương thực đã góp phần quan trọng vào sự ổn định đời sống nhân dân.
Trong 10 năm 1991- 2000, bình quân mỗi năm xuất khẩu gạo tăng 7,6%, cao su tăng 12,4%, cà phê tăng 17,7%, rau quả tăng 10,8%, hạt tiêu 24,8%, hạt điều tăng 37,5%. Tổng giá trị nông sản xuất khẩu chiếm 40% tổng giá trị xuất khẩu cả nước. Một nền nông nghiệp hàng hoá nhiều thành phần gắn với thị trường quốc tế.
Công nghiệp tăng liên tục, bình quân trong thời kỳ 1991-1995 tăng 13,7%; 1996-2000 tăng 13,2%. Công nghiệp tăng nhanh là do đầu tư lớn của nhà nước trong những năm trước đây cho một số ngành quan trọng như dầu khí, điện, xi măng, thép, giấy, đường.. nhưng quan trọng hơn là có sự đổi mới cơ chế, chính sách quản lý của nhà nước, xóa bỏ bao cấp, nhận vốn đầu tư nước ngoài.
Hệ thống đường giao thông, bưu điện xây dựng mới và nâng cấp trên khắp mọi miền của tổ quốc: quốc lộ 1A, 5, 18, sân bay, bến cảng được nâng cấp và xây dựng, thương mại và dịch vụ có nhiều khởi sắc.
- Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ: chuyển từ khu vực I (Nông nghiệp, lâm nghiệp và thuỷ sản) sang khu vực II (Công nghiệp - xây dựng) và khu vực III (dịch vụ), chuyển từ khu vực quốc doanh, hợp tác xã sang đa thành phần và chuyển theo hướng hình thành 3 vùng kinh tế trọng điểm ở 3 miền Bắc -Trung - Nam.
- Đẩy lùi lạm phát: 1986: 774,7%; 1990: 67,4%; 1994L 12,7%; 1997: 3,7%; 1999: 0,1%.
- Kinh tế đối ngoại phát triển nhanh: Xuất khẩu: kim ngạch xuất khẩu năm 1996: 822,9 triệu USD; năm 2001: 15,027 tỉ USD. Nhập khẩu: 2,16 tỉ USD (1986); 16,16 tỉ USD (2001).
Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ nét: lao động có việc làm tăng nhanh, mỗi năm tạo 1,3 triệu việc làm mới, thu nhập bình quân đầu người đạt gần 400 USD/năm. Số hộ giàu tăng > 10%; số hộ nghèo giảm từ 55% (1989) xuống 11,4% (2000).
Nhờ những thành tựu tăng trưởng ổn định hoá kinh tế, tình hình xã hội đã được cải thiện rất nhiều. Tỉ lệ tăng dân số tự nhiên giảm mỗi năm 1% và giữ mức bình quân 2,1%/năm, giảm so với thời kì trước (2,3%) nhưng vẫn cao hơn mục tiêu đề ra (1,9%). Số người đi học bình quân tính trên 1 vạn dân, tăng từ 1834 người (1990) tăng lên 2171 (1995).
Tỉ trọng cho các lĩnh vực xã hội chiếm từ 24,4 - 28,4% tổng ngân sách nhà nước và có xu hướng tăng lên. Hệ thống y tế được cải thiện, đặc biệt là hệ thống bảo hiểm y tế.
Tình hình nông thôn được cải thiện thêm một bước. Có khoảng 60,2% số xã có điện, 86,4% số xã có đường ô tô, 91,6% xa có trạm xá và 97,7% số xã có trường tiểu học; 76,2% số xã có trường PTCS.
Những thành tựu đạt được là kết quả của con đường đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo. Nó là kết quả của nhận thức đúng đắn quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ lực lượng sản xuất để phát triển kinh tế - xã hội này.
Ngoài ra, cũng không thể không kể đến một số nguyên nhân khách quan quan trọng, đó là:
- Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam được tiến hành muộn, đi sau các nước phương tây và một số nước châu á. Do bắt đầu muộn nên Việt Nam có thể học hỏi được nhiều kinh nghiệm, cả kinh nghiệm thành công lẫn không thành công của các nước đi trước, để trên cơ sở đó, rút ra bài học bổ ích cho cách đi riêng của bản thân mình.
- Trong quá trình CNH-HĐH, Việt Nam có thể tranh thủ cơ hội đi tắt đón đầu bằng việc nhập các thiết bị kĩ thuật tiên tiến để đổi mới thiết bị kĩ thuật đã lạc hậu.
- Quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam được tiến hành trong môi trường hoà bình với xu hướng hoà hoãn và hợp tác quốc tế. Nhờ vậy, nước ta mở rộng quan hệ bạn bè và hợp tác với nhiều nước nhằm tranh thủ sự viện trợ, giúp đỡ của các nước trên thế giới. Đồng thời xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế thế giới đã tạo điều kiện và thời cơ cho Việt Nam có thể sử dụng khoa học, công nghệ mới, nguồn vốn của các nước giàu vào sự nghiệp CNH-HĐH, trên cơ sở đó, tham gia vào quá trình phân công và hợp tác quốc tế.
Có thể nói, môi trường quốc tế và xu hướng phát triển mới của thế giới đang tạo tiền đề bên ngoài thuận lợi cho quá trình CNH-HĐH ở Việt Nam. Việc Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế như ASEAN, OPEC, việc quốc hội Mĩ thông qua hiệp định thương mại Việt - Mỹ gần đây… là những bằng chứng khẳng định điều đó.
2.2.Hạn chế
Do nền kinh tế nước ta có điểm xuất phát thấp chủ yếu vẫn là nông nghiệp, công nghiệp còn nhỏ bé, kết cấu hạ tầng kém phát triển, cơ sở vật chất kỹ thuật chưa xác định được nhiều. Mặc dù cơ cấu các ngành GDP có chuyển dịch rõ rệt những cơ hội nhưng cơ cấu lao động chậm biến đổi. Hiện nay hơn 75% dân số vẫn sống ở nông thôn, lao động nông nghiệp vẫn chiếm > 60% tổng số lao động xã hội.
Nền kinh tế có mức tăng trưởng khá nhưng năng suất, chất lượng hiệu quả còn thấp. Đất nước Việt Nam vẫn thuộc 20 nước nghèo nhất thế giới. Đây là thách thức cực kỳ to lớn cần phát huy mọi tiềm năng để
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 12087.doc