Mục lục
Lời cảm ơn
Mục lục
PHẦN MỞ ĐẦU 1
LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI 1
Mục tiêu nghiên cứu 3
Đối tượng và khách thể nghiên cứu 3
Phạm vi nghiên cứu 3
Phương pháp nghiên cứu 4
Giả thuyết nghiên cứu 6
Cơ sở lý luận 7
Hệ khái niệm 7
Các hướng tiếp cận lý thuyết 7
Kết quả nghiên cứu 10
1. Tổng quan tình hình học ngoại ngữ của sinh
viên Xã hội học 10
2. Nhận thức của sinh viên về vai trò của
ngoại ngữ 12
3. Thực trạng hoạt động học thêm ngoại ngữ
của sinh viên Xã hội học 15
3.1. Một số nhận xét và tương quan với
sinh viên nói chung 15
3.2. Mô tả hoạt động học thêm ngoại ngữ của
sinh viên Xã hội học 20
4. Ảnh hưởng của định hướng nghề nghiệp
đối với việc học ngoại ngữ 32
4.1. Định hướng nghề nghiệp của sinh viên
Xã hội học 33
4.2. Định hướng nghề nghiệp của sinh viên
Xã hội học trong tương quan so sánh
với sinh viên nói chung 40
4.3. Định hướng nghề nghiệp ảnh hưởng đến
việc học ngoại ngữ 43
5. Những nhân tố ảnh hưởng đến việc học thêm
ngoại ngữ của sinh viên 54
Kết luận và khuyến nghị 56
Tài liệu tham khảo 58
80 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2161 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Sinh viên Xã hội học với việc học thêm ngoại ngữ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ự chênh lệch hợp lý rằng sinh viên năm III-IV thì chú trọng nhiều đến mục đích lâu dài vì công việc sau này còn sinh viên năm I-II
thì quan tâm chủ yếu tới bản thân việc học.
Bảng 12: Lý do học thêm theo hộ khẩu thường trú
STT
Lý do
Đô thị
Nông thôn
1
Để nâng cao trình độ
41,9%
45,7%
2
Để củng cố trình độ
18,6%
8,6%
3
Vui bạn bè
0
2,9%
4
Để dễ kiếm việc
34,9%
42,9%
5
Lý do khác
2,3%
0
Với sinh viên có hộ khẩu thường trú tại đô thị, tỷ lệ đi học thêm vì muốn nâng cao trình độ là cao nhất, và vì công việc cũng là lý do chiếm tỷ lệ đáng kể.
Với sinh viên có hộ khẩu thường trú tại nông thôn, 2 lý do này cũng có tỷ lệ trả lời cao, đặc biệt với lí do " để dễ kiếm việc" nhóm sinh viên nông thôn có sự lựa chọn cao hơn hẳn các sinh viên đô thị. Dường như với nhóm sinh viên nông thôn, việc họ đi học thêm vì một lí do thực tế là rất quan trọng bởi với những điều kiện không thuận lợi về nhiều mặt, họ phải cố gắng tìm kiếm “lợi nhuận” hết sức cụ thể cho chi phí bỏ ra. Không thể nói lí do học thêm để nâng cao trình độ là không thực tế nhưng ở một khía cạnh nào đó nâng cao không phải chỉ để nâng cao mà phải có một mục đích cuối cùng nào khác, xét cho cùng mục đích ấy chính là công việc.
Còn 3 lý do để củng cố, vui bạn bè, lý do khác đều chiếm tỷ lệ không lớn ở cả hai nhóm sinh viên.
Vậy, hộ khẩu thường trú cũng là một nhân tố tác động đến động cơ học thêm ngoại ngữ của sinh viên.
Tóm lại, qua phân tích lý do học thêm ngoại ngữ có thể rút ra nhận xét sau:
Những nhân tố ảnh hưởng đến động cơ học thêm ngoại ngữ là giới, năm học và hộ khẩu thường trú của sinh viên.
+ Nam sinh viên có xu hướng đi học thêm vì lý do kiếm việc là chủ yếu,
còn nữ sinh viên lại phần đông đi học vì muốn nâng cao trình độ.
+ Sinh viên năm I-II phần lớn đi học để nâng cao trình độ còn sinh viên năm cuối chủ yếu đi học để phục vụ cho mục đích xin việc.
+ Sinh viên có hộ khẩu thường trú tại đô thị có xu hướng đi học thêm vì muốn nâng cao, củng cố trình độ nhiêù hơn là sinh viên nông thôn, còn sinh viên nông thôn lại đi học vì muốn dễ xin việc nhiều hơn sinh viên đô thị.
3.2.2 Địa điểm học thêm
Khảo sát các địa điểm sinh viên thường học thêm ngoại ngữ, tôi đưa ra 5 phương án:
Nơi có uy tín
Nơi gần chỗ ở
Nơi có học phí thấp
Trung tâm nước ngoài
Gia sư hoặc lớp riêng
Nơi có uy tín thường là những cơ sở của những trường đại học có đào tạo chuyên ngành ngoại ngữ như ĐHNN Thanh Xuân, ĐHNN ĐHQG, ĐH Ngoại Thương….Uy tín đào tạo của các cơ sở này đem lại cho người ta cảm giác tin tưởng khi lựa chọn. Nó làm cho sinh viên tin rằng học ở đó sẽ thu được hiệu quả cao.
Nơi gần chỗ ở sẽ thuận tiện cho việc đi lại. Đối với những sinh viên không có những phương tiện đi lại tiện nghi thì đây cũng là một tiêu chí rất đáng quan tâm.
Nơi có học phí thấp cũng là một tiêu chí quan trọng đối với những sinh viên có hoàn cảnh kinh tế không thuận lợi, đặc biệt là sinh viên ngoại tỉnh.
Trung tâm nước ngoài là nơi thường có học phí cao nhưng đồng thời cũng có chất lượng cao vì lớp học ít và được giáo viên nước ngoài trực tiếp giảng dạy.
Hình thức gia sư tại nhà hoặc mở lớp riêng có lẽ không mấy phổ biến trong sinh viên nhưng cũng không thể không đề cập đến.
Biểu đồ địa điểm học thêm
Xét theo giới tính ta có bảng sau
Bảng 13 : Địa điểm học thêm theo giới
STT
Địa điểm
Nam
Nữ
1
Nơi có uy tín
52%
62,3%
2
Nơi gần chỗ ở
24%
24,5%
3
Nơi có học phí thấp
8%
5,7%
4
Trung tâm nước ngoài
16%
1,9%
5
Gia sư hoặc lớp riêng
0
5,7%
Ở cả hai giới địa điểm có uy tín đều được lựa chọn với tỉ lệ cao nhất (nhưng cũng có sự chênh lệch tương đối với xu hướng thiên về sinh viên nữ).Đây là điều dễ hiểu bởi ai bỏ tiền ra học cũng đều muốn thu được kết quả tốt và điều đầu tiên giúp sinh viên tin rằng họ sẽ học có hiệu quả là uy tín của nơi họ lựa chọn.Phương án "nơi gần chỗ ở " được lựa chọn gần như nhau giữa hai giới. Hai phương án sau nam đều có xu hướng lựa chọn nhiều hơn nữ, đặc biệt là địa điểm trung tâm nước ngoài. Hình thức học gia sư hoặc lớp riêng không có ở nam nhưng lại chiếm 5,7% số nữ.
Bảng 14 : Địa điểm học thêm theo năm học
STT
Địa điểm
Năm I-II
Năm III-IV
1
Nơi có uy tín
63,3%
56,3%
2
Nơi gần chỗ ở
20%
27,1%
3
Nơi có học phí thấp
10%
4,2%
4
Trung tâm nước ngoài
6,7%
6,3%
5
Gia sư hoặc lớp riêng
0
6,3%
Phương án nơi có uy tín được các sinh viên năm thứ I-II lựa chọn nhiều hơn, phương án gần chỗ ở lại được nhóm sinh viên những năm cuối lựa chọn nhiều hơn. Với phương án học phí thấp và trung tâm nước ngoài, các sinh viên năm đầu có xu hướng lựa chọn cao hơn. Với phương án gia sư hoặc lớp riêng, không một sinh viên năm I-II nào lựa chọn trong khi đó tỷ lệ này ở sinh viên năm III-IV là 6,3%.
Bảng 15: Địa điểm học thêm theo hộ khẩu
STT
Địa điểm
Đô thị
Nông thôn
1
Nơi có uy tín
67,4%
48,6%
2
Nơi gần chỗ ở
16,3%
34,3%
3
Nơi có học phí thấp
0
14,3%
4
Trung tâm nước ngoài
9,3%
2,9%
5
Gia sư hoặc lớp riêng
7%
0
Địa điểm có uy tín là nơi được lựa chọn nhiều nhất ở cả 2 nhóm và nhóm đô thị có nhỉnh hơn .
Nơi gần chỗ ở được nhóm sinh viên nông thôn-những người thường không có phương tiện đi lại thuận tiện-lựa chọn cao gấp đôi so với nhóm đô thị.
Có sự phân hoá khá rõ ở 3 phương án trả lời sau. Nơi có học phí thấp là địa điểm không được bất cứ sinh viên đô thị nào lựa chọn trong khi nó chiếm tới 14.3% sinh viên nông thôn-những người trọ học xa nhà và thường có khó khăn về tài chính.
Trong khi đó, ở trung tâm nước ngoài và hình thức học gia sư hoặc lớp riêng lại xảy ra tình trạng ngược lại, sinh viên đô thị lựa chọn 2 phương án này lên tới gần 20% còn ở sinh viên nông thôn thì tỷ lệ này là 0% hoặc rất thấp không đáng kể.Điều này rất dễ hiểu bởi trung tâm nước ngoài là hình thức còn chưa phổ biến ở Hà Nội và đặc biệt là có học phí rất cao, các sinh viên nông thôn khó lòng đáp ứng được. Hình thức học gia sư hoặc lớp riêng cũng đòi hỏi một chi phí lớn, ngoài ra còn phụ thuộc vào những mối quan hệ của chủ thể để có thể tìm thầy, mời thầy do đó cũng không phù hợp với nhóm sinh viên nông thôn.
Tóm lại, qua phân tích địa điểm học thêm ngoại ngữ của sinh viên, ta có thể thấy rằng:
Việc lựa chọn địa điểm học thêm cũng phụ thuộc vào những yếu tố giới, năm học, hộ khẩu ở những mức độ khác nhau.
+ Nam giới có xu hướng lựa chọn các trung tâm đặc biệt là nơi có uy tín, nữ giới cũng vậy nhưng ngoài ra còn lựa chọn hình thức gia sư hoặc lớp riêng.
+ Yếu tố năm học không ảnh hưởng nhiều lắm đến sự lựa chọn địa điểm học, mặc dù vậy trong các phương án trả lời đều có sự phân biệt giưã hai nhóm năm I-II và III-IV, nhìn chung do điều kiện thời gian nhóm sinh viên những năm cuối có xu hướng lựa chọn nơi học gần chỗ ở và hình thức gia sư hoặc lớp riêng nhiều hơn so với sinh viên những năm đầu.
+ Hộ khẩu thường trú là yếu tố ảnh hưởng rõ nhất đến việc lựa chọn địa điểm học thêm. Bên cạnh nơi có uy tín với tỷ lệ không quá chênh lệch, nhóm sinh viên đô thị có xu hướng lựa chọn trung tâm nước ngoài, gia sư hoặc lớp riêng, còn nhóm sinh viên nông thôn lại có xu hướng lựa chọn nơi gần chỗ ở và nơi có học phí thấp.
3.2.3 Thời gian học thêm
Để định lượngthời gian sinh viên dành cho hoạt động học thêm ngoại ngữ, tôi đưa ra các phương án từ 1 đến 5 buổi tính theo đơn vị tuần.
1 buổi là lượng thời gian ít phù hợp với những người bận rộn hoặc không thấy việc học ngoại ngữ là quá cấp bách. Từ 2-3 buổi là lượng trung bình thường được tổ chức ở đa phần các trung tâm ngoại ngữ. 4 đến 5 buổi là lượng thời gian lớn, chủ yếu có ở các lớp cấp tốc hoặc tại chức. Trên 5 buổi một tuần là lượng thời gian rất lớn và không có nhiều ở các trung tâm cũng như các lớp tự tổ chức.
Bảng 16: Thời gian học theo giới
STT
Thời gian
Nam
Nữ
1
1 buổi/tuần
12%
5,7%
2
2-3 buổi/ tuần
60%
66%
3
4-5 buổi / tuần
20%
22,6%
4
> 5 buổi / tuần
8%
5,7%
Bảng 16 cho thấy hầu như không có sự phân biệt nam nữ trong việc lựa chọn thời gian dành cho học thêm. Tỷ lệ sinh viên dành 2-3 buổi học thêm là cao nhất ở cả hai giới, thấp nhất là tỷ lệ chọn phương án trên 5 buổi.Trong hai phương án còn lại, phương án 4-5 buổi được lựa chọn nhiều hơn so với phương án 1 buổi, đặc biệt là ở sinh viên nữ.
Bảng 17: Thời gian học theo năm học
STT
Thời gian
Năm I-II
Năm III-IV
1
1 buổi/ tuần
3,3%
10,4%
2
2-3 buổi/ tuần
66,6%
62,5%
3
4-5 buổi/ tuần
23,3%
23%
4
> 5 buổi/ tuần
6,7%
6,3%
Có một sự chênh lệch nhỏ trong việc sử dụng thời gian cho việc học thêm ngoại ngữ giữa nhóm sinh viên năm I-II và nhóm sinh viên năm III-IV.
Sinh viên những năm đầu có xu hướng dành nhiều thời gian cho học thêm hơn với tỷ lệ chọn phương án 2 và 4 cao hơn. Trái lại, bước vào những năm học mang tính quyết định, sinh viên những năm cuối phải dành nhiều thời gian hơn cho các môn chuyên ngành, cho tiểu luận, báo cáo khoa học, luận văn…nên lại có xu hướng đi học thêm ít hơn với tỉ lệ lựa chọn nhiều hơn ở phương án 1.
Bảng 18: Thời gian học theo hộ khẩu
STT
Thời gian
Đô thị
Nông thôn
1
1 buổi/tuần
9,3%
5,7%
2
2-3 buổi/tuần
55,8%
74,3%
3
4-5 buổi/tuần
28%
14,3%
4
>5 buổi/tuần
7%
5,7%
Với phương án 1 buổi hoặc trên 5 buổi, tỷ lệ lựa chọn ở cả 2 nhóm đều thấp nhưng có sự nhích hơn ở nhóm sinh viên đô thị. Với hai phương án còn lại, có sự chênh lệch khá lớn giữa hai nhóm. Nhóm sinh viên đô thị có xu hướng dành nhiều thời gian cho học thêm hơn với tỉ lệ chọn 4-5 buổi cao hơn gấp đôi và tỉ lệ chọn 2-3 buổi thấp hơn so với nhóm sinh viên nông thôn.
Tóm lại , các bảng phân tích thời gian học thêm cho thấy:
Giới tính là yếu tố không có tác động lớn đến việc dành thời gian cho học thêm ngoại ngữ.
Sinh viên những năm đầu và sinh viên đô thị có xu hướng đi học thêm với lượng thời gian lớn hơn so với những sinh viên năm cuối và sinh viên nông thôn.
3.2.4 Chi phí cho học thêm
Chi phí cho việc học thêm phụ thuộc vào địa điểm và thời gian học. Thường thì trung tâm nước ngoài, học gia sư hoặc lớp riêng sẽ đòi hỏi chi phí cao hơn các địa điểm và hình thức còn lại. Chi phí học cũng tỷ lệ thuận với thời gian học, số buổi càng nhiều chi phí càng lớn. Qua khảo sát sơ bộ, tôi thấy rằng với những địa điểm, hình thức học khác nhau và lượng thời gian khác nhau, có rất nhiều mức chi phí với độ chênh lệch rất lớn, mức thấp nhất khoảng xấp xỉ 50.000đ, mức cao nhất có thể lên tới 1 triệu đồng. Tuy nhiên, do những mức học phí quá cao không phổ biến trong sinh viên nên tôi chỉ đưa ra các phương án từ dưới 50.000đ đến trên 200.000đ, mọi trường hợp vượt quá 200.000đ đều được tính vào một nhóm
Bảng 19: Chi phí học thêm theo giới
STT
Chí phí
Nam
Nữ
1
Dưới 50.000đ/ tháng
12%
17%
2
50.000-100.000đ/tháng
52%
37,8%
3
100.000-200.000đ/ tháng
36%
34%
4
Trên 200.000đ/ tháng
0
11,3%
Trong khi nam sinh viên tập trung vào 2 mức chi phí từ 50.000đ đến 200.000đ, nữ sinh viên lại trải rộng trên cả 2 mức chi phí cao , đặc biệt là mức trên 200.000đ.Nhìn chung, có thể nói nữ sinh viên có xu hướng chi phí cao cho học thêm ngoại ngữ hơn so với nam sinh viên.
Bảng 20: Chi phí học thêm theo năm học
STT
Chi phí
Năm I-II
Năm học III-IV
1
Dưới 50.000đ/ tháng
23,3%
10,4%
2
50.000đ-100.000/ tháng
43,3%
41,7 %
3
100.000đ-200.000đ/ tháng
30%
37,5%
4
Trên 200.000đ/ tháng
3,3%
10,4%
Bảng 20 cho thấy mức chi phí cho học thêm ở nhóm sinh viên năm I-II thấp hơn nhóm sinh viên năm III-IV vì tỷ lệ lựa chọn 2 phương án từ dưới 50.000đ đến 100.000đ cao hơn ở sinh viên những năm đầu, còn 2 phương án sau lại được các sinh viên những năm cuối lựa chọn nhiều hơn.Như vậy, mặc dù nhóm sinh viên những năm đầu đi học nhiều hơn nhưng vẫn có mức chi phí thấp hơn, điều này phụ thuộc vào hình thức và địa điểm học mà các sinh viên lựa chọn. Các sinh viên năm III-IV có tỉ lệ chọn nơi có học phí thấp ít hơn và tỉ lệ học gia sư hoặc lớp riêng cao hơn nên sẽ có chi phí lớn hơn.
Bảng 21: Chi phí học thêm theo hộ khẩu
STT
Chi phí
Đô thị
Nông thôn
1
Dưới 50.000đ/ tháng
11,6%
20%
2
50.000đ-100.000đ/ tháng
34,9%
51,4%
3
100.000đ-200.000đ/ tháng
41,9%
25,7%
4
Trên 200.000đ/tháng
11,6%
2,9%
Có một sự chênh lệch khá rõ ràng về chi phí cho học thêm giữa 2 nhóm sinh viên đô thị và nông thôn theo hướng đô thị có chi phí lớn hơn. Điều này thể hiện trên bảng 21 với tỷ lệ sinh viên đô thị lựa chọn 2 phương án từ 100.000đ đến trên 200.000đ lớn hơn và tỷ lệ sinh viên nông thôn lựa chọn
2 phương án với mức chi phí còn lại lớn hơn.Đây là kết quả có thể được suy ra từ 2 bảng 15 và 18. Nhóm sinh viên đô thị dành thời gian đi học nhiều hơn, tại những địa điểm có học phí cao hơn như trung tâm nước ngoài, gia sư hoặc lớp riêng, vì thế tất yếu họ phải bỏ ra một lượng chi phí lớn hơn.
Tóm lại, phân tích chi phí cho học thêm ngoại ngữ trong sinh viên Xã hội học ta thấy rằng :
Ba yếu tố giới, năm học, hộ khẩu thường trú đều có tác động nhất định đến chi phí cho việc học thêm. Các nhóm sinh viên nữ, năm thứ III-IV và đô thị có xu hướng chi phí nhiều hơn so với các nhóm sinh viên nam, năm thứ I-II và nông thôn.
3.2.5 Hiệu quả của việc học thêm
Định lượng hiệu quả của việc học thêm là một công việc không dễ dàng, định lượng một cách khách quan và chính xác lại càng khó thực hiện hơn.Để đánh giá vấn đề này, tôi đưa ra câu hỏi “Theo bạn, so với trước khi đi học thêm, trình độ ngoại ngữ của bạn……..” và đưa ra 3 phương án trả lời :
Vẫn như trước
Khá hơn nhưng không nhiều
Khá hơn nhiều
Kết quả thu được cho thấy
Bảng 22 : Cơ cấu hiệu quả học thêm
STT
Hiệu quả
Giới
Năm học
Hộ khẩu
1
Vẫn như trước
Nam 12%
I-II 13,3%
Đô thị 14%
Nữ 18,9%
III-IV 18,8%
Nông thôn 20%
2
Khá hơn ít
Nam 56%
I-II 56,7%
Đô thị 51,2%
Nữ 52,8%
III-IV 52,1%
Nông thôn 60%
3
Khá hơn nhiều
Nam 32%
I-II 30%
Đô thị 34,9%
Nữ 28,3%
III-IV 29,2%
Nông thôn 22,9%
Bảng 22 cho thấy đa phần sinh viên đều thu được hiệu quả nhất định từ việc học thêm. Các yếu tố giới, năm học và hộ khẩu thường trú không tạo nên những chênh lệch lớn trong hiệu quả học. Mặc dù vậy, vẫn tồn tại những khác biệt nhất định.
Ở phương án “vẫn như trước “ có sự phân biệt nhỏ trong sự lựa chọn của tất cả các nhóm sinh viên theo hướng sinh viên nữ, năm thứ III-IV và sinh viên nông thôn chiếm tỉ lệ cao hơn.
Phương án “ khá hơn nhưng không nhiều “ được lựa chọn gần như nhau giữa các năm học và giới, riêng sinh viên nông thôn có nhích hơn so với sinh viên đô thị.
Phương án “ khá hơn nhiều “ cũng được lựa chọn không khác nhau theo năm học và giới. Đối với hai nhóm còn lại thì tỉ lệ ngược lại : nhóm sinh viên đô thị có xu hướng thu được hiệu quả cao hơn nhóm sinh viên nông thôn.
Tóm lại, việc phân tích hiệu quả học thêm cho thấy :
Hầu hết sinh viên đều thu được hiệu quả tích cực nhất định từ việc học thêm, tuy nhiên các nhóm sinh viên nam, sinh viên đô thị và năm I-II có xu hướng thu được hiệu quả cao hơn so với nhóm sinhviên nữ, nông thôn và năm III-IV.
4.Ảnh hưởng của định hướng nghề nghiệp đối với việc học ngoại ngữ
Ngoại ngữ là một yêu cầu không thể thiếu đối với rất nhiều ngành nghề trong xã hội. Đối với đội ngũ những người có trình độ cao đẳng- đại học trở lên, nếu làm việc ở một vị trí phù hợp với trình độ được đào tạo thì ngoại ngữ càng trở thành một yêu cầu cấp thiết. Theo đề tài nghiên cứu “ Định hướng giá trị của sinh viên- con em cán bộ khoa học “ của TS. Vũ Hào Quang, có tới 80,8% sinh viên muốn có việc làm đúng nghề, đúng chuyên môn. Vậy, với một tỉ lệ tương đương như thế, khoảng 80% sinh viên Xã hội học sẽ mong muốn được làm đúng chuyên ngành Xã hội học, điều này có nghĩa là ngoại ngữ sẽ trở thành một yếu tố đặc biệt quan trọng đối với đa phần sinh viên Xã hội học bởi đó là một yêu cầu có ý nghĩa lớn gắn với đặc thù của chuyên ngành này.
Tuy nhiên , định hướng nghề nghiệp của sinh viên không chỉ bao hàm yếu tố mong muốn làm đúng ngành nghề hay không mà còn bao hàm nhiều yếu tố khác, như định hướng về địa bàn, lĩnh vực và khu vực làm việc. Và ở mỗi địa bàn, lĩnh vực hay khu vực làm việc khác nhau lại có những đòi hỏi khác nhau về trình độ ngoại ngữ, do đó những sinh viên có định hướng nghề nghiệp khác nhau sẽ có những điểm không giống nhau trong việc học ngoại ngữ.
Vậy, thực chất của vấn đề này là như thế nào ?
4.1 Định hướng nghề nghiệp của sinh viên Xã hội học
4.1.1 Định hướng địa bàn làm việc.
Địa bàn làm việc trong tương lai đối với sinh viên là một vấn đề khá quan trọng mà trong suốt thời gian học tập tại giảng đường đại học sinh viên nào cũng từng nghĩ đến.
Đối với các sinh viên có hộ khẩu thường trú tại Hà Nội, vấn đề này có vẻ như “ không thành vấn đề “ , nghĩa là ít khi họ phải suy nghĩ xem sau này sẽ đi làm ở địa bàn nào. Hà Nội đối với họ gần như là địa bàn tất yếu. Chỉ trừ một số trường hợp định hướng tại các đô thị lớn khác như thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng hay Hải Phòng… và một tỉ lệ rất nhỏ , vì một lí do nào đó, có ý muốn làm việc tại địa bàn nông thôn. Sinh viên ngoại tỉnh trọ học tại Hà Nội có một bộ phận khá lớn thường muốn được ở lại thủ đô sống và làm việc bởi thời gian sinh sống khá lâu tại thủ đô đã khiến họ quen với nhịp sống sôi động của nơi này và hơn hết , họ đều nhận thức được rằng đây là nơi có điều kiện sống tốt và có nhiều cơ hội phát triển hơn cho họ.Quy luật trên cũng đúng với trường hợp các sinh viên Xã hội học.
Bảng 23: Định hướng nơi làm việc của sinh viên Xã hội học sau khi tốt nghiệp
STT
Địa bàn
%
1
Đô thị
79%
2
Nông thôn
19%
3
Không xác định
2%
Có tới 79% sinh viên Xã hội học muốn được làm việc ở địa bàn đô thị., địa bàn nông thôn là 19%, còn 2% chưa xác định mình sẽ muốn làm việc ở đâu. Tuy nhiên, đây mới chỉ là những con số sơ bộ phản ánh định hướng của sinh viên Xã hội học nói chung, định hướng này còn có sự phân hoá theo những nhân tố như giới , năm học và hộ khẩu thường trú.Sự phân hoá này được thể hiện trong bảng sau.
Bảng 24 : Cơ cấu định hướng địa bàn làm việc sau tốt nghiệp
STT
Địa bàn
Giới
Năm học
Hộ khẩu
1
Đô thị
Nam 80,6%
Năm I-II 80%
Đô thị 95,7%
Nữ 78,1%
Năm III-IV 78,3%
Nông thôn 64,2%
2
Nông thôn
Nam 19,4%
Năm I-II 15%
Đô thị 0
Nữ 18,8%
Năm III-IV 21,7%
Nông thôn 35,8%
3
Không xác định
Nam 0
Năm I-II 5%
Đô thị 4,3%
Nữ 3,1%
Năm III-IV 0
Nông thôn 0
Hầu như không có sự phân biệt đáng kể về giới trong việc lựa chọn địa bàn làm việc. Địa bàn đô thị được nam sinh viên lựa chọn cao hơn không đáng kể, địa bàn nông thôn cũng có sự nhỉnh hơn của nhóm sinh viên nam. Mọi sinh viên nam đều đã lựa chọn được địa bàn làm việc cho mình , còn trong nhóm nữ vẫn tồn tại 3,1 % chưa xác định được điều này.
Đối với tiêu chí năm học, có một sự chênh lệch đáng kể trong định hướng địa bàn làm việc.Tỉ lệ sinh viên những năm đầu chọn địa bàn đô thị nhỉnh hơn tỉ lệ này ở sinh viên những năm cuôí, do đó tỉ lệ chọn địa bàn nông thôn sẽ có xu hướng ngược lại.Cũng như đối với nam sinh viên, mọi sinh viên năm thứ III-IV đều đã lựa chọn được địa bàn làm việc cho mình sau khi ra trường, còn những sinh viên năm I-II có vẻ thong thả hơn với 5% chưa quyết định vấn đề này bởi họ còn nhiều thời gian để cân nhắc.
Sự khác biệt trong định hướng địa bàn làm việc còn rõ rệt hơn nữa trong hai nhóm sinh viên có hộ khẩu thường trú tại đô thị và nông thôn. Tỉ lệ sinh viên đô thị định hướng tại đô thị cao áp đảo so với tỉ lệ này ở sinh viên nông thôn. Và trong khi hơn một phần ba sinh viên nông thôn muốn được làm việc tại nông thôn thì không một sinh viên đô thị nào lựa chọn phương án này. Đây là điều hoàn toàn hợp lí bởi đô thị là địa bàn làm việc hấp dẫn khiến nhiều sinh viên nông thôn muốn được tìm việc ở đó thì tất yếu các sinh viên vốn đã sinh trưởng tại đô thị sẽ không ai muốn xa rời địa bàn đó cả, cũng với lời giải thích như vậy ta thấy rằng một phần ba sinh viên nông thôn có định hướng làm việc tại nông thôn là do họ muốn làm việc và sinh sống tại quê nhà và như vậy tỉ lệ này ở sinh viên đô thị chắc chắn sẽ là 0.
4.1.2 Định hướng khu vực làm việc
Trước đây, trong thời kì bao cấp, sinh viên sau khi tốt nghiệp không phải lo lắng hoặc không dược lo lắng cho chỗ làm của mình bởi họ đã được Nhà nước lo cho chuyện đó, Nhà nước sẽ phân họ về nơi cần họ và họ hầu như không có một sự lựa chọn nào.Cũng trong thời kì bao cấp, như cái tên của thời kì mà ta vẫn quen gọi, Nhà nước bao cấp, chiếm lĩnh hầu hết mọi lĩnh vực hoạt động xã hội. Các cử nhân đại học sau khi ra trường hầu hết muốn làm việc trong khu vực nhà nước bởi không có sự lựa chọn nào khác hơn cho họ, các khu vực hoạt động khác chiếm tỷ lệ quá nhỏ bé và hoàn toàn yếu thế. Việc định hướng nghề nghiệp của thế hệ trẻ lúc đó rất ít tính đến thị trường lao động bởi hệ thống nhà trường chỉ hướng học sinh chọn những nghề trong lĩnh vực quốc doanh, “Đào tạo theo biên chế nhà nước “ là tư tưởng chi phối mục tiêu hướng nghiệp lúc đó. Từ khi bước vào công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, tiến hành cơ chế kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa với nền kinh tế nhiều thành phần, bộ mặt kinh tế xã hội nước ta đã có nhiều biến chuyển cơ bản. Hiện nay, trong cơ cấu kinh tế nước ta, khu vực kinh tế nhà nước vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhưng bên cạnh đó còn có sự tồn tại phổ biến của các thành phần kinh tế khác như kinh tế các thể, liên doanh, công ty nước ngoài…Mọi người dân đều được quyền tự do lựa chọn thành phần kinh tế phù hợp để tham gia. Không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, mọi lĩnh vực hoạt động khác của đời sống xã hội đều có những chuyển hướng tích cực với sự tham gia sâu rộng của những khu vực phi nhà nước. Do vậy , các cử nhân đại học sau khi ra trường có thể tự do lựa chọn công việc cho mình từ địa bàn làm việc, khu vực làm việc cho đến lĩnh vực, tính chất công việc, miễn là nó phù hợp với điều kiện và khả năng của họ.
Để đánh giá định hướng của sinh viên Xã hội học về khu vực làm việc mà họ mong muốn, tôi đưa ra 5 phương án lựa chọn gồm 4 khu vực làm việc cơ bản và một phương án mở.
Kết quả thu được thể hiện ở bảng sau :
Bảng 25 : Định hướng khu vực làm việc của sinh viên Xã hội học
STT
Khu vực
%
1
Nhà nước
78%
2
Liên doanh
9%
3
Tư nhân
3%
4
Công ty nước ngoài
3%
5
Không xác định
7%
Tỷ lệ sinh viên Xã hội học định hướng trong khu vực nhà nước là rất cao.Các khu vực còn lại là liên doanh, tư nhân , công ty nước ngoài và những khu vực khác chiếm tỷ lệ không cao. Lý do cơ bản của thực trạng này là Xã hội học Việt Nam hiện nay chưa thực sự phát triển mạnh mẽ chưa được ứng dụng sâu rộng. Nhà nước là khu vực chủ yếu sử dụng những người được đào tạo theo chuyên ngành Xã hội học, sinh viên lựa chọn các khu vực khác sẽ có ít cơ hội làm việc theo đúng chuyên môn ngành nghề. Điều này còn liên quan tới định hướng lĩnh vực làm việc của sinh viên bởi khi định hướng vào lĩnh vực giảng dạy hay nghiên cứu khoa học thì đa phần sinh viên phải lựa chọn khu vực nhà nước, chỉ có lĩnh vực kinh tế là lĩnh vực hoạt động mạnh mà sinh viên có thể lựa chọn trong các khu vực phi nhà nước.
Bảng 26: Cơ cấu định hướng khu vực làm việc
STT
Khu vực
Giới
Năm học
Đô thị
1
Nhà nước
Nam 72,2%
Năm I-II 77,5%
Đô thị 78,7%
Nữ 81,3%
Năm III-IV 78,3%
Nông thôn 77,4%
2
Liên doanh
Nam 13,9%
Năm I-II 7,5%
Đô thị 6,4%
Nữ 6,3%
Năm III-IV 10%
Nông thôn 11,3%
3
Tư nhân
Nam 5,5%
Năm I-II 2,5%
Đô thị 0
Nữ 1,6%
Năm III-IV 3,3%
Nông thôn 5,7%
4
Công ty nước ngoài
Nam 0
Năm I-II 0
Đô thị 4,3%
Nữ 4,7%
Năm III-IV 3,3%
Nông thôn 1,9%
5
Không xác định
Nam 8,3%
Năm I-II 10%
Đô thị 10,6%
Nữ 6,3%
Năm III-IV 5%
Nông thôn 3,8%
Xét theo cơ cấu giới, tỷ lệ sinh viên nữ lựa chọn khu vực nhà nước nhỉnh hơn so với sinh viên nam. Các khu vực còn lại cũng có sự chênh lệch đáng kể giữa 2 giới theo hướng sinh viên nam lựa chọn khu vực liên doanh và tư nhân cao hơn , còn sinh viên nữ lại lựa chọn khu vực công ty nước ngoài cao hơn.
Theo cơ cấu năm học, có sự nhỉnh hơn không đáng kể trong định hướng vào khu vực nhà nước ở nhóm sinh viên năm III-IV.Ba khu vực liên doanh, công ty tư nhân, nước ngoài không có sự phân biệt đáng kể. Riêng với phương án không xác định, sinh viên những năm cuối chiếm 5% còn tỷ lệ này ở sinh viên những năm đầu là cao gấp đôi. Đây là một sự phân hoá hợp lý bởi nhóm sinh viên năm I-II còn nhiều thời gian và một phần trong số họ chưa nghĩ tới hoặc chưa muốn vội vàng quyết định về khu vực làm việc sau này.
Yếu tố hộ khẩu cũng tạo nên những định hướng nhất định trong khu vực làm việc. Khu vực nhà nước được lựa chọn với tỷ lệ cao tương đương ở 2 nhóm. Khu vực liên doanh lại được những sinh viên nông thôn lựa chọn nhiều hơn. Khu vực tư nhân không được một sinh viên đô thị nào lựa chọn còn tỷ lệ này ở sinh viên nông thôn là 5,7%. Trái lại, công ty nước ngoài không trở thành sự lựa chọn của sinh viên nông thôn nhưng lại được 4,3% sinh viên đô thị quan tâm. Tỷ lệ sinh viên chưa xác định được khu vực làm việc cho mình ở nhóm sinh viên đô thị cao hơn nhóm sinh viên nông thôn.
4.1.3 Định hướng lĩnh vực làm việc
Hai phần định hướng như trên mới chỉ đưa ra những thông tin tổng quát về định hướng việc làm trong tương lai của sinh viên Xã hội học. Để tìm hiểu rõ hơn lĩnh vực cụ thể mà họ mong muốn, tôi đưa ra câu hỏi về vấn đề này với những phương án trả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- XHH01 (11).doc