Mục lục
Lời nói đầu.
Nội dung
Phần I: Tổng quan về TTTC:
I/ Khái niệm chung về TTTC.
1. Tiền đề ra đời, tồn tại của TTTC.
2. Khái niệm, đặc điểm, vai trò của TTTC.
3. Cấu trúc TTTC.
4. Các công cụ trên TTTC
II. Thị trường tài chính thế giới.
Phần II. TTTT Việt Nam.
I. Khái quát sơ lược về TTTCVN
1. Các điều kiện hình thành TTTCVN
2. Đặc điểm của TTTC Việt Nam hiện nay.
3. Chức năng của TTTCVN.
II. Thực trạng của TTTCVN hiện nay.
1. Thị trường tiền tệ.
2. Thị trường vốn.
III. Phát triển hoàn thiện TTTCVN giai đoạn hiện nay.
1. Hoàn thiện TTTC là tất yếu khách quan.
2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC.
3. Xây dựng mô hình cho các loại thị trường VN.
Kết luận chung.
19 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1492 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thị trường tài chính và vai trò của nó trong nền kinh tế thị trường, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc trao đổi mua bán các công cụ nợ. Công cụ nợ là sự thoả thuận có tổ chức như một hợp đồng vay mượn mà người đi vay cam kết trả.
Trên thị trường nợ, người đi vay sẽ cam kết trả cho người cho vay cả gốc và lãi trong một kỳ hạn nhất định với phương thức thoả thuận.
Lãi suất trên thị trường tác động lớn vào hoạt động của thị trường nợ, nó quyết định đến cung cầu vốn nợ và cả thời hạn của các khoản vay. Điều chỉnh một mức lãi suất ổn định, hợp lý sẽ làm cơ sở cho tính ổn định thị trường.
b. Thị trường vốn cổ phần.
Là một bộ phận của TTTC, hoạt động thông qua việc phát hành mua bán cổ phiếu, trái phiếu. Các cổ phiếu, trái phiếu là các chứng từ công nhận quyền góp vốn của cổ đông.
Đặc trưng của cổ phiếu trái phiếu là không có một thời hạn cụ thể, sự đóng góp vốn vào công ty có thời hạn phụ thuộc vào việc lưu giữ cổ phiếu của người sở hữu và cả tình hình kinh doanh của công ty, thông thường sau một kỳ hạn nhất định (thường là một năm) chủ sở hữu cổ phần được chia lợi tức.
Như vậy, việc huy động vốn trên thị trường nào, nợ hay vốn cổ phần là tuỳ thuộc vào tình hình mỗi công ty cũng như sự quy định của luật doanh nghiệp. Thông thường, các doanh nghiệp huy động vốn cơ bản chủ yếu là trên thị trường nợ đảm bảo nguồn vốn lớn, tập trung cho đầu tư sản xuất. Còn khi muốn mở rộng sản xuất, tăng vốn điều lệ hoặc để nâng cao hình ảnh của mình thì có thể thamgia huy động trên thị trường vốn cổ phần.
2. Dựa vào kỳ hạn của các công cụ tài chính: Thị trường tiền tệ và thị trường vốn.
a. Thị trường tiền tệ.
Là một bộ phận của TTTC mua bán các công cụ ngắn hạn.
Các công cụ nợ ngắn hạn có đặc trưng cơ bản là: Có tính lỏng cao, thời gian lưu hành luân chuyển ngắn và chi phí chuyển về tiền mặt thấp.
Các công cụ này tham gia trên thị trường tiền tệ ít rủi ro do thời gian ngắn. Do đó, giá cả trong thị trường tiền tệ là khá ổn định.
Trong thị trường tiền tệ, tiền là một hàng hoá đặc biệt, nó phụ thuộc vào sự phát triển của kinh tế thị trường mà ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian cùng tham gia hoạt động. Lãi suất của nó phụ thuộc vào cung cầu tiền tệ trên thị trường và kiểm soát tiền tệ luôn luôn là công việc của chính phủ và mọi ngân hàng trung ương.
Tham gia vào thị trường tiền tệ gồm có các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng, kho bạc, NHTW, các doanh nghiệp, chính phủ...
b. Thị trường vốn:
Là một bộ phận của TTTC diễn ra việc mua bán, trao đổi các công cụ nợ trung, dài hạn và cổ phiếu.
Các công cụ lưu hành có tính lỏng kém, thời gian lưu hành dài. Do đó hoạt động trên thị trường vốn mang tính rủi ro cao và giá cả biến đổi phức tạp do kỳ hạn dài.
Thị trường vốn xét về mặt bản chất phản ánh các quan hệ mua bán không phải là số lượng nhất định các khoản tiền mặt, các tư liệu sản xuất mà là các quyền sở hữu về tư liệu sản xuất và vốn tiền mặt. Như vậy, thị trường vốn là một bộ phận của TTTC được chuyên môn hoá đối với các nguồn lực tài chính và trao quyền sử dụng dài hạn. Do đó, các nguồn lực tài chính này chủ yếu là được đầu tư dài hạn vào đầu tư sản xuất kinh doanh.
Khi lãi suất không ổn định, xu hướng lạm phát cao, hoạt động của thị trường vốn bị thu hẹp và phải nhường chỗ cho thị trường tiền tệ vì lúc đó tham gia thị trường vốn có độ rủi ro rất cao. Do đó, tính ổn định của nền kinh tế thị trường ảnh hưởng lớn đến hoạt động của thị trường vốn.
3. Dựa vào cơ chế hoạt động của TTTC: Thị trường tài cấp I và cấp II.
a. Thị trường cấp I: (sơ cấp).
Là nơi phát hành các công cụ tài chính, được bán trong phạm vi hẹp giữa các nhà phát hành và những người mua đầu tiên.
Trong quá trình phát hành, người phát hành nhìn chung không giao dịch trực tiếp với người mua mà cần thông qua các trung gian xử lý. Do đó thị trường cấp I là thị trường phát hành các công cụ tài chính lần đầu tiên và còn được gọi là thị trường môi giới thông thường, người mua đầu tiên là các ngân hàng, các công ty kinh doanh chứng khoán, các nhà môi giới và các nhà kinh doanh khác.
b. Thị trường cấp II:
Diễn ra các hoạt động mua đi bán lại các công cụ tài chính đã được phát hành trên thị trường cấp I.
Các chứng khoán ở đã được mua ở thị trường cấp I do nhiều nguyên nhân đã được các nhà đầu, môi giới thu hút sự chú ý của nhiều cá nhân, tổ chức khác. Đây mới chính là nơi giao dịch hàng ngày mua đi lại - bán lại kiếm lời trên TTCK.
Lúc này, người bán là các nhà đầu tư đầu tiên, người mua là tất cả các cá nhân, tổ chức muốn đầu tư, kinh doanh kiếm lời.
Phát hành trên thị trường cấp II nói chung không có mục đích tài trợ vốn cho công ty phát hành, nhưng phạm vi diễn ra rộng lớn và thông tin phong phú, phổ biến. Thị trường cấp II như là một dấu hiệu theo dõi công việc kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà còn của cả nền kinh tế. Hoạt động đã diễn ra khỏi nội bộ các nhà kinh doanh và liên quan đến hoạt động, chú ý của dân chúng.
Cả hai thị trường phụ thuộc vào nhau. Thị trường cấp II ảnh hưởng đến thị trường cấp I, việc định giá cả, khối lượng ở thị trường cấp II vừa quy định, vừa phụ thuộc vào hoạt động của thị trường cấp I.
Thông thường không tồn tại ranh giới rõ rệt giữa hai thị trường, các hoạt động đan xen hoà lẫn vào nhau. Thị trường cấp I là cơ sở cho thị trường cấp II, còn thị trường cấp II lại là động lực cho thị trường cấp I.
5. Các công cụ trên TTTC:
a. Các công cụ của thị trường tiền tệ:
+ Trái phiếu kho bạc là công cụ vay nợ ngắn hạn do chính phủ phát hành nhằm bù đắp thâm hụt ngân sách tạm thời và tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của mình.
+ Các chứng chỉ tiền gửi là việc chứng nhận cho tiền gửi vào các ngân hàng thương mại của các nhân, tổ chức.
Phổ biến nhất là hình thức sổ tiết kiệm, séc thanh toán... có thể dùng các chứng chỉ này để thanh toán, tuỳ thuộc vào mức độ chấp nhận thanh toán của dân cư, nền kinh tế và quy định của các tổ chức.
+ Các thương phiếu kỳ phiếu do các ngân hàng thương mại phát hành chủ yếu là để huy động vốn tạm thời, ngắn hạn, đáp ứng nhu cầu vốn cấp bách của các ngân hàng, lãi suất cao song thời gian rất ngắn.
b. Các công cụ của thị trường vốn:
+ Cổ phiếu là một chứng chỉ chứng nhận quyền góp vốn của các cổ đông, nó không phải là một công cụ vay nợ trên TTTC.
Cổ phiếu có mệnh giá trên cổ phiếu song không có lãi suất, tỷ lệ lợi tức cố định mà hoạt động dựa trên khả năng thu lợi nhuận của công ty vào một giai đoạn nhất định. Cổ phiếu có khả năng thu lợi tức cao, hấp dẫn song cũng có mức độ rủi ro rất cao.
Gồm có cổ phiếu ký danh, vô danh, ưu đãi và thông thường. Mỗi loại có những thuận lợi kvà ràng buộc riêng.
+ Trái phiếu là công cụ vay nợ dài hạn của chính phủ, doanh nghiệp trái phiếu chính phủ, vay để thu hút nguồn vốn trung và dài hạn, đặc biệt là dài hạn cho nhu cầu xây dựng, đầu tư các công trình lớn của nền kinh tế, lãi suất cao hơn lãi suất trái phiếu kho bạc do vay dài hạn và củng cố độ an toàn khá cao. Đầu tư vào trái phiếu chính phủ là đầu tư mang tính dài hạn và an toàn.
Trái phiếu doanh nghiệp do các công ty phát hành, lãi suất hấp dẫn nhưng có độ rủi ro khá cao. Đây cũng là khoản đầu tư dài hạn của những người cho vay mạo hiểm.
Các loại trái phiếu gồm có: trái phiếu vay đơn, tiền gốc và lãi được thanh toán một lần khi vào ngày đáo hạn.
Trái phiếu trả cố định sẽ thanh toán các khoản cố định đều nhau cho người mua trong suốt kỳ hạn trái phiếu.
Trái phiếu coupon, tiền lãi trả hàng năm, tiền gốc trả vào ngày đáo hạn sẽ được thanh toán theo mệnh giá.
Trái phiếu vĩnh cưủ: Người mua sẽ nhận một khoản thu nhập hàng năm cố định đến lúc chết và không được rút tiền gốc, không thừa kế
II.Thực trạng của TTTC Việt Nam hiện nay:
Cơ chế thị trường XHCN đang dần dần hình thành phát triển tạo tiền đề cho một TTTC ở Việt Nam. Cùng với đã tăng trưởng của nền kinh tế, TTTC Việt Nam ngày càng đóng một vai trò to lớn và đạt được nhiều thành tựu. Song với chúng ta, phạm trù TTTC vẫn còn là một điều mới mẻ, bước đầu đi vào hoạt động còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng.
1. Thị trường tiền tệ:
+ Thị trường tiền gửi tín dụng ngắn hạn, ra đời cùng với sự hoạt động của hệ thống tín dụng ngân hàng, hoạt động chưa có hiệu quả. Các nguồn lực trong dân chúng chưa được khai thác tối đa. Đặc biệt hiện nay, do hạ lãi suất chiết khấu nhằm nâng cao đầu tư đã kéo theo sự trì trệ của hoạt động tín dụng.
Theo thống kê, nguồn vốn trong dân thì 44% mua vàng, ngoại tệ, 28% mua nhà đất, 17% gửi tiết kiệm ngắn hạn và 19% cho các dự án ngắn hạn.
+ Thị trường nội tệ liên ngân hàng đi vào hoạt động từ tháng 7/93, hiện nay đang hoạt động dưới sự tổ chức và điều hành của Nhà nước. Thông qua quan hệ hợp tác đã đảm bảo cho việc sử dụng nguồn vốn có hiệu quả hơn, có đủ khả năng chi trả thanh toán khi gặp khó khăn.
Việc quy định hoạt động trong thị trường này còn nhiều hạn chế như yêu cầu ngân hàng tham gia phải có tài khoản tại NHTW, có đại diện giao dịch tại trung tâm giao dịch thị trường, đảm bào hệ thống thông tin nội bộ và nối mạng... đặc biệt là còn rất hạn chế cho một tổ chức tín dụng tham gia.
Điều đó làm cho hoạt động của thị trường chưa được rộng khắp và toàn diện, chưa tạo được điều kiện thuận lợi cho nhiều ngân hàng thương mại và tổ chức tín dụng cùng tham gia.
+ Thị trường ngoại tệ liên ngân hàng mua bán ngoại tệ có tổ chức giữa các ngân hàng được phép kinh doanh ngoại tệ. Đi vào hoạt động từ tháng 10/94 dưới sự điều hành giám sát của nhà nước.
+ Thị trường tín phiếu kho bạc và các công cụ nợ ngắn hạn khác:
Tín phiếu kho bạc được phát hành từ đầu những năm 90, có kỳ hạn ngắn, đã đáp ứng được nhu cầu chi tiêu chính phủ và bù đắp thâm hụt ngân sách. Giai đoạn đầu, trái phiếu và tín phiếu kho bạc tăng nhanh, từ 220,5 nghìn tỷ năm 91 lên 6.186 tỷ năm 97 và có lãi suất từ 9 - 12%/năm.
Hiện nay, đặc biệt sau năm 98, thị trường đi vào hoạt động trì trệ, mặc dù đã có lúc nâng đến một mức lãi suất rất cao chưa từng có 2,1%/tháng (25,2%/năm) năm 93 nhưng vốn huy động vẫn còn nhỏ bé so với tiềm năng.
Đối với thị trường thương phiếu, kỳ phiếu hoạt động còn nhỏ bé, chủ yếu mới trên thị trường sơ cấp.
2. Thị trường vốn:
+ Thị trường trái phiếu chính phủ: Đi vào hoạt động từ tháng 7.94 đã giúp Nhà nước huy động được nguồn vốn dài hạn đầu tư xây dựng được một số công trình lớn, trọng điểm quốc gia (đặc biệt là đường dây 500KV, đường Hồ Chí Minh (đang thực hiện và nhiều công trình khác), với số vốn có thể lên đến hàng chục tỷ đồng.
Thời hạn của cả trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ hiện nay đang có xu hướng tăng lên, lãi suất gắn liền với thị trường và có xu hướng giảm dần, làm giảm gánh nặng trả lãi cho ngân sách nhà nước. Hoạt động của thị trường đang ngày càng trở nên phong phú, đa dạng hơn và phổ biến trên cả nước.
+ Thị trường trái phiếu doanh nghiệp.
Đi vào hoạt động từ năm 94, có đặc điểm chủ yếu là tồn tại duy nhất thị trường sơ cấp, mà tại đó chỉ có một phần trái phiếu là được thanh ngắn, tỷ trọng trái phiếu của các công ty kinh doanh còn rất nhỏ, chiếm khoảng 9% so với trái phiếu do ngân hàng phát hành và chủ yếu là bán trực tiếp.
+ Thị trường cổ phiếu.
Bắt đầu đi vào hoạt động từ tháng 6 - 2000, trước đó 9.94 đã được chính phủ ban hành quy chế hoạt động. Theo đó, chỉ có các công ty cổ phần mới được phát hành cổ phiếu.
Hiện tại đã có hơn 200 công ty cổ phần và nhiều doanh nghiệp đã phát hành cổ phiếu mong chỉ được sở hữu mà chưa được đưa vào lưu thông do chưa được phép niêm yết trên TTCK. Điều này đã gây nhiều khó khăn cho việc cung ứng với cho nền kinh tế, làm chậm quá trình đổi mới. Đặc biệt là tiến trình cổ phần hoá diễn ra còn chậm, kém hiệu quả, nhiều doanh nghiệp sau cổ phần hoá không được thông tin hoạt động.
Tuy vậy, sự ra đời của TTCK với 4 công ty được niêm yết bắt đầu gây dựng cơ sở cho TTCK sau này (REE, SACOM, HAPHACO, TRANSIMEX). Các phiên giao dịch đã bắt đầu sôi động mặc dù còn nhỏ bé, hàng giao dịch còn ít. Trước đó, năm 97, SACOM nhờ phát hành cổ phiếu (240.000 cổ phiếu mệnh giá 500.000đ) mà tăng tài sản lên 10 lần, thông qua hoạt động giao dịch trên TTCK, các công ty trên đã mở rộng được sản xuất kinh doanh, nâng cao được uy tín vị thế của mình trên thị trường cạnh tranh tạo được những hướng đi mới. Nhìn chung TTCK Việt Nam còn mới mẻ song bước đầu đã tạo lòng tin cho nhân dân.
Thực trạng TTTC Việt Nam.
Nhìn về tổng thể, số vốn huy động được trên TTTC tăng, nhưng tổng giá trị tín phiếu cổ phiếu giai đoạn 91 - 97 đạt 2,5% GDP. Nó còn quá nhỏ bé so với nhu cầu kinh tế xã hội (trong khi ở các quốc gia phát triển, khoản vay trong nước chiếm hơn 50% GDP).
Kho bạc nhà nước, theo ước tính, mới chỉ huy động được 15% số tiền nhàn rỗi trong dân, khi mà lượng tiền này ước đạt 25 - 30 nghìn tỷ đồng. Lãi suất trái phiếu luôn cao hơn lãi suất như là một điều không thực tế so với nhiều nước trên trong mà một nguyên nhân chính là do sự yếu kém của hệ thống ngân sách, do tài sản này của họ thiếu, nợ khó đòi tăng, tình hình kinh doanh khó khăn buộc phải tăng lãi suất tiền gửi lên cao hơn quy định, do đó mà người dân thích gửi tiền vào ngân sách hơn là mua trái phiếu cổ phiếu và trái phiếu công ty. Để có thể thu hút cổ phiếu đã phải nâng lãi suất lên rất cao.
Hiện tại mới chỉ có khi bạc nhà nước và NHTW được quyền tham gia vào việc phát hành vay nợ. Điều này, mặc dù thể hiện sự non yếu của thị trường về các thiết chế thị trường khác vẫn chưa xuất hiện nhưng hiện tại là chấp nhận được.
Mặc dù còn nhiều yếu kém, bất cập, song về cơ bản, TTTC Việt Nam đã có nhiều khởi sắc, đã thu hút được một lượng vốn nhất định cho đầu tư phát triển đất nước. Bước đầu hình thành TTCK ở Việt Nam tạo cho mọi cá nhân tham gia, tiếp xúc với một TTTC hiện đại, phát triển.
III. Phát triển và hoàn thiện TTTC ở Việt Nam.
1. Hoàn thiện TTTC ở Việt Nam là một tất yếu khách quan.
Với bất cứ một quốc gia nào đi theo nền kinh tế thị trường, TTTC là "phong vũ biểu", là dấu hiện đặc trưng của nền kinh tế. Các tín nhiệm trên TTTC có ảnh hưởng lớn đến tâm lý tiêu dùng, đầu tư. TTTC lành mạnh, ổn định sẽ giúp, đảm bảo cho các hoạt động kinh tế bền vững, an toàn, tạo một không khí yên tâm, thoải mái trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Xuất phát từ nhu cầu cấp bách hiện nay, chúng ta phải đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cần có một TTTC hoàn thiện nhằm phát huy mọi nguồn nội lực và ngoại lực, tài trợ đủ vốn, công nghệ kỹ thuật cho quá trình phát triển hoàn thành công nghiệp hoá đất nước.
Xuất phát từ thực trạng nhỏ bé, yếu kém của TTTC Việt Nam hiện nay cần phải phát triển và hoàn thiện để có thể đáp ứng được yêu câùa đặt ra, từng bước nâng cao vai trò của mình đối với nền kinh tế và hội nhập vào quốc tế, khu vực.
Xuất phát từ thực tiễn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ năm 1997, hoàn thiện TTTC luôn là một điều tất yếu khách quan do tầm quan trọng cũng như tính nhạy cảm của nó. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá, TTTC dễ chịu những cú sốc bên ngoài. Dù TTTC có phát triển ở một trình độ cao như Nhật Bản, Hàn Quốc thì vẫn chịu những hậu quả nặng nề từ cuộc khủng hoảng.
Chính vì vậy, phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam luôn là tất yếu.
2. Các giải pháp chung cho phát triển, hoàn thiện TTTC ở Việt Nam.
+ Để phát triển TTTC cần dựa trên một nền kinh tế thị trường hoàn thiện đây là điều hiển nhiên. TTTC vững mạnh góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, ngược lại kinh tế thị trường hoàn thiện sẽ tác động ngược trở lại chính TTTC và làm nền tảng cơ sở, làm môi trường cho TTTC phát triển bền vững.
Để phát triển hoàn thiện kinh tế thị trường, từ ngay bây giờ cần có các chính sách cho phù hợp. Đường lối phát triển kinh tế đóng một vai trò quyết định bao trùm lên cả sự phát triển, điều này phụ thuộc lớn vào hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước.
Phát triển đồng bộ các ngành, lĩnh vực dựa trên việc khai thác tối đa các nguồn lực về tài nguyên thiên nhiên phong phú, nguồn lao động dồi dào và giá nhân công thấp. Mặc dù vậy vẫn phải hướng nền kinh tế vào mô hình hướng về xuất khẩu mà nhiều nước châu á (Nhật Bản, các nước NICs) đã rất thành công; ưu tiên vào các ngành mũi nhọn và ngành thế mạnh: chế biến nông lâm thủy sản, dệt may, dầu khí... và đặc biệt là điện tử - tin học, ngành học có nhiều triển vọng. Luôn luôn coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu do chúng ta có gần 80% dân số nông thôn, nâng cao thu nhập cho họ sẽ là tăng thu nhập cho một bộ phận rất lớn dân cư, từ đó tăng được tiêu dùng, tích lũy cho nền kinh tế và vượt được ra khỏi đường giới hạn khả năng sản xuất.
Đối với Việt Nam, cần lưu ý rằng, phát triển hoàn thiện TTTC phải dựa trên một nền kinh tế thị trường XHCN đề cao vai trò của Nhà nước và thành phần kinh tế Nhà nước về quản lý kinh tế, dựa trên chế độ đa sở hữu song công hữu vẫn là ưu thế, đại bộ phận nhân dân làm chủ.
+ Nâng cao vai trò điều tiết kinh tế vĩ mô của nhà nước, đặc biệt là NHTW cũng như kiện toàn hệ thống ngân hàng thương mại.
Đối với Nhà nước, cần có biện pháp quản hành chính song song với quản lý kinh tế. Thông qua các chính sách tài khoá và tiền tệ có thể điều chỉnh ổn định nền kinh tế vĩ mô.
Thực tiễn không chỉ đối với Việt Nam mà còn rất nhiều nhà nước khác, để đạt được mục tiêu kinh tế này thì lại bị ảnh hưởng mục tiêu kinh tế khác. Chẳng hạn, để giảm lạm phát thì có thể thất nghiệp tăng, để kích cầu nền kinh tế có thể dẫn đến thâm hụt ngân sách, lạm phát tăng, hay tăng thuế thì giảm thâm hụt ngân sách song kinh tế lại trì trệ vv... Chính vì vậy, cần chú ý rằng nhà nước đang theo đuổi mục tiêu vĩ mô nào, và khi thực thi sẽ ảnh hưởng như thế nào đến TTTC - tiền tệ, vì hầu hết các chính sách vĩ mô đều tác động đến TTTC: lạm phát, tỷ giá hối đoái thâm hụt ngân sách, lãi suất chiết khấu.v.v...
+ Tạo điều kiện cho mọi chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia vào thị trường bình đẳng. Điều này là cần thiết cho một TTTC XHCN. Tạo cho tất cả mọi chủ thể có cùng một cơ hội như nhau, khi đó sẽ tạo ra được môi trường cạnh tranh hoàn hảo, tất cả mọi chủ thể sẽ phát huy được năng lực của mình, góp phần thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển.
+ Hình thành cơ chế đồng bộ, về hoạt động cho TTTC Việt Nam thống nhất từ trung ương đến địa phương
+ Cải tiến phương thức phát hành các công cụ tài chính, tăng thêm hàng hoá giao dịch và khuyến khích mua đi bán lại trên TTTC.
+ Phát triển, đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động tài chính đảm bảo hoạt động chính xác, kịp thời, an toàn.
Việc điện tử hoá các hệ thống giao dịch, trao đổi đảm bảo xử lý công bằng và hình thành hệ thống giá thị trường tốt nhất cho các nhà đầu tư, cho phép các trung tâm lớn (...) kết nối với nhau tạo nên một thị trường thống nhất trên cả nước. Đây là một giải pháp khác hợp lý cho tình hình phát triển công nghệ quốc tế và sự ứng dụng công nghệ viễn thông đang diễn ra với tốc độ nhanh tại Việt Nam.
Không chỉ đảm bảo sự thống nhất trong nước ứng dụng, công nghệ thông tin còn giúp TTTC Việt Nam hoà nhập dễ hơn vào TTTC quốc tế và khu vực, tranh thủ thông tin của quốc tế vào tạo điều kiện tốt hơn cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Phát triển mạnh cơ sở hạ tầng kỹ thuật sản xuất điện, đường, nhà xưởng... góp phần tạo ra một môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư giúp huy động các nguồn lực tài chính, đặc biệt là nước ngoài. Thực tiễn ở Việt Nam, cơ sở hạ tầng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Vùng Đông Nam bộ (Thành phố Hồ Chí Minh - Đồng Nai - Bình Dương - Vũng Tàu...) là vùng có cơ sở hạ tầng phát triển nhất Việt Nam hiện nay hàng năm thu hút hầu hết vốn tư bản nước ngoài và cũng là vùng có TTTC phát triển nhất Việt Nam hiện nay, đang thử nghiệm trung tâm giao dịch chứng khoán đầu tiên của Việt Nam.
+ Đào tạo đội ngũ nhân viên hoạt động trên TTTC năng động, có chuyên môn nghề nghiệp. Nguồn nhân lực là nguồn lực quan trọng nhất trong bất cứ tổ chức nào, đặc biệt là lĩnh vực tài chính ngân hàng luôn luôn cần có sự nhạy bén, sáng tạo, biết phân tích đánh giá tình hình thị trường.
+ Hình thành hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn chỉnh.
Pháp luật là công cụ để Nhà nước quản lý về kinh tế trên TTTC đảm bảo sự hoạt động an toàn, có hiệu quả. Một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh vừa đảm bảo tính thống nhất của thị trường, vừa lành mạnh hoá các quan hệ tài chính lại là môi trường đảm bảo cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước.
+ Từng bước đưa TTTC Việt Nam hội nhập vào quốc tế và khu vực. Hội nhập từng bước qua nhiều hoạt động: Đầu tư nước ngoài, vay thương mại, viện trợ ODA, đầu tư chứng khoán...
3. Xây dựng một mô hình cho các loại thị trường ở Việt Nam.
a. Thị trường tiền tệ.
Cùng với sự đổi mới của đất nước chuyển sang cơ chế thị trường, thị trường tiền tệ cũng có những căn bản cả về nhận thức cũng như thực tiễn. Hiện nay, thị trường tiền tệ đã được thừa nhận về lý luận cũng như thực tiễn của nó trong nền kinh tế.
Trọng tài trung tâm của thị trường tiền tệ là Nhà nước kiểm soát thị trường tiền tệ ở tầm vĩ mô thông qua cung cầu tiền tệ. Công cụ tác động chủ yếu là cung - cầu tiền và lãi suất. Với mục tiêu là giá cả ổn định, tăng trưởng nhanh, giảm tỷ lệ thất nghiệp ở mức tự nhiên và lạm phát vừa phải chính phủ cần hài hoà cung cầu tiền tệ.
Việc điều hành tiền tệ nên sử dụng đồng thời các công cụ: Nghiệp vụ thị trường mở, điều chỉnh tỷ lệ dự trữ, tỷ lệ cho vay chiết khấu, hạn mức tín dụng và điều hành lãi suất. Mỗi công cụ có ưu điểm, nhược điểm riêng, phát huy mỗi công cụ là tuỳ vào hoàn cảnh của từng thời điểm.
Việc áp dụng một chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt cũng ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ. (Về lâu dài thì nó ảnh hưởng đến thị trường vốn). Mỗi khi hạ thấp giá trị đồng nội tệ cần tranh thủ tăng cường xuất khâủ, tuy nhiên ở Việt Nam hiện nay, 80% nguyên liệu cho hàng xuất khẩu lại phải nhập khẩu (dệt may, giầy da, nguyên liệu, máy móc cho chế biến). Chính vì vậy tỉ giá hối đoái cao cho đồng nội tệ (hay đồng Việt Nam lên giá) lại là điều giúp tăng xuất khẩu. Đặc biệt, nó sẽ giúp đồng Việt Nam mạnh hơn trong khu vực và tương lai có giá trị chuyển đổi, lúc đó đảm bảo cho thị trường tiền tệ linh hoạt, ổn định hơn.
Cần chuyển mọi hoạt động tiền tệ sang cơ chế thị trường, nhà nước chỉ kiểm soát ở tầm vĩ mô, nới lỏng, tính đến thả nổi lãi suất, đảm bảo cho các thành viên tham gia thị trường bình đẳng. Việc bình đẳng giữa các tổ chức, thành viên đặc biệt là các tổ chức tín dụng, các công ty tài chính sẽ tạo ra thị trường cạnh tranh lành mạnh, khi đó các doanh nghiệp
ở xây dựng một môi trường kinh tế xã hội ổn định, bình ổn chính trị, hệ thống pháp luật đồng bộ cũng chính là xúc tác cho một thị trường tiền tệ ổn định ở Việt Nam.
b. Mô hình thị trường vốn.
Xây dựng một thị trường vốn như thế nào là yêu cầu cấp bách cho tiến trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá tại Việt Nam.
Đối với thị trường vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, các cơ chế về lãi suất, tỷ giá cũng rất quan trọng. Với một tỷ giá, lãi suất linh hoạt nhưng lành mạnh, ổn định sẽ đảm bảo bình ổn cho thị trường vốn. Bởi vì khi lãi suất, tỷ giá lên xuống thất thường, đặc biệt là vấn đề lạm phát cao sẽ có nguy cơ biến thị trường vốn thành thị trường tiền tệ. Do đó, nâng cao vai trò điều tiết vĩ mô của nhà nước, vai trò của NHTW, bình đẳng về lãi suất, tỷ giá thả nổi có didều tiết... cũng luôn là điều cần thiết cho thị trường vốn Việt Nam.
Cung cấp vốn cho thị trường, hệ thống ngân hàng đóng vai trò hết sức quan trọng. Do đó phải xây dựng được hệ thống ngân hàng đa năng theo cơ chế kinh doanh giao vốn và có trách nhiệm bảo toàn sinh lời vốn. Đảm bảo cho hệ thống ngân hàng được tin học hoá, đặc biệt là giải quyết tốt vấn đề thông tin không cân xứng, vì ở Việt Nam nói riêng (cũng như các nước đang phát triển nói chung) cho ai vậy, vay để làm gì vẫn là một câu hỏi quan trọng (còn ở các nước phát triển thì quan tâm đến cho vay có lợi nhuận cao không và nhiều khi được thế chấp đảm bảo bằng tài sản đầy đủ).
Phát triển một nền kinh tế vĩ mô đi đôi với lại phân phối lại thu nhập công bằng chính là cơ sở cho việc nuôi dưỡng nhiều nguồn vốn thu, đảm bảo cung cấp cho thị trường. Bởi vì nước ta có 80% dân số hoạt động nông nghiệp thu nhập thấp và bấp bênh, điều đó khiến cho sức mua kém, khả năng đóng góp cung cấp vốn hạn chế, lãng phí lớn một nguồn nhân lực dồi dào.
Nâng cao thu nhập sẽ góp phần nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh, họ sẽ cần nhiều vốn dài hạn hơn cho đầu tư sản xuất kinh doanh, từ đó lại tăng thu nhập, đóng góp vốn cho thị trường, giải quyết được nhiều mục tiêu xã hội. Vấn đề đặt ra là cần phân phối lại thu nhập như thế nào cho hợp lý, hài hoà.
Thị trường vốn ở Việt Nam hiện nay còn đơn điệu, nhỏ bé. Tăng dung lượng hàng hoá cho thị trường là điều cần thiết. Trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, công trái, cổ phiếuv.v... cần được đa dạng hoá. Tạm thời cần tập trung hoá thị trường song về lâu dài, cần mở rộng ra nhiều trung tâm giao dịch phù hợp tập trung sẽ vừa đảm bảo thu hút nhiều vốn dài hạn, vừa giảm chi phí giao dịch.
Về TTCK, việc tăng dung lượng thị trường thêm sôi động là quan trọng. Đảm bảo thông tin thị trường, lựa chọn các công ty điển hình đưa vào giao dịch tập trung. Mở thêm nhiều điểm phi tập trung để các doanh nghiệp nhỏ có cơ hội hơn cho huy động vốn và mở rộng kinh doanh, nâng cao uy tín,. Nới lỏng quy định về vốn pháp định song lại hạn chế hơn về điều kiện kinh doanh.
Giám định TTCK thường xuyên, ngăn chặn các hoạt động đầu cơ gây ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh doanh nghiệ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35422.doc