MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU
CHƯƠNG 1 : TỔNG QUAN VỀ TRÁI PHIẾU
1.1 Vị trí của thị trường trái phiếu
1.2 Khái niệm
1.3 Đặc điểm
1.3.1 Mệnh giá
1.3.2 Lãi suất
1.3.3 Thời gian đáo hạn
1.4 Phân loại
1.4.1 Trái phiếu chính phủ
1.4.2 Trái phiếu địa phương
1.4.3 Trái phiếu kho bạc dài hạn và tín phiếu kho bạc ngắn hạn
1.4.4 Trái phiếu doanh nghiệp
1.5 Vai trò
1.5.1 Đối với nền kinh tế
1.5.2 Đối với doanh nghiệp
1.5.3 Đối với nhà đầu tư
1.6 So sánh giữa cổ phiếu và trái phiếu
CHƯƠNG 2 : THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
2.1 Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu
2.1.1 Thị trường chứng khoán
2.1.2 Thị trường trái phiếu
2.2 Một số thực trạng của thị trường trái phiếu Việt Nam
2.2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam
2.2.2 Trái phiếu Chính phủ
2.2.3 Trái phiếu doanh nghiệp
2.2.4 Trái phiếu chính quyền địa phương
2.2.5 Kết luận về tình hình trái phiếu Việt Nam hiện nay và nguyên nhân
2.3 Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
2.3.1 Mở rộng qui mô, đa dạng hoá và tăng tính thanh khoản
2.3.2 Phát triển công cụ phái sinh liên quan đến trái phiếu
2.3.3 Xây dựng và phát triển hệ thống định mức tín nhiệm
2.3.4 Thu hút và phát triển đội ngũ tạo lập thị trường
2.3.5 Xây dựng thị trường trái phiếu chuyên biệt
2.3.6 Thực hiện công khai hóa thông tin
2.3.7 Hoàn thiện hệ thống pháp lý và hệ thống quản lý
KẾT LUẬN
26 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 8574 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thị trường trái phiếu Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được chi trả dựa vào nguồn thuế của địa phương, từ các dự án cụ thể hoặc từ nguồn thu phí giao thông qua các công trình công cộng.
Thông thường, trái phiếu chính phủ và trái phiếu địa phương được hưởng ưu đãi thuế, tức là thu nhập từ trái phiếu của trái chủ nếu sống trong địa phương đó sẽ được miễn thuế thu nhập. Điều này khuyến khích những người có vốn nhàn rỗi tham gia đầu tư vào ngân sách, tạo điều kiện phát triển đất nước nói chung cũng như địa phương nói riêng.
Trái phiếu kho bạc dài hạn và tín phiếu kho bạc ngắn hạn
Hai loại này thường được phát hành bằng đấu giá thông qua hệ thống ngân hang Nhà nước và là những công cũ đầu tư chủ yếu của các ngân hang và cá nhân.
Trái phiếu doanh nghiệp
Là những trái phiếu do doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần và công ty trách nhiệm hữu hạn phát hành để tăng vốn hoạt động.
Để có thể phát hành được trái phiếu, doanh nghiệp phải hội tụ được những điều kiện sau:
+ Là công ty cổ phần, công ty TNHH, DNNN có mức vốn điều lệ đã góp tại thời điểm đăng ký phát hành là 10 tỷ đồng VN.
+ Hoạt động kinh doanh của năm liền trước năm đăng ký phát hành phải có lãi, đồng thơ không có lỗ luỹ kết đến năm đăng ký chào bán, không có các khoản nợ phải trả quá hạn trên 1 năm.
+ Có phương án phát hành, phương án sử dụng và trả vốn thu được từ đợt phát hành trái phiếu.
+ Có cam kết thực hiện nghĩa vụ của tổ chức phát hành đối với nhà đầu tư về điều kiện phát hành, thanh toán, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư và các điều kiện khác.
Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều loại và rất đa dạng.
Giấy nợ
Giấy nợ là cam kết bảo đảm chi trả lãi suất và vốn gốc, phụ thuộc vào tình hình hoạt động của công ty. Các chủ nợ thường được ưu tiên trong việc chi trả.
Trái phiếu có đảm bảo bằng tài sản
Là loại trái phiếu mà người phát hành dùng một tài sản có giá trị làm vật đảm bảo cho việc phát hành. Khi nhà phát hành mất khả năng thanh toán, thì trái chủ có quyền thu và bán tài sản đó để thu hồi lại số tiền người phát hành còn nợ. Trái phiếu bảo đảm thường bao gồm một số loại chủ yếu sau:
Trái phiếu có tài sản cầm cố: Là loại trái phiếu bảo đảm bằng việc người phát hành cầm cố một bất động sản để bảo đảm thanh toán cho trái chủ. Thường giá trị tài sản cầm cố lớn hơn tổng mệnh giá của các trái phiếu phát hành để đảm bảo quyền lợi cho trái chủ.
Trái phiếu bảo đảm bằng chứng khoán ký quỹ: Là loại trái phiếu được bảo đảm bằng việc người phát hành thường là đem ký quỹ số chứng khoán dễ chuyển nhượng mà mình sở hữu để làm tài sản bảo đảm.
Trái phiếu thu nhập
Là loại trái phiếu kém an toàn hơn trái phiếu thường vì hình thức và thời gian chi trả lãi suất định trước nhưng lãi suất chỉ được trả đúng hạn nếu công tu có thu nhập được phần lãi suất vào đúng ngày qui định. Nếu không chi trả được thì được xem như là nợ còn khất lại.
Trái phiếu chuyển đổi
Là loại trái phiếu của công ty cổ phần mà trái chủ được quyền chuyển sang cổ phiếu của công ty đó. Việc này được quy định cụ thể về thời gian và tỷ lệ khi mua trái phiếu.
Vai trò
Đối với nền kinh tế
Thứ nhất, thị trường trái phiếu là một trong những kênh huy động vốn của thị trường tài chính, thu hút nguồn vốn lớn từ những nhà đầu tư có vốn tiết kiệm nhàn rỗi sang những người có nhu cầu thực sự về vốn, góp phần thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, tạo nên những hoạt động đầu tư, kinh doah thực sự có hiệu quả.
Thứ hai, trái phiếu góp phần đa dạng hoá các công cụ tài chính. Bên cạnh thị trường cổ phiếu với mức độ rủi ro cao thì trái phiếu được xem là kênh đầu tư an toàn hơn và có hiệu quả cao trong đầu tư dài hạn
Thứ ba, thị trường trái phiếu phát triển giúp Chính phủ thực hiện chính sách tiền tệ, thực thi chức năng quản lý vĩ mô kinh tế - xã hội có hiệu quả. Trái phiếu chính phủ phát hành khuyến khích các cá nhân, tổ chức tham gia phát triển kinh tế đất nước, giảm áp lực cung - cầu tiền mặt trên thị trường, ổn định môi trường tiền tệ, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực tài chính trong nước. Đồng thời, nguồn vốn từ trái phiếu chính phủ được phân bổ hợp lí nhằm phát triển các công trình công cộng, phúc lợi xã hội. Từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân.
Đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, trái phiếu giúp doanh nghiệp có thể huy động vốn một cách dễ dàng. Trong hoạt động kinh doanh, nhu cầu vốn lúc nào cũng rất lớn. Ngoài hình thức vay vốn thông qua ngân hang ( huy động vốn gián tiếp ) và phát hành cổ phiếu thì phát hành trái phiếu giúp doanh nghiệp chủ động trong việc thanh toán lãi suất và vốn gốc tuỳ theo tình hình cụ thể của công ty.
Thứ hai, khi cần huy động vốn mà doanh nghiệp ngại phát hành cổ phiếu vì nhiều lí do như bị pha loãng quyền sở hữu, lợi nhuận bị chia đều cho các nhà đầu tư tuỳ thuộc vào tình hình làm ăn của công ty thì phát hành trái phiếu là một giải pháp tối ưu. Tuy nhiên , muốn tham gia phát hành trái phiếu thì doanh nghiệp phải đảm bảo các yêu cầu về qui mô hoạt động, tình hình làm ăn, hệ thống kế toán - kiểm toán phù hợp với qui định của pháp luật.
Đối với nhà đầu tư
Tuỳ vào tình hình tài chính và khả năng mạo hiểm, nhà đầu tư có thể lựa chọn cho mình kênh đầu tư thích hợp. Nếu như đầu tư vào cổ phiếu mang lại lợi nhuận cao hơn, nhưng bên cạnh đó rủi ro tương đối cao thì trái phiếu là giải pháp an toàn dài hạn. Hơn thế nữa, nếu một doanh nghiệp giải thể hay phá sản thì trái chủ luôn được ưu tiên thanh toán trước các cổ đông.
1.6 So sánh trái phiếu và cổ phiếu
TRÁI PHIẾU
CỔ PHIẾU
Nhà phát hành
Công ty
Chính phủ
Địa phương
Công ty cổ phần
Loại chứng khoán
Chứng khoán nợ ( quan hệ chủ nợ đối với nhà phát hành )
Chứng khoán vốn ( thể hiện quyền sở hữu đối với công ty )
Thời gian đáo hạn
Có thời gian đáo hạn tuỳ vào loại trái phiếu
Không có thời gian đáo hạn, cổ đông chỉ được nhận lại vốn gốc khi công ty phá sản hoặc giải thể
Rủi ro
Thấp (được ưu tiên thanh toán trước cổ đông )
Cao ( là người nhận tài sản cuối cùng khi công ty phá sản )
Lãi suất
Lãi suất cố định
cổ tức được chia theo tỉ lệ phụ thuộc vào tình hình làm ăn của công ty ( chỉ chia cổ tức khi công ty làm ăn có lãi )
Quyền bầu cử
Không
Có
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG TRÁI PHIẾU VIỆT NAM
2.1 Cơ sở pháp lý cho quá trình phát triển thị trường trái phiếu
2.1.1 Thị trường chứng khoán
Do sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu tích vốn trong xã hội tăng lên và ngày càng trở nên đa dạng, phong phú; người dùng vốn để đầu tư, người thì có vốn nhàn rỗi muốn cho vay để sinh lời. Họ tìm gặp nhau trực tiếp trên cơ sở quen biết. Tuy nhiên sau đó, khi cung cầu vốn không ngừng tăng lên thì hình thức vay, cho vay trực tiếp dựa trên quan hệ quen biết không đáp ứng được; Vậy cần phải có một thị trường cho cung và cầu gặp nhau, đáp ứng các nhu cầu tài chính của nhau – Đó là thị trường tài chính.
Y Ban đầu nhu cầu vốn cũng như tiết kiệm trong dân chưa cao và nhu cầu về vốn chủ yếu là vốn ngắn hạn. Theo thời gian, sự phát triển kinh tế, nhu cầu về vốn dài hạn cho đầu tư phát triển ngày càng cao; Chính vì vậy, Thị trường vốn đã ra đời để đáp ứng các nhu cầu này. Để huy động được vốn dài hạn, bên cạnh việc đi vay ngân hàng thông qua hình thức tài chính gián tiếp, Chính phủ và doanh nghiệp còn huy động vốn thông qua hình thức phát hành chứng khoán. Đây chính là sự ra đời của Thị trường chứng khoán với tư cách là một bộ phận của Thị trường vốn nhằm đáp ứng nhu cầu mua, bán và trao đổi chứng khoán các loại
Hòa mình vào xu hướng phát triển nền kinh tế thị trường của thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng ra đời dể đáp ứng nhu cầu khách quan của xã hội
Việc xây dựng và phát triển TTCK là mục tiêu đã được Đảng và Chính phủ Việt Nam định hướng từ những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ 20) nhằm xác lập một kênh huy động vốn mới cho đầu tư phát triển. Trên cơ sở định hướng được nêu tại các Văn kiện Đại hội Đảng VI, VII, VIII, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 75/1996/NĐ-CP ngày 28/11/1996 về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán Nhà nước (UBCKNN) và ngày 12/8/2003 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 90/2003/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước nhằm mục đích quản lý các hoạt động kinh doanh chứng khoán ở Việt Nam. Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán và Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán là những văn bản tạo cơ sở pháp lý quan trọng để thiết lập, vận hành thị trường chứng khoán Việt Nam.
Một trong những bước đi đầu tiên có ý nghĩa khởi đầu cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam là việc thành lập Ban Nghiên cứu xây dựng và phát triển thị trường vốn thuộc Ngân hàng Nhà nước (Quyết định số 207/QĐ-TCCB ngày 6/11/1993 của Thống đốc Ngân hàng nhà nước) với nhiệm vụ nghiên cứu, xây dựng đề án và chuẩn bị các điều kiện để thành lập TTCK theo bước đi thích hợp.
Theo sự uỷ quyền của Chính phủ, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức nghiên cứu về các lĩnh vực liên quan đến hoạt động của TTCK, đề xuất với Chính phủ về mô hình TTCK Việt Nam, đào tạo kiến thức cơ bản về chứng khoán và TTCK cho một bộ phận nhân lực quản lý và vận hành thị trường trong tương lai; nghiên cứu, khảo sát thực tế một số TTCK trong khu vực và trên thế giới…
Tháng 9/1994, Chính phủ quyết định thành lập Ban soạn thảo Pháp lệnh về chứng khoán và TTCK do một đồng chí Thứ trưởng Bộ Tài chính làm Trưởng Ban, với các thành viên là Phó Thống đốc NHNN, Thứ trưởng Bộ Tư pháp. Trên cơ sở Đề án của Ban soạn thảo kết hợp với đề án của NHNN và ý kiến của các Bộ, ngành liên quan ngày 29/6/1995, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 361/QĐ-TTg thành lập Ban Chuẩn bị tổ chức TTCK giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo chuẩn bị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng TTCK ở Việt Nam.
2.1.2 Thị trường trái phiếu
Những văn bản cơ sở điều chỉnh hoạt động của thị trường trái phiếu:
Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998 về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Hướng dẫn về việc phát hành chứng khoán ra công chúng, giao dịch chứng khoán và các dịch vụ liên quan đến chứng khoán và TTCK. Nghị định được xây dựng để chuẩn bị cho sự ra đời của TTCK và tạo điều kiện kịp thời cho TTCK nước ta đi vào hoạt động.
Luật Doanh nghiệp được Quốc hội thông qua ngày 12/06/1999 và có hiệu lực ngày 01/01/2000, đã thay thế cho Luật Công ty 1990 và việc phát hành trái phiếu của doanh nghiệp cũng được điều chỉnh theo Luật Doanh nghiệp.
Nghị định 72/CP ngày 26/07/1994 được thay thế bằng Nghị định 01/2000/NĐ-CP ngày 13/01/2000 ban hành quy chế phát hành trái phiếu Chính phủ.
Nghị định 141/2003/NĐ-CP ngày 20/11/2003 về việc phát hành TPCP, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh, TPCQĐP thay thế cho Nghị định 01/2000/NĐ-CP . Tiếp theo, Chính phủ ban hành Nghị định 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 về chứng khoán và thị trường chứng khoán thay thế cho Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/07/1998.
Nghị định 52/2006/NĐ-CP ngày 19/05/2006 về việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp thay thế cho Nghị định 120/CP ngày 17/09/1994.
Ngày 29/06/2006 Quốc hội khóa XI, kỳ họp thứ 9 đã thông qua Luật chứng khoán.
Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng chính phủ đã ra mắt hiệp hội trái phiếu Việt Nam (VBMA) đồng thời cũng là đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các hội viên, giúp các hội viên liên kết, phát triển vì một thị trường trái phiếu lành mạnh, bền vững.
Mục tiêu hoạt động của Hiệp hội là chuẩn hoá tập quán thương mại và thông lệ thị trường đối với các giao dịch trái phiếu và công cụ nợ khác tại thị trường trái phiếu Việt Nam; thiết lập các quy tắc ứng xử, hành nghề và đạo đức nghề nghiệp để điều chỉnh mối quan hệ giữa các đối tác nhằm đảm bảo sự bình đẳng cho các thành viên tham gia thị trường; nâng cao tính chuyên nghiệp của thị trường, qua đó lượng phát hành sẽ đa dạng, phong phú, có cấu trúc thị trường phù hợp, quy mô các lô phát hành sẽ lớn dần.
IFC sẽ tiếp tục hỗ trợ tư vấn cho VBMA trong giai đoạn thành lập và xây dựng thông lệ thị trường; đồng thời lựa chọn Hiệp hội thị trường trái phiếu Thái Lan (ThaiBMA) là nhà tư vấn trong quá trình dự thảo bộ quy ước thị trường, bộ thông lệ và quy tắc đạo đức cho thị trường trái phiếu Việt Nam.
Việc thành lập thị trường trái phiếu là bước đi tất yếu nhằm phát triển năng lực cung cấp các dịch vụ tài chính của Việt Nam khẳng định sự phát triển của nước ta trong quá trình xây dựng đất nước. Đây cũng là một kênh huy động vốn rất hữu hiệu cho các dự án phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án y tế và giáo dục khi mà Việt Nam đang tiếp tục phát triển và phải giải quyết những thách thức về đô thị hoá cũng như tạo thêm nhiều công ăn việc làm.
Thị trường trái phiếu đã và đang chứng minh được vai trò to lớn và vững chắc của mình trong quá trình hội nhập và phát triển. Đó là một xu hướng tất yếu và la một biểu hiện tích cực của quá trình toàn cầu hóa.
2.2 Một số thực trạng của thị trường trái phiếu Việt Nam
2.2.1 Đánh giá chung về thị trường trái phiếu Việt Nam
NĂM 2008 NĂM 2009
Dựa vào hai biểu đồ trên ta có thể thấy được xu thế của các loại trái phiếu trên thị trường Việt Nam qua hai năm 2008 và 2009 như sau:
CÁC LOẠI TRÁI PHIẾU (TP)
ĐẶC ĐIỂM
TP Kho bạc Nhà nước
Tăng mạnh (17%)
TP doanh nghiệp
Tăng nhẹ (3%)
TP chính quyền địa phương
Giảm rất nhẹ (- 1%)
TP Ngân hàng Phát triển Việt Nam
Giảm mạnh (- 19%)
Có sự biến động trên là do thị trường trái phiếu Chính phủ và trái phiếu doanh nghiệp ngày càng được đẩy mạnh phát triển cùng với sự phát triển và hội nhập của nền kinh tế. Mà Kho bạc Nhà nước lại là kênh phát hành trái phiếu Chính phủ chủ yếu.
Loại trái phiếu phát hành thành công nhất trong hai năm qua là trái phiếu Kho bạc nhưng tỷ lệ bán được cũng chỉ ở mức 15%, còn đa số các loại trái phiếu chỉ bán được dưới 7% so với kế hoạch. Đặc biệt trái phiếu chính quyền địa phương hoàn toàn không thu hút được sự quan tâm của nhà đầu tư, còn trái phiếu của Ngân hàng Phát triển cũng chỉ bán được 2% so với tổng khối lượng chào bán.
Bên cạnh đó ta còn có thể thấy được TP Kho bạc Nhà nước chiếm ưu thế hơn hẳn, là do có được sự tín nhiệm cao nhất của người dân, có đủ nguồn lực để phát hành với số lượng lớn, nên thị trường trái phiếu này luôn sôi động, đồng thời nhận được sự giúp đỡ từ các chính sách hổ trợ của Nhà nước nên có được tính thanh khoản cao. Ngược lại TP địa phương có tỷ lệ thấp nhất, lý do là, đây là một thị trường mới, và thường thị trường của loại trái phiếu này chỉ gói gọn trong một địa phương nhất định mà chính quyền phát hành. Ngoài ra, trái phiếu chính quyền địa phương còn thường chỉ được phát hành khi cần vốn để xây dựng một công trình công cộng nào đó ở địa phương đó, nên đợt phát hành sẽ không nhiều bằng các loại trái phiếu khác. Hiện nay chỉ có Hà Nội và TPHCM là thường xuyên phát hành loại trái phiếu này.
2.2.2 Trái phiếu Chính phủ
Trái phiếu Chính phủ chiếm khoảng 80% tổng lượng trái phiếu phát hành.
Có ba phương thức phát hành trái phiếu Chính phủ là thông qua Kho bạc Nhà nước, đấu thầu qua thị trường chứng khoáng và phương thức bảo lãnh phát hành. Hai phương thức sau mới xuất hiện vào đầu năm 2000, trước đó trái phiếu Chính phủ chỉ được phát hành thông qua Kho bạc Nhà nước.
GIÁ TRỊ TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ PHÁT HÀNH TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2007
Dựa vào biểu đồ trên ta có thể thấy được sự phát triển vượt bậc của trái phiếu Chính phủ. Vào năm 2003, giá trị phát hành trái phát bắt đầu có sự tăng nhảy vọt. Sau đó, từ năm 2004 đến năm 2006, giá trị phát hành này lại có sự tăng ổn định, nhưng không nhanh và nhiều. Tới năm 2007, một lần nữa giá trị phát hành trái phiếu lại tăng đột biến. Song, thực tế giá trị niêm yết và giá trị giao dịch lại có sự chênh lệch đáng kể.
Số liệu lấy từ Sở GDCK TPHCM và Trung tâm GDCK Hà Nội
Ta có thể thấy giá trị giao dịch từ năm 2003 đến 2007 đều thấp hơn giá trị niêm yết. Điều này chứng tỏ, tuy đã có nhiều nổ lực để phát triển thị trường của mình, và ta có thể thấy rõ thành quả của những nổ lực đó của Nhà nước, nhưng giá trị thực tế hiệu quả phát hành chưa cao. Đó là điểm mà Chính phủ phải khắc phục.
Ngày 24/09/2009, sở Giao dịch chứng khoáng Hà Nội đã đưa hệ thống giao dịch trái phiếu chính phủ chuyên biệt vào hoạt động, và đã có 500 loại trái phiếu Chính phủ được niêm yết, trị giá hơn 166 nghìn tỷ đồng. Giao dịch được thực hiện bằng hệ thống công nghệ từ xa với gần 30 thành viên giao dịch theo baomoi.com
.
2.2.3 Trái phiếu doanh nghiệp
2008, chỉ có hai đến ba doanh nghiệp phát hành trái phiếu, nhưng đến năm 2009 thì đã có đến 15 đợt doanh nghiệp phát hành trái phiếu, với những cái tên như Vinacomic, Vinasteel, EVN – Telecom, KCB có 4 lần phát hành và tổng trị giá là 1.66 tỷ đồng, đặc biệt Vincom đã phát hành thành công trái phiếu chuyển đổi quốc tế có giá 1 tỷ đồng/một trái phiếu với tổng giá trị lên đến 100 triệu USD trên thị trường Singapore. Và tổng kết năm 2009, thị trường trái phiếu Việt Nam đã có tổng các giao dịch lên đến xấp xỉ 20.000 tỷ đồng, tăng gấp ba lần. Năm 2010, trái phiếu doanh nghiệp chỉ chiếm 10% trong cơ cấu. theo infotv.vn
Hiện nay Chính phủ rất ưu đãi cho trái phiếu doanh nghiệp. Chỉ mất tới sáu đến tám tuần là một doanh nghiệp đã có thể hoàn thành hồ sơ phát hành. Bên cạnh đó trái phiếu giúp doanh nghiệp có thể huy động được lượng vốn lớn mà khó có thể vay ở ngân hàng.
2.2.4 Trái phiếu chính quyền địa phương
Trái phiếu chính quyền địa phương được phát hành qua các hình thức: bán lẻ qua KBNN (chỉ thực hiện đến năm 2003), đấu thầu qua TTGDCK, bảo lãnh phát hành hoặc đại lý phát hành.
Nhìn vào biểu đồ trên ta có thể thấy vào năm 2007 loại trái phiếu này không còn phổ biến trên thị trường. Ta có thể chia sự phát triển của trái phiếu chính quyền địa phương thành hai giai đoạn. Từ 2003 – 2005, tăng. Phát triển đột biến nhất là vào năm 2005 và sau đó giai đoạn từ 2005 – 2007 giảm dần.
2.2.5 Kết luận về tình hình trái phiếu Việt Nam hiện nay và nguyên nhân
Qua những phân tích trên cho thấy thị trường trái phiếu Việt Nam vẫn còn kém phát triển. Tỉ lệ trái phiếu doanh nghiệp và trái phiếu chính quyền địa phương vẫn còn thấp, chủ yếu chỉ là trái phiếu chính phủ. Để xảy ra những tình trạng trên, chúng tôi cho rằng là do những nguyên nhân sau:
Thứ nhất, thị trường trái phiếu của chúng ta có quy mô còn nhỏ và tính thanh khoản thấp. Chúng ta vẫn chưa có những chính sách phù hợp để khuyến khích các chủ thế mới mạnh dạn bán trái phiếu với số lượng lớn. Dường như những chính sách hiện tại tập trung quá nhiều cho trái phiếu chính phủ mà vô tình bỏ quên đi doanh nghiệp và chính quyền địa phương. Bên cạnh đó, lãi suất trái phiếu hiện giờ còn thấp, như lãi suất của trái phiếu có mã TP1_1106 với thời gian đáo hạn 5 năm là 8,73/năm; của trái phiếu có mã là QH071016 có thời gian đáo hạn 3 năm là 7,30/năm (theo taichinh.saga.vn) ... thời gian thu hồi vốn lâu, còn lợi nhuận kiếm được thì thấp, đã thế phí giao dịch còn khá cao, để một giao dịch trái phiếu chính phủ trị giá 100 tỷ đồng được thực hiện, thì nhà đầu tư phải mất khoảng 100 triệu đồng tiền phí. Điều này làm cho khả năng cạnh tranh của trái phiếu trên thị trường chứng khoáng trở nên kém hơn so với cổ phiếu và công cụ phái sinh, cũng như là không thu hút bằng gửi tiết kiệm ở ngân hàng vì việc gửi tiết kiệm thì đơn giản hơn, an toàn hơn và lãi suất thì cao hơn là mua trái phiếu. Như lãi suất gửi tiết kiệm ngân hàng ACB kỳ hạn 12 tháng của cá nhân là 14%, ngân hàng TRUSTBANK là 13,4% theo laisuat.vn
.
Thứ hai, chúng ta vẫn chưa thành lập được một tổ chức định mức tín nhiệm chuyên nghiệp và thiếu đội ngũ những nhà tạo lập thị trường. Vì không thể định mức tín nhiệm một cách chính xác, nên uy tín của những chủ thể phát hành trái phiếu vẫn chưa được người dân đề cao. Do bản chất của trái phiếu là một tờ giấy nợ của người phát hành đối với người mua, mà muốn đi vay thì người đó phải có thế chấp bằng vật chất hoặc uy tín. Còn nếu không có cả hai thứ trên thì sẽ khó mà có thể vay mượn được. Và đó là tình trạng chung của những chủ thể phát hành trái phiếu, trừ Chính phủ, trái phiếu Chính phủ là loại trái phiếu có mức tín nhiệm cao nhất, vì Chính phủ có một thứ để thế chấp đó là thuế. Nhưng chỉ mỗi Chính phủ phát hành và bán được trái phiếu là vẫn chưa đủ để tạo ra được một thị trường sôi động và phát triển. Còn đối với các nhà tạo lập thị trường, ở các nước có thị trường trái phiếu phát triển thì những nhà tạo lập thị trương này có nhiệm vụ là niêm yết giá và số lượng cụ thể của từng loại trái phiếu, họ thực hiện mua lại trái phiếu ở các nhà phát hành (thị trường sơ cấp), và bán lại trái phiếu đó cho những người có nhu cầu mua (thị trường thứ cấp), giống như là thực hiện các giao dịch trên thị trườngc ổ phiếu, điều này giúp tăng tính thanh khoản của trái phiếu. Ở Việt Nam chúng ta cũng có các công ty chứng khoáng là những trung gian tài chính, nhưng họ chỉ thực hiện một vài chức năng như lưu ký chứng khoáng, môi giới, bảo lãnh phát hành…, mà không làm việc mua đi bán lại trái phiếu. Điều này làm cho chủ thể phát hành khi gặp khó khăn trong việc bán trái phiếu cũng không thể.
Thứ ba, nhận thức của doanh nghiệp Việt Nam về ưu điểm của việc huy động vốn bằng trái phiếu là chưa có, mà nếu có thì cũng vẫn chưa cao. Doanh nghiệp Nhà nước thì vì nhận được sự ưu đãi về lãi suất cũng như thủ tục vay vốn nên họ thường chọn cách đi vay ngân hàng hơn là phát hành trái phiếu. Còn doanh nghiệp tư nhân thì không nhận được những dịch vụ cần thiết từ các tổ chức chuyên nghiệp hoạt động trong lĩnh vực trái phiếu, điều này khiến họ e ngại và né tránh việc huy động vốn bằng phát hành trái phiếu. Tất cả đã tạo nên một thị trường sơ cấp tẻ nhạt, kéo theo một thị trường sơ cấp tẻ nhạt.
Ngoài ra, hệ thống pháp lý chưa rõ ràng cũng tạo ra tâm lý lo ngại cho nhà phát hành. Vì họ không thể bảo đảm có thể hạn chế rủi ro cho mình một cách cao nhất vì chưa có được một hành lang pháp lý đáng tin cậy.
2.3 Giải pháp phát triển thị trường trái phiếu Việt Nam
Trong nền kinh tế, vốn đóng một vai trò rất quan trọng. Nền kinh tế muốn phát triển yêu cầu phải có vốn đầu tư. Phát triển thị trường vốn là mục tiêu quan trọng hàng đầu của nền kinh tế tài chính ở nước ta hiện nay. Phát triển thị trường trái phiếu cũng là một mục tiêu quan trọng trong chiến lược này.
Tình hình chính trị của nước ta ở những năm qua tương đối ổn định, kinh tế cũng phát triển hơn, đời sống người dân dần được cải thiện đã có những tác động mạnh mẽ tới thị trường chứng khoán nói chung cũng như thị trường trái phiếu nói riêng. Những thành quả mà thị trương trái phiếu mang lại là tiền đề cho sự phát triển nền thị trường chứng khoán và đặc biệt là thị trường trái phiếu. Tuy nhiên, thực tế cho thấy thị trường trái phiếu ở Việt Nam ta hiện nay đang đối mặt với những cơ hội và thách thức. Chính vì thế cần có những giải pháp để phát triển thị trường trái phiếu và nâng thị trường chứng khoán Việt Nam lên một tầm cao mới
2.3.1 Mở rộng quy mô, đa dạng hoá và tăng tính thanh khoản
Khi trên thị trường có nhiều loại trái phiếu thì nhà đầu tư sẽ dễ dàng lựa chọn nhà phát hành cũng như dễ dàng phân tích trái phiếu hay so sánh, đối chiếu giữa các nhà phát hành để từ đó đi đến quyết định đầu tư vào đâu. Chính việc này sẽ kích thích sự sôi động của thị trường trái phiếu.
2.3.1.1 Đối với trái phiếu Chính phủ
Tiến hành đa dạng hoá không chỉ là việc phát hành nhiều loại trái phiếu chính phủ với nhiều kỳ hạn khác nhau mà còn phải kết hợp việc đa dạng hóa về lãi suất, loại hình và phương thức thanh toán vốn gốc và lãi. Bên cạnh những loại truyền thống, Chính phủ cần triển khai thêm một số một số loại trái phiếu:
- Trái phiếu trả lãi bằng 0 hay còn gọi là trái phiếu được chiết khấu: là loại trái phiếu giá bán thấp hơn mệnh giá, nhà đầu tư sẽ thu được lợi nhuận tích lũy dưới dạng lãi từ vốn khi trái phiếu đến hạn thanh toán.
- Trái phiếu đa thời hạn: trái phiếu có nhiều ngày đáo hạn khác nhau.
- Trái phiếu thanh toán từng phần: đây là loại trái phiếu mà lãi suất được thanh toán khi đáo hạn nhưng gốc của trái phiếu sẽ thanh toán từng phần theo định kỳ hàng năm. Loại trái phiếu này sẽ giảm áp lực tăng lãi và giảm thiểu rủi ro tái đầu tư, tăng thêm độ an toàn cho người sở hữu trái phiếu.
- Trái phiếu option: cho phép người mua trái phiếu có quyền đòi nợ đối với người phát hành tại bất kỳ một thời gian nào đó trong tương lai.
- Trái phiếu có lãi suất thay đổi: lãi suất của nó có thể được thay đổi và điều chỉnh theo từng thời kỳ khi lãi suất thị trường có sự biến động, đảm bảo lãi suất thực dương cho nhà đầu tư vì mục tiêu lãi suất
2.3.1.2 Đối với trái phiếu Chính quyền địa phương
Cần có kế hoạch phát hành trái phiếu đô thị đi kèm theo với nhiều tiện ích khác nhau nhằm giúp cho các nhà đầu tư luôn có được hàng hóa đa dạng phù hợp với chiến lược đầu tư của mình, qua đó tạo điều kiện cho chính quyền địa phương nâng cao khả năng huy động vốn trên cơ sở đảm bảo các nguyên tắc huy động vốn.
- Trái phiếu xây dựng nhà ở: tài trợ cho việc xây dựng những khu dân cư cho những gia đình có thu nhập thấp.
- Trái phiếu công nghiệp: tài trợ để xây dựng các khu công nghiệp, sân bay, bến cảng, xử lý nước thải, ô nhiễm môi trường …
- Trái phiếu hệ thống cấp thoát nước: tài trợ cho những dự án cấp
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tổng quan thị trường trái phiếu Việt Nam, thực trạng và giải pháp.doc