Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota)

Lời mở đầu 1

Chương 1: Thị trường Hoa Kỳ và cơ hội xuất nhập khẩu của Việt Nam 2

1. Đánh giá thị trường Hoa Kỳ và phân tích tiềm năng rộng lớn của thị trường Hoa Kỳ đối với sản phẩm chế tạo từ các nước đang phát triển nói chung và sản phẩm dệt may nói riêng 2

2. Những cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập thị trường Hoa Kỳ 8

3. Vai trò của công tác xúc tiến thương mại để thâm nhập thị trường Hoa Kỳ 13

Chương 2: Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ 5 năm trở lại đây) 15

1. Thực trạng của hàng dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota) 15

2. Phân tích những ưu, nhược điểm - những mặt tồn tại của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ 22

3. Rút ra những nguyên nhân làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 27

Chương 3: Một số ý kiến đề xuất để đẩy mạnh XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ 29

1. Các biện pháp từ phía doanh nghiệp dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ 29

2. Các giải pháp về phía Nhà nước nhằm đẩy mạnh XK dệt may vào Hoa Kỳ 34

Kết luận 38

 

 

doc42 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1276 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng hạn ngạch (quota), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
XK vào Hoa Kỳ. Tạo điều kiện để các doanh nghiệp khảo sát thị trường, tham gia hội chợ triển lãm, tổ chức tiếp xúc với các nhà phân phối hàng dệt may Hoa Kỳ. Với những nỗ lực của Nhà nước, của doanh nghiệp công tác xúc tiến thương mại sẽ góp phần nâng cao kim ngạch XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. Chương 2 Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào thị trường Hoa Kỳ 1. Thực trạng của hàng dệt may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ khi Việt Nam chưa gia nhập W.T.O và còn áp dụng quota. Sau khi Mỹ bỏ cấm vận Việt Nam năm 1994, hai nước tiến hành bình thường hóa quan hệ chính trị và ngoại giao nhưng về thương mại thì phải sau khi Hiệp định thương mại Việt - Mỹ (BTA) có hiệu lực (ngày 10/12/2001) mới có thể nói là bình thường hóa. Chỉ sau khi Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ thì hàng hoá nói chung và hàng dệt may nói riêng của Việt Nam mới có khả năng tiếp cận thị trường này ở quy mô lớn. Sau khi có tối huệ quốc ,từ 2002 đến 2003 xuất khẩu dệt may của Việt Nam đã tăng nhanh chóng. Hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc khi đưa vào thị trường Mỹ tính cạnh tranh về giá của sản phẩm Việt Nam được gia tăng đáng kể vì thuế nhập khẩu sẽ giảm bình quân từ 40 - 70 xuống còn 3-7% Theo hiệp hội dệt may Việt Nam, tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành 5 tháng đầu năm 2003 đạt 1,3 tỷ USD, tăng 69,5% so với cùng kỳ 2002. trong đó riêng kim ngạch xuất khẩu sang Hoa Kỳ đạt gần 730 triệu USD, dẫn đầu các thị trường. Tuy tốc độ may của Việt Nam chưa ổn định và bền vững. Sang năm 2004 mặt hàng dệt may bị hạn ngạch khống chế nên mức độ tăng trưởng của mặt hàng này đã bị giảm đáng kể, qua bảng 5 ta càng thấy điều đó. Bảng 5: Cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Mặt hàng Năm 2002 2003 2004 KH 2005 Dệt may 975 2500 2700 2800 Thủy sản 674 750 564 800 Giày dép 224 325 473 580 Dầu khí 179 209 250 250 đồ gỗ 86 200 408 800 rau quả 74 105 182 200 Cà phê 73 98 144 150 Máy thiết bị 27 97 112 150 Mỹ nghệ 12 21 27 50 Đồ nhựa 5 11 28 50 Hàng khác 100 200 380 400 Tổng số 2429 4500 5200 6200 Nguồn: Bộ Thương mại 6-2005 Cũng như theo Bộ thương mại, tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may có quản lý hạn ngạch vào thị trường Hoa Kỳ trong 6 tháng đầu năm 2005 mới đạt 700 triệu USD, chỉ bằng 80% mức thực hiện của cùng kỳ năm ngoái. Trong 700 triệu USD này, 2 mã hàng "nóng" có mức thực hiện lớn nhất là Cat. 338/339 (đạt trên 300 triệu USD) và Cat. 347/348 (đạt trên 189 triệu USD - Xem bảng 6) . Bảng 6: Tình hình xuất khẩu hàng dệt may sang thị trường Hoa Kỳ năm 2005. (ĐV tiền: USD) STT Cat Đơn vị tính Tổng nguồn HN 2005 Lương HN đã sử dụng, 2004 Số lượng đã cấp visa Tỷ lệ HN đã sử dụng HN 2005 chưa cấp visa Kim ngạch xk (USD) Đơn giá TB (1) (2) (3) (4) (5) (6) (7) (8) (9) (10) I. Câp visa theo thông báo hạn ngạch: 1 333 Tá 45,750 4,789 10.49% 40,952 859.557.39 179.15.USD/Tá 2 334/335 Tá 741,567 190,607 25.70% 550,960 22.996.333.67 120.65 USD/Tá 3 338/339 Tá 15.103.336 176,751 7,670,876 51.96% 7,255,739 308.407.328.76 40.2 USD/Tá 4 340/640 Tá 2.282.946 36,829 477,608 44.44% 1,268,504 56,274,325.79 57.56 USD/Tá 5 342/642 Tá 620.905 271,147 43.68% 349,708 14,229.633.26 57.47 USD/Tá 6 347/348 Tá 7.666.005 2,941,517 38.37% 4,724,488 189.421.413.79 64.4 USD/Tá 7 359/-s/659-s Tá 603.432 241,858 41.41% 353,574 10.669.077.53 42.7 USD/Tá 8 434 Tá 18.708 954 5.10% 17,754 140,876.01 147.67 USD/Tá 9 435 Tá 46.158 1,200 2.60% 44,958 331.075.44 275.9 USD/Tá 10 440 Tá 2.887 2411 83.51% 476 405.554.10 168.4 USD/Tá 11 448 Tá 36.955 394 1.07% 36,561 84.404.00 214.24 USD/Tá 12 638/639 Tá 1.375.101 509,257 37.03% 865,844 31.44.853.16 61.224 USD/Tá 13 647/648 Tá 2,230.991 798,952 35.81% 1,432,039 51.152.076.08 64.02 USD/Tá Nguồn: Báo cáo thống kê Bộ Thương mại 6-2005 Sự sút giảm này xuất phát từ nguyên nhân các nước thành viên tổ chức thương mại thế giới (WTO) bãi bỏ quota cho nhau từ 1/1/2005, trong khi đó Việt Nam vẫn chưa được hưởng chính sách này, Việt Nam vẫn chưa là thành viên của WTO mà năng lực cạnh tranh của Việt Nam lại thấp và việc quản lý và sử dụng quota của Việt Nam lại còn bất cập và kém hiệu quả. Trước thực trạng khó khăn này, Bộ trưởng Bộ thương mại Trương Đình Tuyển mới đây một lần nữa gửi thư cho các doanh nghiệp dệt may, đề xuất hai ý kiến, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng quota: Một là, cấp visa tự động cho các doanh nghiệp có năng lực sản xuất, có hợp đồng xuất khẩu, đặc biệt là xuất khẩu cho các nhà phân phối lớn đối với các Cat. thực hiện còn thấp trong 5 tháng đầu năm. Hai là, thu hồi quota của các doanh nghiệp mới thực hiện được dưới 35%, chuyển cho các doanh nghiệp khác có khả năng xuất khẩu, và chỉ cấp lại khi những doanh nghiệp này có nhu cầu xuất khẩu thực sự. Thư của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển ngay lập tức đã gây nên một phản ứng khá mạnh mẽ trong các doanh nghiệp dệt may. Điều khiến các doanh nghiệp cảm thấy lo lắng là trong bối cảnh cạnh tranh thị trường khốc liệt, mà quota lại hạn hẹp và khó khăn đến vậy, thì những phương án mà Bộ trưởng đề xuất liệu có đem lại thuận lợi cho doanh nghiệp hay không? Sau sự kiện Liên Bộ Thương mại - Công nghiệp cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng quota hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ, đã xảy ra tình trạng một số doanh nghiệp có quota nhưng chưa có nhu cầu xuất khẩu, thậm chí không xuất khẩu được, đã giữ để bán lại cho các doanh nghiệp khác với giá cao, khiến cho thị trường mua bán quota trở nên náo nhiệt và diễn biến theo chiều hướng xấu, không có lợi cho hoạt động xuất khẩu của cộng đồng các doanh nghiệp dệt may. Chẳng hạn, các Cat. "nóng" như quần nam, nữ chất liệu bông (Cat. 347/348 - bảng 6) lúc bình thường chỉ ở mức 2,5 - 3,5 USD/Tá, nhưng vào thời gian này có doanh nghiệp đòi chuyển nhượng với giá 8 - 10 USD/tá, hay như áo sơ mi dệt kim nam, nữ chất liệu bông (Cat.338/339 - bảng 6) đang từ 4USD/tá nay tăng lên 10 USD/tá. Việc một số doanh nghiệp cố tình giữ quota nhằm mục đích chuyển nhượng với giá cao đã khiến cho các doanh nghiệp có nhu cầu xuất khẩu, đặc biệt là những doanh nghiệp đã ký được hợp đồng mà lại không còn quota, phải đi mua lại quota với giá cao so với thực tế. Và hậu quả của việc này là chi phí sản xuất của các doanh nghiệp bị tăng lên nhiều lần trong khi giá xuất khẩu đã được thỏa thuận trước trong hợp đồng, nếu doanh nghiệp đòi tăng giá thì sẽ phải đối mặt với nguy cơ khách hàng bỏ đơn hàng, còn nếu giữ nguyên giá cũ thì doanh nghiệp sẽ không còn lãi. Thực trạng hiện nay, nơi cần quota để xuất khẩu thì không có mà nơi không xuất khẩu thì lại có quota, chẳng hạn như Công ty TNHH May & Thương mại á Châu là doanh nghiệp chuyên sản xuất các đơn hàng FOB (mua nguyên liệu bán thành phẩm) có mối quan hệ làm ăn khá tốt với các khách hàng Calmex, Everyarn, các nhà phân phối lớn của Hoa Kỳ như: The Children Place, K.Mart, Tagert, JC Penny - kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ lệ hơn 70% doanh thu tại thị trường Mỹ, nay cũng đang lâm vào tình trạng có khả năng xuất khẩu nhưng không có hạn ngạch, mặc dù chính phủ đã cho phép chuyển nhượng hạn ngạch nhưng thực sự cũng đang rất lúng túng vì giá chuyển nhượng quá cao và rất khó tìm nguồn. Công ty Global Source Net. Ltd là một trong những nhà xuất khẩu hàng đầu ở Việt Nam về mặt hàng Cat. 435, chiếm 90% sản phẩm đi Hoa Kỳ 10% sản phẩm đi EU cũng lâm vào tình trạng thiếu hạn ngạch, không có hạn ngạch chuyển nhượng của Cat này. Đáng lẽ ra, các doanh nghiệp có thể tự thương thảo để chuyển nhượng quota cho nhau, nhưng do ý thức cộng đồng trong các doanh nghiệp còn kém nên dẫn đến tình trạng trên. Trong 5 tháng đầu năm 2005, lượng quota mà toàn ngành dệt may thực hiện được chỉ đạt ở mức thấp, khoảng trên 30%. Chính vì thế các chuyên gia dệt may cho rằng, việc thu hồi lượng quota của các doanh nghiệp mới chỉ thực hiện được dưới 35% theo đề xuất của Bộ trưởng Trương Đình Tuyển, trong điều kiện quota vào Hoa Kỳ có hạn để tăng cường hiệu quả sử dụng quota, tránh tối đa tình trạng ế, đọng quota, là một giải pháp hữu hiệu. Các chuyên gia cũng cho rằng cần thiết phải xử lý kịp thời số quota chưa dùng đến của các doanh nghiệp này để giao lại cho các doanh nghiệp có khả năng xuất khẩu. Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển cũng đề nghị các doanh nghiệp dệt may nên thành lập mô hình liên kết chuỗi, có như thế mới phát huy được hiệu quả sản xuất và xuất khẩu của toàn ngành dệt may, và ông xin ý kiến các doanh nghiệp về một số thay đổi trong điều hành hạn ngạch trong dệt may xuất khẩu đi Hoa Kỳ trong đó có việc cấp phép XK tự động đối với một số chủng loại hàng (Cat). Tuy nhiên, nửa tháng sau, chỉ có 47 thư phản hồi, 30 ý kiến ủng hộ và 10 ý kiến phản đối. Các ý kiến phản đối cho rằng, cấp visa tự động sẽ dẫn đến khả năng doanh nghiệp xuất khẩu qúa số lượng và có thể bị phá vỡ hợp đồng với khách hàng. Để khắc phục tình trạng này, Bộ Thương mại đã có điều chỉnh nhất định và trước mắt xử lý cho 2 chủng loại hàng dệt may (Cat). Trong thời kỳ cao điểm giao hàng. Những xử lý này được thể hiện trong thông báo số 0716 TM - DM hướng dẫn thực hiện hạn ngạch 2 Cat. 347/348 và 647/648 xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ năm 2005 của Bộ Thương mại, nhiều doanh nghiệp đã phản ứng gay gắt. Một doanh nghiệp dệt may ở TP.HCM đề xuất: "Những doanh nghiệp nhỏ, ít xuất hàng đi Hoa Kỳ thì rất hăng hái ngược lại những doanh nghiệp lớn thường xuyên xuất hàng sang Hoa Kỳ lại không đồng tình. Việc chỉ có 47 đơn vị trên tổng số hơn 1.000 doanh nghiệp trả lời là quá ít, chưa phản ánh được điều gì, nếu Bộ Thương mại căn cứ vào đó mà làm thì không thể chính xác". Nhiều doanh nghiệp tỏ ra e ngại với việc cấp visa tự động. Giám đốc một xí nghiệp may phân tích, theo thông báo trên, Liên Bộ Thương mại và Công nghiệp thực hiện cấp visa tự động đối với 2 Cat. 347/348 và 647/648 chỉ từ ngày 1/7/2005 đến 31/8/2005. Như vậy, trong thời gian 2 tháng, doanh nghiệp phải đàm phán với khách hàng, sau đó tiến hành sản xuất, rồi giao hàng thì không thể trở tay kịp. Trước tình hình trên, hầu hết các doanh nghiệp kiến nghị chưa nên cấp visa tự động. Ngoài ra việc thu hồi hạn ngạch của các doanh nghiệp mà 5 tháng qua mới thực hiện được dưới 35% hạn ngạch, cũng gây nhiều tranh cãi. Bởi trong Thông tư liên tịch quy định việc cấp và sử dụng hạn ngạch trong đó xác định rõ thời hạn thu hồi là tháng 9/2005. Thời gian qua, cộng đồng doanh nghiệp đã áp dụng quy định trên để đàm phán, ký kết hợp đồng với khách hàng. Nay Bộ Thương mại ra quyết định như vậy, nhiều doanh nghiệp rất lo lắng. Theo Hội dệt may Thêu đan TP.HCM việc phân bổ hạn ngạch tuy đã công khai, nhưng hậu quả của các phân bổ cũ từ các năm trước vẫn còn ảnh hưởng, doanh nghiệp chịu thiệt vẫn tiếp tục chịu thiệt. Tỷ lệ cung ứng quần ở 2 Cat. 347/348 và 647/648 của Việt Nam cho thị trường Hoa Kỳ là khá lớn. Nếu không cấp phép xuất khẩu tự động sẽ xảy ra tình trạng khê đọng hạn ngạch, ảnh hưởng tới tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may. Đúng như ý kiến của thứ trưởng Lê Danh Vĩnh về sự cần thiết phải cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch hàng dệt may xuất khẩu sang Hoa Kỳ (trên báo Thương mại thứ 6-5-2005) rằng: Sự cần thiết phải cho phép các doanh nghiệp chuyển nhượng hạn ngạch hàng dệt may xuất phát từ đặc điểm của hàng dệt may được thể hiện ở một số vấn đề sau đây: - Mặt hàng luôn thay đổi mẫu mã, thời trang, chủng loại, số lượng, nguyên phụ liệu, tính thời vụ. Thị trường dệt may bị khống chế bởi người mua chứ không phải người sản xuất, xuất khẩu nên người mua có quyền yêu cầu phải đáp ứng nhiều điều kiện khác nhau. Việc phân hạn ngạch theo thành tích xuất khẩu năm trước là tiêu chí phân phối cơ bản mà nhiều nước áp dụng (ở Việt Nam chúng ta có 84% tổng hạn ngạch được phân phối theo thành tích). Trong khi đó, doanh nghiệp được phân hạn ngạch theo thành tích năm trước, nhưng năm sau có thể do thay đổi mẫu mã, đơn hàng nên không ký được hợp đồng, không xuất khẩu được, nếu không cho chuyển nhượng, số hạn ngạch đó sẽ bị khê đọng. Ta xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ năm 2005 trong bối cảnh vẫn chịu hạn ngạch, trong khi các nước thành viên W.T.O đã được xuất khẩu tự do. Do đó việc cho phép chuyển nhượng hạn ngạch sẽ tạo sự linh hoạt cho các thương nhân để đáp ứng được yêu cầu của đơn hàng. Nói chung, tính đến ngày 20/6/2005, xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường mới chỉ đạt 1,7 tỉ USD, bằng 80% so với cùng kỳ năm ngoái và chỉ bằng 30,9% so với kế hoạch. Với tốc độ xuất khẩu chậm như vậy thì mục tiêu xuất khẩu cả năm đạt 5 - 5,2 tỷ USD cho dệt may Việt Nam là rất khó khăn, đặc biệt là xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Cụ thể, chỉ có 3 nhóm cat. nóng xuất khẩu vào Hoa Kỳ so với 6 tháng cùng kỳ năm ngoái là có tăng nhưng không đáng kể. Đó là cat 340/640 tăng 4%, và 638/639 tăng 62%, 334/335 tăng 6%. Còn lại hầu hết các cat quan trọng khác chiếm tỷ trọng xuất lớn thì lại giảm. Thí dụ như cat 338/339 chiếm 44% giá trị xuất khẩu vào thị trường, Hoa Kỳ giảm 17% cat 347/348 chiếm 25% giá trị xuất khẩu vào Hoa Kỳ giảm 25% so với cùng kỳ. Cat 647/648 chiếm 7% giá trị xuất vào Hoa Kỳ giảm 20%. Như vậy chỉ tính 3 nhóm cat. "nóng" chiếm trên 70% giá trị kim ngạch xuất khẩu vào Hoa Kỳ kể trên bị giảm kim ngạch ta thấy mức sút giảm của hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ khá rõ rệt. Những khó khăn về hạn ngạch từ đầu năm 2005 mặt bằng giá cao đang là trở ngại khiến xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam khó tăng nhanh kim ngạch. Theo Bộ Thương mại, hiện hầu hết các chủng loại hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ đều có giá cao hơn 5 - 7% thậm chí 10% so với các doanh nghiệp dệt may của Trung Quốc, ấn Độ, Bangladesh và Indonesia. Cụ thể, đối với Cat. 338/339, đơn giá trung bình thực hiện tại Việt Nam là 5,79 - 8,2 USD/m2 trong khi ở Bangladesh chỉ 4,66 - 4,88 USD/m2, Trung Quốc khoảng 4,68-5,84 USD/m2và Indonesia 6,46-7,84 USD/m2. Trước thực tế này các chuyên gia thương mại khuyến cáo các doanh nghiệp nên cân nhắc để giảm giá 5 - 10% nhằm thu hút khách hàng hoặc phải đầu tư làm hàng chất lượng cao. 2. Phân tích những ưu, nhược điểm những mặt tồn tại của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. * Những ưu điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Hàng dệt may XK vào thị trường Hoa Kỳ có những ưu điểm nổi bật như sau: - Về hình thức hàng dệt may có ý nghĩa rất quan trọng đối với người Mỹ. Là quốc gia đa sắc tộc, người Mỹ dễ bị kích thích bởi thị giác, thích cách trình bày sinh động, nhiều hình ảnh. đặc biệt họ rất chú ý đến cách ăn mặc, cách trang phục Các doanh nghiệp dệt may Việt Nam nhạy bén nắm bắt được tâm lý này của người Mỹ nên đã nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng kế hoạch đầu tư, đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, kiểu dáng, mẫu mã và sử dụng nguồn nhân lựcv v ,để đáp ứng nhu cầu của người Mỹ. Lấy Công ty May 10 là một điển hình, với 10-15 triệu sản phẩm mỗi năm, hơn 6000 công nhân và 13 xí nghiệp thành viên, May 10 hiện là một trong những doanh nghiệp lớn nhất của ngành may mặc Việt Nam. May 10 đã xuất khẩu 80% trong tổng số doanh thu hơn 450 tỷ đồng của mình và hơn 1/2 kim ngạch đạt được là từ việc xuất hàng sang Hoa Kỳ. Từ những loại hàng chủ lực ban đầu là quần, sơ mi, Jacket. với hình thức xuất hàng dạng bán thành phẩm, số lượng ít và giá trị không cao đến nay May 10 đã chuyển sang hàng veston cao cấp cung cấp cho thị trường Hoa Kỳ đảm bảo độ tin cậy cao đáp ứng các vấn đề về năng lực, chất lượng nguyên phụ kiện và trách nhiệm xã hội Công ty May Việt Tiến là doanh nghiệp có quy mô hoạt động sản xuất, kinh doanh lớn trong Tổng Công ty dệt may Việt Nam. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên có trình độ chuyên môn cao, năng động sáng tạo; một cơ sở vật chất và hệ thống máy móc thiết bị kỹ thuật hiện đại; một hệ thống quản lý theo tiêu chuẩn quốc tế (ISO 9001 - 2000, SA 8000, Wrap), Việt Tiến luôn đáp ứng cho các thị trường mà đặc biệt là thị trường Hoa Kỳ, những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng cao, thỏa mãn nhu cầu của mọi khách hàng. Việt Tiến xem thị trường Hoa Kỳ là mục tiêu quan trọng trong chiến lược tiếp cận thị trường, vì đây là một thị trường lớn nhiều tiềm năng hứa hẹn cho hoạt động xuất khẩu. Ngay từ đầu năm 2001, trong khi hiệp định Thương mại Việt - Mỹ chưa được thực thi, thì Việt Tiến đã ký được hợp đồng đầu tiên với tập đoàn Supreme International. Inc - một tập đoàn lớn của Hoa Kỳ với 200.000 sản phẩm sơ mi, với giá trị gần 1.000.000 USD. Việt Tiến cũng ý thức được rằng Mỹ là một thị trường khó tính, nhiều rủi ro tiềm ẩn, nên ngay từ đầu năm 2000 Công ty đã có sự chuẩn bị về khả năng tài chính, mở rộng và nâng cấp nhà xưởng, hệ thống kho tàng, đổi mới quy trình công nghệ, đầu tư máy móc thiết bị chuyên dùng hiện đại, đầu tư nâng cấp công tác thiết kế, công tác may mẫu, nâng cao tay nghề công nhân, đào tạo đội ngũ chuyên gia đàm phán giỏi ngoại ngữ, vi tính và thông hiểu luật pháp thương mại Mỹ. Bên cạnh đó, Công ty đã chủ động tiếp cận và khai thác thị trường nguyên phụ liệu đa dạng thuộc thế mạnh của các nước trong khu vực, từng bước nâng tỷ trọng nội địa hóa sản phẩm xuất khẩu nhằm đáp ứng yêu cầu về chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng ngày càng nhanh của thị trường Hoa Kỳ. Để chuẩn bị cho chiến lược đưa sản phẩm may mặc mang nhãn hiệu Việt Tiến vào thị trường Hoa Kỳ, Công ty đã được cấp giấy chứng nhận ngày 27/5/2003. Trong quá trình kiên trì tiếp cận và khai thác thị trường Hoa Kỳ, Việt Tiến đã vững vàng vượt qua hàng trăm cuộc đánh giá của những khách hàng lớn và cả những khách hàng khó tính nhất, sản phẩm do Việt Tiến sản xuất ngày càng đáp ứng được thị hiếu và nhu cầu của người tiêu dùng Hoa Kỳ. Những mặt hàng thế mạnh của Việt Tiến đã có mặt tại thị trường Hoa Kỳ như: Sơ mi, quần kaki, quần jeans, jacket, bộ thể thao, veston , hàng thun, váy Trong năm (2001-2004) Việt Tiến đã ký kết hợp đồng cung cấp hàng hóa với hơn 10 nhà nhập khẩu lớn của Hoa Kỳ (Supreme, International Inc, Sears, American Eagle, Haggas Alfred Dunner, JC Perny, Columbia Sportsears Nike, The Limited. và chỉ trong vòng 4 năm (2001-2004), thị trường Hoa Kỳ đã chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Việt Tiến bên cạnh những thị trường khác (doanh số bình quân hàng năm là 60.000.000 USD). Với những ưu thế này, chắc chắn hoạt động xuất khẩu hàng may mặc của Việt Tiến trong những năm tới đối với thị trường Hoa Kỳ sẽ phát triển bền vững. - Hàng dệt may Việt Nam đã có kinh nghiệm XK sang các thị trường khó tính là EU và Nhật Bản, Canada các doanh nghiệp đã có kinh nghiệm trong tổ chức, điều hành trong XK nên khi mở được thị trường Hoa Kỳ các doanh nghiệp không tỏ ra bỡ ngỡ mà nhạy bén với khách hàng Hoa Kỳ. - Lâu nay tuy chưa trực tiếp XK hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ song các doanh nghiệp của ta đã may gia công cho Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông để họ XK vào Hoa Kỳ. Do đó khi ta bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ, ta có quota hàng dệt may Việt Nam XK vào thị trường đa dạng này không mấy khó khăn. - Việt Nam có lực lượng Việt kiều tại Hoa Kỳ với số lượng lên đến 1,3 triệu người. Tuy còn có những mặt hạn chế song đã huy động được sự ủng hộ của Việt kiều, họ làm công tác tuyên truyền quảng bá, môi giới khách hàng như nhiều doanh nghiệp Việt Nam có cơ sở để tiêu thụ hàng tại Hoa Kỳ. * Những nhược điểm của hàng dệt may Việt Nam khi thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ. Nhìn chung, hàng dệt may Việt Nam vẫn còn nhiều mặt nhược điểm như sau: Giá hàng dệt may xuất khẩu Việt Nam vẫn còn ở mức cao (cao hơn 5-7% và thâm chí 10% so với các đối thủ Trung Quốc, ấn Độ, Bangladesh và Indonesia), chất lượng thấp, số lượng nhỏ qui mô sản xuất và xuất khẩu chưa lớn, thời gian giao hàng còn nhiều bất cập, chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu vẫn còn phải nhập của nước khác, chưa tự chủ được trong sản xuất kinh doanh, hình thức mua nguyên liệu bán thành phẩm, may gia công là chủ yếu. Bất cập công nghiệp phụ trợ cho hàng dệt may ảnh hưởng rất lớn, công nghiệp phụ trợ của hàng dệt may là rất yếu kém, năng lực các nhà máy cơ khí chuyên ngành dệt may hiện tại quá nhỏ bé, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các doanh nghiệp dệt may, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nếu so sánh Tổng Công ty dệt may Việt Nam (Vinatex) với toàn ngành dệt may cả nước, thì năng lực kéo sợi chiếm 67% (đạt 111.000 tấn/170.000 tấn) kim ngạch xuất khẩu chiếm 24% (đạt trên 1 tỷ USD/4,3 tỷ USD); chế biến bông chiếm 85% (đạt 12.800 tấn/15.000 tấn). Điều này khẳng định Vinatex là đơn vị chủ đạo và là doanh nghiệp lớn trong ngành dệt may cả nước. Tuy nhiên, để phát triển công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực này, còn nhiều vấn đề cần phải xem xét. Bên cạnh các xưởng cơ khí của các Công ty dệt thuộc Vinatex làm nhiệm vụ sửa chữa, thay thế phụ tùng, cơ kiện và trang thiết bị phục vụ cho ngành dệt may như: Công ty cổ phần cơ khí May Gia Lâm, Công ty cổ phần cơ khí May Nam Định, Công ty cổ phần cơ khí Hưng Yên và Công ty cơ khí Thủ Đức. Trong thời gian qua, các Công ty này tuy đã có nhiều cố gắng, nhưng do năng lực còn hạn chế, thiết bị lạc hậu nên không đáp ứng kịp yêu cầu phát triển rất nhanh của các doanh nghiệp dệt may. Cả 4 Công ty cơ khí này trị giá sản xuất mỗi năm chỉ vào khoảng 9 triệu USD, tương đương gần 4.000 tấn phụ tùng, chủ yếu là trang thiết bị nhỏ lẻ như: máy trải vải, máy kiểm tra vải, máy hút hơi là, máy san chỉ, máy hút chỉ, máy dập cúc, máy cắt vải, hệ thống chiếu sáng, hệ thống làm mát để nguyên liệu, xe vận chuyển nội bộ. phục vụ cho ngành may mặc nhưng cũng chỉ mới đáp ứng được một phần. Còn phụ tùng, cơ kiện cho ngành dệt may, các doanh nghiệp chủ yếu vẫn phải nhập từ nước ngoài 70 - 80%. Hầu hết các xưởng cơ khí nằm trong các Công ty dệt đến nay đều không phát huy được hiệu quả do không đáp ứng được yêu cầu khắt khe về chất lượng, giá cả và thời gian giao hàng của các doanh nghiệp dệt. Vì vậy, các xưởng cơ khí này thường phải gia công cho các doanh nghiệp ngoài ngành, trong khi các Công ty dệt lại phải nhập khẩu những phụ tùng, cơ kiện từ nước ngoài tới 80%, trị giá hàng chục triệu USD mỗi năm. Tình hình cung cấp nguyên phụ liệu cũng không được cải thiện nguyên phụ liệu cũng đang là vấn đề nan giải của ngành dệt may. Hiệp hội Dệt may Việt Nam cho biết hiện tại ngành đang phải nhập khẩu từ 70-80% nguyên phụ liệu từ nước ngoài. Đặc biệt đối với bông xơ thì tỷ lệ này còn cao hơn. Mỗi năm ngành dệt cần khoảng 60.000 tấn bông xơ nhưng nguồn bông trong nước chỉ mới sản xuất được từ 13.000 tấn đến 16.000 tấn, một con số quá nhỏ bé so với nhu cầu. Mặc dù trong những năm qua, có một số nhà máy như: Công ty Cổ phần phụ liệu may Nha Trang, Công ty May Việt Tiến, Công ty Dệt vải Công nghiệp và các Công ty tư nhân đã sản xuất được phụ liệu khóa kéo, tấm lót, cúc, chỉ nhưng sản lượng cũng rất nhỏ, chỉ đáp ứng được khoảng 20 - 25% nhu cầu của ngành. Nhược điểm về nguyên phụ liệu cho ngành may là lớn nhất, ta phải nhập nguyên liệu thì sản xuất chưa có hiệu quả, lợi nhuận mang về cho một đơn vị sản phẩm rất thấp. Một nhược điểm nữa của hàng dệt may phổ biến hiện nay trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là thiết kế mẫu mã, kiểu dáng sản phẩm còn chưa cao, chưa đa dạng và phong phú về chủng loại, các tiêu chuẩn hóa về chất lượng ISO, về SA 8000, trình độ thiết kế marketing còn kém. Việc đăng ký thương hiệu, xuất xứ hàng dệt may chưa được chú trọng. - Các doanh nghiệp Việt Nam chưa tạo được kênh phân phối hàng dệt may trực tiếp vào thị trường Hoa Kỳ. - Chưa tham gia tích cực vào Hiệp hội để được cung cấp các thông tin về thị trường Hoa Kỳ, chấp hành luật pháp của Hoa Kỳ còn tuỳ tiện nên dễ bị kiện tụng là bán phá giá, gian lận trong thương mại. - Trình độ công nhân ngành may thấp, điều kiện lao động chưa tốt dễ bị Hoa Kỳ kiện về công tác đảm bảo an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp trong sản xuất của ngành may. 3. Rút ra những nguyên nhân làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. Qua những thực trạng và những mặt tồn tại của hàng dệt may nói trên khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ em xin rút ra những nguyên nhân làm hạn chế sau: Thứ nhất, do Trung Quốc, ấn Độ là những nước đứng đầu về xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ đã được bãi bỏ hạn ngạch (quota) từ ngày 1/1/2005 trong khi đó Việt Nam vẫn chưa được bãi bỏ hạn ngạch và chưa là thành viên của W.T.O. Điều này làm cho tính cạnh tranh của hàng dệt may bị giảm. Thứ hai, giá thành sản xuất một đơn vị sản phẩm may mặc Việt Nam còn cao, chất lượng chưa tốt và thời hạn giao hàng là những yếu tố làm hạn chế xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. Cơ sở hạ tầng trang thiết bị của ngành dệt còn lạc hậu, chưa theo kịp yêu cầu phát triển của ngành may vẫn còn phải nhập khẩu phụ tùng, cơ kiện từ nước ngoài là chính (chiếm 80%), Hơn thế nữa, khâu sản xuất nguyên phụ liệu trong nước còn yếu nên ngành dệt may vẫn lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu (bông nhập khấu chiếm 90%, vải nhập nhập khẩu khoảng 70%). Những yếu tố này khiến giá thành sản phẩm dệt may của Việt Nam bị đội lên cao so với các đối thủ cạnh tranh khác (Trung Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, ấn Độ.). Cũng vì bị động trong khâu nguyên phụ liệu nên doanh nghiệp không thể đáp ứng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0085.doc
Tài liệu liên quan