Đề tài Thực trạng đổi mới doanh nghiệp nhà nước

Việc sắp xếp DNNN chủ yếu mới là thu gọn đấu mối vế mặt số lượng ,tuy có tiến bộ một bước ,nhưng chưa tạo ra sự thay đổi về chất lượng ,hậu quả cũ vẫn còn tồn đọng nặng nề ,chưa tăng được sức sản xuất và năng lực cạnh tranh của DNNN .

+Tuy có nhiều cố gắng giảI quyết nhưng tinh trạng nợ nần không có khả năng thanh toán của các DNNN là rất nặng nề .

Những giảI pháp để xử lý tồn đọng cho các DNNN như miễn ,giảm thuế ,xoá nợ ,khoanh nợ ,giãn nợ .mới chỉ mang tính chất tình thế ,chưa giải quyết được một cách cơ bản vấn đề tồn đọng của các DNNN,gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh ,trong tiếp tục vay vốn ngân háng hoặc huy động vốn,trong thực hiện sắp xếp,cổ phần hoá ,giao, bán, và khoán kinh doanh ,cho chủ xí nghiệp.

+Số lao đông tồn đọng không được bố trí việc làm hoặc dôI dư trong doanh nghiệp hịn nauy là rầt lớn ,hạn chế năng suất lao động và sức cạnh tranh.

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1755 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng đổi mới doanh nghiệp nhà nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
loạI xuất khẩu từ 20-40%,sản phẩm dệt may có giá nhân công giẻ nhưng giá sản phẩm cũng không có sức cạnh tranh so với các sản phẩm trong khu vực .Sức cạnh tranh của các ngân hàng thương mại quốc doanh yếu hơn và có chiều hướng giảm sút so với ngân hàng liên doanh chi nhánh ngân hàng nứơc ngoài .Khả năng cạnh tranh trong các ngành du lịch rất thấp ,một số một số công ty du lịch ,khách sạn lại đứng ra làm vỏ ngoài bao bọc cho tư nhân chi phối .. +Tình trạng nợ nần khó trả rất lớn ,đang là một gánh nặng đối với DNNN,hạn chế sức cạnh tranh,ảnh hưởng xấu đến phát triển và cổ phần hoá doanh nghiệp .Theo tài liệu của Bộ Tài chính ,số nợ tồn đọng từ năm 1991 trở về trước còn lại phải trả các DNNN là 6.910 tỷ đồng ,trong đó số không có khả năng trả được là 4.777 tỷ (69%),bao gồm :số kê khai khồng được xác nhận là 1.982 tỷ (gần 30%),số nợ của DNNN đã ngừng hoạt động là 1.746 tỷ đồng (25%)…;số nợ doanh nghiệp nước ngoàI chưa thanh toán được theo kê khai là 135 triệu USD,2.541 triệu yên và một số ngoạI tệ khác ,Từ năm 1992 đến năm 1999,DNNN vay nợ ngân hàng là 92.647 tỷ đồng (chiếm hơn 70% dư nợ tín dụng của toàn xã hội);trong đó ,nợ quá hạn là 11.996 tỷ đồng (13% tổng số nợ ngân hàng ),nợ thuế và vay do chính phủ bảo lãnh 25.905 tỷ dồng ,trong đó nợ quá hạn khó đòi là 434 tỷ (1,67%).Số nợ khó đòi của DNNN từ 1993 đến 2000 18.000 tỷ. +Số lao động dôi dư lớn đang là một vấn đề hết sức khó khăn ,hạn chế hiệu quả và quá trình sắp xếp ,cổ phần hoá DNNN( khoảng trên dưới 200.000 người ước tính của Bộ lao động –Thương Binh và Xã hội). Theo tổng hợp báo cáo từ 42 tỉnh,thành phố ,đến tháng 6/1999 số lao động không bố trí được việc làm của các DNNN là 41.807 người,chiếm 6,08 số lao động hiện có của các doanh nghiệp có bao cáo ; trong đó ở DNNN trung ương là 4,14%,DNNN địa phương là 8,82%.Các tỉnh ,thành phố có tỷ lệ không bố trí được việc làm trên 20% là: Yên Bái 28,54%,Hải Dương 28,36%,Hà Tây 23,31%:từ 10-20%là: Thanh Hoá 19,11%,Ninh Bình 18,45%,Lai Châu 17,39%,Hà Giang 15,95%,Cao Bằng 15,05%,Tuyên Quang 14,51%… Từ tỷ lệ 6,08% nói trên,ước tính số lao động không bố trí được việc làm của 61 tỉnh thành phố ,là khoảng 10 vạn người hiện có tên trong danh sách của DNNN nhưng đang trong tình trạng doanh nghiệp chờ cho nghỉ việc,hoặc doanh nghiệp cho phép tự đi tìm viêc làm ngoài doanh nghiệp. Trong số doanh nghiệp đang hoạt động bình thường hoặc có lãI ,số biên chế còn nhiều hơn so với nhu cầu .biên chế của DNNNN thường cao hơn hẳn so với doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI cùng nghành nghề và công suất tương tự;mặt khác lạI thiếu lao động trẻ ,có trình độ lành nghề và kĩ thuật cao.Cùng công suất 1,4 triệu tấn /năm,Công ty xi măng Bút Sơn có 1.054 lao động ,còn công ty Xi măng Chin Fon chỉ có 718 lao động ;chi phí tiền lương trong giá thành của Tổng công ty xi măng là 6,32%,còn Công ty Chin Fon chỉ có 5,8 %,trong khi bình quân tiền lương 1 năm của Chin Fon là 43,2 triệu đồng /người/năm,còn của Tổng công ty Xi măng là 17,2triệu đồng /người /năm. +Trừ một số công trình đầu tư mới,công nghệ hiện hiện đạI ở một số nghành dùng vốn ODA như địên ,có cơ chế nhà nước cho phép tự vay ,tự trả như Bưu chính viễn thông ,hoặc nghành có tỷ suất lợi nhuận cao như xi măng ,gạch lát…,còn bình thường phải vay vốn ngân hàng thì đầu tư được ít (trong 10 năm từ 1990 đến 2000,Tổng công ty thép chỉ đầu tư 650 tỷ đồng ; giá trị còn lại của toàn nghành cơ khí là khoảng 300 triệu USD ,trong khi 154 dự án cơ khí có vốn đầu tư nước ngoàI có tổng vốn 2,1 tỷ USD).Bên cạnh những DNNN đầu tư đúng hướng ,có hiệu quả thì vẫn có một số nghành đầu tư không dúng hướng ,không căn cứ vào nhu cầu của thị trường sản phẩm ,chi phí đầu tư các công nghệ lạc hậu nên hiệu quả đầu tư thấp hoặc không có hiệu quả như :xi măng lò đứng ,nhà máy đường ,gạnh tuy nen và dâu tơ tằm…. +Việc sắp xếp lạI DNNN chưa thực sự triệt để ,nhiều doanh nghiệp yếu kém thua lỗ triền miên ,mất hết vốn vẫn không xử lý ,chủ yếu là sáp nhập và hợp nhất .Quy mô doamh nghiệp hiện nay vẫn nhỏ bé ,bình quân mỗi doanh nghiệp có 22 tỷ đồng vốn nhà nước ;18,2% có số vốn dưới 1 tỷ ,số có qui mô trên 10 tỷ chỉ có 25%.Vốn diều lệ của 6 ngân hàng thương mại quốc doanh tính đến 31/12/1999 là 6.468 tỷ đồng nên gặp nhiều khó khăn cho vay những món lớn của các tổng công ty như điện lực ,Dầu khí ,xi măng ,giao thông ,…cần hàng chục triệu USD,mà theo luật các tổ chức tín dụng thì không được cho phép một khách hàng vay quá 15% vốn tự có. +DNNN chưa thực sự được cơ cấu lạI để tập trung hơn vào những nghành lĩnh vực ,lĩnh vực then chốt ,nhất là những nghành công nghiệp cơ bản ,vẫn còn dàn trải trong các nghành và lĩnh vực kể cả mhững hoạt động sản xuất ,kinh doanh nên để cho nhân dân đầu tư. +Tốc độ phát triển của khu vực DNNN gần đây có chiều hướng chậm lạI ,cụ thể 1996 tăng 11,3%, 1997 9,7%,1998 5,6%,1999 4,3%(trong khi tốc độ phát triển của kinh tế tư nhân là 6,2%,của kinh tế vốn đầu tư nước ngoàI là 13,4%.Bình quân 10 năm 1991-2000,tốc độ tăng trưởng bình quân của khu vực DNNN là 11%;của doanh nghịêp ngoàI quốc doanh là 14% /năm ;của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoàI là trên 20%/năm. +Thời gian gần đây uy tín của nhiều DNNN bị giảm sút do tình trạng buôn lậu và gian lận thương mại ,lãng phí và tham nhũng ,có nhiều vụ nghiêm trọng và tai tiếng lớn . Tóm lại ,mặc dầu DNNN vẫn đang có vai trò hêt sức quan trọng trong tổng thể nền kinh tế quốc dân ,nhưng hiệu quả hoạt động của cac DNNN còn thấp ,,một số mặt có phần giảm sút ;DNNN đang có nhiều thách thức gay gắt trong giai đoạn hội nhập sắp tới. C - NHữNG TồN TạI TRONG Đổi mới cơ chế ,chính sách đối với DNNN. Đối chiếu với chủ trueơng đổi mới của đảng ,theo yêu cầu của kinh tế thị trường định hướng XHCN và chủ động hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế có hỉệu quả ,việc đổi mới DNNN còn chậm ,cơ chế quản lý và chính sách chưa đổi mới đồng bộ hoặc phù hợp ,DNNN còn co nhiều khó khăb ,trở ngạI trong hoạt động. 1-DNNN chưa thực sự hach toán kinh doanh trong cơ chế thị trường . +Nhà nước vẫn giao vốn cho doanh nghiệp theo phương thức hành chính ,xin-cho,chưa chặt chẽ trong yêu cầu phảI kinh doanh có lãI;giao vốn chưa đI liền với giao quyền hạn và nghĩa vụ và quyền lợi tương xứng ,chưa thực hiện được yêu cầu của nhà nước khi giao vốn cho doanh nghiệp thì đạI diện chủ sơ hữu trưc tiếp tai doanh nghiệp là hội đồng quản trị (theo tinh thần nghị quyết Trung ương 4 khoá VIII) và quyền kinh doanh của doanh nghiệp ,doanh nghiệp phải được tự chủ kinh doanh ,có lãI ,có tích luỹ để phát triển và tự chịu trách nhiệm trên thương trường và phạm vi vốn được giao.Trên thực tế cho đến nay ,Nhà nước với tư cách chủ sở hữu ,vẫn chưa quản lý doanh nghiệp theo phương thức của chủ đầu tư ,vẫn chủ yêu là quản hiện vật nhà máy ,qui định rằng buộc cụ thể rất nhiều khoản chi tiêu của doanh nghiệp ;Nhà nước không thu lãI mà chịu lỗ theo kinh doanh tại doanh nghiệp ,mà chỉ thu thuế như đối với các thành phần kinh tế khác ,ngoài ra còn thu trên vốn nhà nước theo một tỷ lệ nhất định(như cho vay lấy lãi ,nhưng lạI không đươc tính vào giá thành ,mà lấy vào phần lợi nhuận để lạI của doanh nghiệp ) +Rất ít DNNN có nkhả năng tự tích luỹ để đầu tư phát triển ;hầu hết các DNNN đều thiếu vốn lớn ,không đủ lực để kinh doanh bình thường ,kể cả vốn cố định và vốn lưu động ,phải đi vay và phải trả tiên lãi suất lớn (lãi suất cao thời hạn vay ngắn ,nhiều khi phải vay thương mại để đầu tư ),góp phần làm tăng chi phí sản xuất .Tình trạng thiếu vốn lưu động có tính phổ biến và nghiêm trọng ;nói chung Nhà nước đã không cấp đủ 30% vốn cho các DNNN như đã qui định trước đây ,lạ bị chiếm dụng nên phải vay nhiều.Vấn đề này đang là trở ngại lớn ,Nhiều trường hợp đang là trở ngại chính trong kinh doanh .Việc huy động nội để đầu tư phát triển còn rất yếu ớt. Vốn của nhà nước khi giao cho các DNNN bao gồm cả nợ khó đòi ,sản phẩm vật tư ứ đọng không có khả năng tiêu thụ ,giá trị máy ,móc không phảI là giá trị thực ,nhiều thiết bị không thể sản xuất ra sản phẩm được thị trường chấp nhận ,có thiết bị để năm nhiều năm vẫn không được xử lý được và vẫn tính vào giá thành sản phẩm .(Đáng lý ra trước khi giao vốn phải xử lý các tồn tại về tài chính doanh nghiệp ,nhưng lại chưa làm ). Số nợ phảI trả của các DNNN thường cao hơn vốn nhà nước 13-14% .Nhiêu doanh nghiệp có số nợ lớn như tổng công ty điện lực (14000 tỷ ),Tổng công ty Bưu chính –Viễn thông (hơn 11000 tỷ),Tổng công ty rượu - bia (hơn 4500 tỷ ),nhiều doanh nghiệp có số nợ lớn gấp nhiêu lần số vốn nhà nước tạI hoanh nghiệp như Tổng công ty mía đường I(gần 6 lần), Tổng công ty gốm sứ thuỷ tinh (gần 3,5 lần ),Tổng công ty dệt may (gần 2,5 lần ),Tổng công ty than (gần 2 lần ).Nhiều doanh nghiệp khả năng trả nợ kém ,thậm chí không có khả nămg trả nợ như Tông công ty Dâu tơ tằm ,74% nhà máy đường địa phương ,50%nhà máy xi măng lò đứng của địa phương mới trả được 10-20% khoản nợ ,khoảng 40% dự án vốn vay ODA với tổng vốn vay 350 triêu USD gặp khó khăn trong trả nợ .Số nợ phải thu của doanh nghiệp lớn hơn số vốn của doanh nghiệp có tại DNNN làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp không lành mạnh và làm trầm trọng thêm tình hình thiếu vốn của DNNN.Hiện nay tổng số nợ tồn đọng của các DNNN là 21.165 tỷ đồng ,trong đó nợ tồn đọng tại ngân hàng là 7,260 tỷ ;DNNN chiếm 49%dư nợ cho vay nền kinh tế của ngân hàng ,tỷ lệ nợ quá hạn khó đòi là 11% tổng dư nợ tín dụng cho DNNN vay .Nhà nước đã phảI can thiệp để giải quyết nợ tồn đọng đối với ngân hàng quốc doanh của một số DNNN như khoanh nợ ,giãn nợ,xoá nợ ,chuyển vốn vay thành vốn cấp. +Tình trạng phổ biến là DNNN chưa hạch toán đúng kêt quả kinh doanh ,nên bức tranh chi phí lỗ lãI không chuẩn xác ,các số liệu báo cáo có tính áng trừng và cách nhau rất xa (số DNNN kinh doanh có lãI năm 1998,có lúc báo cáo là 21%,có lúc là 40%).Nhiều DNNN khi có vân đề ,Thanh tra Nhà nước xem xét thì doanh nghọp báo cáo lãI nhiều nhưnh thực ra lãI ít,hoặc lỗ . Giá thành sản phẩm của DNNN một mặt chưa phán ánh đấy đủ chi phí thực tế như :giá trị quyền sử đất chưa được tính đầy đủ vào giá thành ;phương pháp tính giá còn tuỳ tiện trong việc vận dụng ‘’treo lạI một số chi phí ,chuyển sang năm sau để có lãI trong năm báo cáo ;nhiều doanh nghiệp giá trị tàI sản để tính khấu hao thấp thực tế (nói chung DNNN khi cổ phần hoá ,giá trị DNNN được tính để cổ phần hoá thường cao hơn giá trị sổ sách,ở TP Hồ Chí Minh bình quân cao hơn 50%);nhiều DNNN gặp khó khăn được xét giảm thuế ,giảm khấu hao ,khoanh nợ ,nên có thể đang lỗ chuyển thành lãI . Tình trạng phổ biến là DNNN phải gánh chịu nhiều chi phí không phảI là lao động xã hội cần thiết :máy móc ,vật tư không cần dùng rất nhiều năm tồn đọng lạI,có loại từ thời bao cấp chuyển qua ,không được bán hạ giá so với sổ sách;lao động dư thừa làm cho giá thành của doanh nghiệp phảI tăng cao;Nhà nước không cấp đủ 30% vốn lưu động nên phảI trả lãI tiền vay lớn ;vay ngọai tệ thì mỗi lần thì mỗi lần điều chỉnh giá ,giá của đồng Việt Nam giảm làm cho số nợ qui ra tiền Việt Nam lạI tăng lên ;máy hết khấu hao ,đã cũ kỹ vẫn tính khấu hao lạI nên chi phí khấu hao không tương xứng với năng suất ;các doanh nghiệp thương mạI dịch vụ phải chịu giá cao về điện ,nước ,điện thoạI ;nhiều trường hợp áp đụng thuế sai làm tăng chi phí nguyên vật liệu trong sẩn phẩm ;doang nghiệp hoạt động ở các vùng sâu ,xa,nhà trẻ ;làm chiphí của giá thành cao lên;doanh nghiệp cũng góp nhiều vào hoạt động nhân đạo từ thiện,đền ơn đáp nghĩa ,đóng góp cho xã phường,thực tế phảI tính một phần vào giá thành sản xuât .Chưa kể các khoản lót tay,lễ tết,đãI đằng quan chức bên trên xuống xí nghiệp,khoản tiêu xàI ,chia chác,hằ lạm của các cán bộ lãnh đạo tạI một số doanh nghiệp. 2-DNNN còn bị nhiều trói buộc,chưa thực sự được tự chủ trong kinh doanh phù hợp với cơ chế thị trường như doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác. Các cơ quan quản lý can thiệp quá sâu vào quyền kinh doanh của doanh nghiệp ,nhưng lại không chịu tránh nhiệm về hiệu quả hoạt động kinh doamh của doanh nghiệp.Doanh nghiệp chưa được tự chủ quyết đnh dự án đầu tư ứ đọng ,quyết định trích khấu hao ,chi phí quảng cáo ,giao dịch ,qui định về trả lương thương …. Một số dẫn chứng cụ thể: +Phân cấp đầu tư cho DNNN thực chất còn là hình thức ,doanh nghiệp phảI trải qua rất nhiếu cửa để tiến hành mồt dụ án đầu tư ;việc xét duyệt dự án và đấu thâu phải trải qua rất nhiều bước và kéo dài;thủ tục bằng vốn vay còn rất phiền hà và phức tạp,qua nhiều cửa,trong khi văn bản hướng đẫn của nhà nước chưa đầy đủ và rõ ràng. +Qui định về đơn giá lương phải được cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc địa phương phê duyệt;quy định điều kiện để có thể thực hiện đơn giá lương ;mức lương tối đa ;qui định tương quan giữa lương giám đốc và lương bình quân của doanh nghiệp;qui định từ cấp bậc lương nào phải do cấp trên duyệt. +Nhiều cơ chế chính sách không còn phù hợp với cơ chế thị trường, nhưng chậm được sửa đổi như ;xử lý lỗ ,nợ khó đòi ,rủi ro trong kinh doanh ;xử lý vật tư ứ đọng,chậm luân chuyển hoặc tài sản thanh lý ,lạc hậu kĩ thuật không cần dùng;qui dịnh nguồn quỹ dự phòng rủi ro,thất nghiệp,qui qui định về thu sử dụng vốn ... +Nhà nước có quá nhiều văn bản (hơn 400 văn bản về xây dựng cơ bản ,230 văn bản về thuế ,hơn 400 văn bản về đất đai ,..),nhưng không ăn khớp nhau ,có những qui định thiếu tính khả thi và gậy ách tắc,làm chậm chễ quá nhiều trong hoạt động của doanh nghiệp,và là cơ hội cho một số cán bộ ở các cơ quan quản lý nhà nước gây nhũng nhiễu ,tiêu cực kéo dài bấy lâu nay. Nhưng so với cơ chế cũ thì quyền của DNNN có được nới rộng hơn ;nhưng so với yêu cầu tự chủ kinh doanh ,trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần,mở cửa ,cạnh tranh ngày càng gay gắt ngay tại thị trường trong nước cũng như nước ngoài ,thì DNNN chưa thể vận động theo cơ chế chung cho tất cả các thành phần kinh tế,còn nhiều hạn chế trên cả 4 mặt :về nhân sự,hội đồng quản trị không có thực quyền ;về đầu tư ,nhà nước còn chi phối chặt chẽ việc đầu tư vốn của doanh nghiệp,doanh nghiệp mới được tự quyết những đầu tư nhỏ,nhưng thủ tục ràng buộc và rất phiền hà,cơ chế và thẩm quyền quyết định đầu tư chưa tạo điều kiện cho DNNN phát huy quyền tự chủ cũng như chưâ xác định trách nhiệm của người quyết định đầu tư khi phương án đầu tư không có hiệu quả trong kinh doanh ;DNNN chưa được tự ta quyết định với câc yếu tố chi phí;vê phân phối kết quả làm ra,DNNN còn bị khống chế,chưa tự quyết định lương ,thưởng ,sử dụng số lợi nhuận để lại. 3-Cơ chế ,chính sách tiền lương và phân phối lợi nhuận để lạI DNNN chưa thực sự tạo được động lực cả với cong nhân và người quản lý. +Qui định về tiền lương đối với DNNN hiện nay chưa phù hợp với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong cơ chế thị trường và còn nhiều bất hợp lý,chưa tạo được động lực cả với công nhân và cán bộ quản lý.Một số vấn đề cụ thể là: Lương của giám đốc DNNN quy định dựa trên phân loại DNNN có 2 bậc và lương thực tế không được cao quá 3 lần lương công nhân. Lương cán bộ quản lý ,đặc biệt là chuyên viên nghiệp vụ tạI DNNN có nhiều bậc khoản cách bậc ngắn,hệ số thấp so với một số chức danh như thủ kho hay bảo vệ …Hệ số phụ cấp chức vụ khá thấp. Một số thang bảng lương cho sản xuất lám căn cứ để tính toán tiền lương không còn phù hợp hoặc chưa đầy đủ . +Về phần lợi nhuận để lại doanh nghiệp ,theo nghị định 27/CP(20/4/1999),lợi nhuận của doanh nghiệp sau khi nộp thuế thu nhập doanh nghiệp.doanh nghịêp còn phảI bù khoản lỗ của các năm trước đối với các khoản lỗ không được trừ vào lợi nhụân trước thuế,nộp tiền sử dụng vốn cho ngân sách nhà nước ,trừ vào các khoản vi phạm pháp luật.Sau khi trừ các khoản này,được trích 10% vào quĩ dự phòng tài chính,50% vào quĩ đầu tư phát triển,5% ở quĩ dự phòng mất việc làm ;số lợi nghuận còn lạI được trích lập 2 quĩ lhen thưởng và phúc lợi,nếu tỷ suất lợi nhuậnh năm nauy không thấp hơn năm trước thì dược trích tối đa 3 tháng lương ,nếu thấp hơn 2 năm trước thì được trích 2 tháng lương.Như vậy phần trích thực tế vào 2 quĩ phúc lợi và khen thưởng rất thấp chưa tạo được động lực đối với người lao động . 4-Chế thuế còn bất hợp lí cần được tiếp tục bổ sung và sửa đổi,ổn định trong một thời gían nhất định. Chính sách thuế đặc biệt là thuế VAT,thuế xuất nhập khẩu sửa đổi, bổ sung nhiều,tuy trước mắt đẵ giảI quyết được một số khó khăn thực tế trong kinh doanh ,nhưng nhiều khi là những xin cho cụ thể đối với từng doanh nghiệp,không tạo được chủ động cho doanh nghiệp,về lâu dàI không tạo được sự bình đẳng ,khuyến khích cạnh tranh giữa các doanh nghiệp. Còn một số bất hợp lí cần tiếp tục sửa đổi như: +Cách tính chi phí hợp lí để tính thuế thu nhập doanh nghiệp còn rất phức tạp,cũng khó kiểm tra, giám sát,dễ dẫn đến tuỳ tiện ,cửa quyền ,móc ngoặc…. +Việc hoàn thuế VAT đầu vào nói chung chậm ,kéo dài có khi 3-4 tháng ,doanh nghiệp đã thiếu vốn lạI phải đi vay nộp thuế,khó khăn nhất là đối với những doanh nghiệp sản xuất dùng nhiều loạI nguyên vật liệu nhập khẩu. +Trường hợp sản xuất kinh doanh mặt hàng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt,không áp dụng thuế VAT đầu ra,nhưng tất cả nguyên liệu,vật tư sản xuất đều phảI nộp thuế VAT. +Một số trường hợp thuế xuất nhập khẩu cho sản xuất bằng hoặc cao hơn thuế xuất nhập khẩu cùng loạI ,làm cho sản xuất trong nước không cạnh tranh được. +Nhiều trường hợp áp mã thuế sai lệch ,tuỳ thuộc chủ yếu vào cán bộ hảI quan ,nhiều khi tuỳ tiện ,gây thiệt hại cho doanh nghiệp. 5-Việc cổ phần hoá,đa dạng hoá các hình thức sở hữu trong doanh nghiệp,với mô hình công ty cổ phần có vốn của nhà nước chi phối hoặc tham gia,còn nhiều vướng mắc và cơ chế tiến hành. Nhìn chung ,việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước tiến hành rất chậm và không đều,ở một số Bộ ,Tổng công ty và địa phương số DNNN cổ phần hoá rất ít.Số 631 DNNN đã cổ phần hoá(tính đến gữa năm 2001)mới chỉ mang tính thí đIúm để rút kinh nghiệm;phần lớn các DNNN đã cổ phần hoá có qui mô nhỏ(90% có vốn nhà nước dưới 10tỷ đồng,trong đó 70% là dưới 5tỷ);tổng vốn vủa các DNNN dẫ cổ phần hoá chỉ chiếm gẩn 2% tổng số vốn hiện có của nhà nước nằm tạI các DNNN. Sự chậm trễ trong tiến hành cổ phần hoá có phần do đây là là một việc hoàn toàn mới ,phảI vừa làm vừa rút kinh nghiệm,hoàn thiện đần các văn bản pháp qui cần thiết,và cũng tư thực tế mà tạo lòng tin vào hiệu quả của chủ trương này. Tuy nhiên ,sự chậm trễ cũng còn có những nhận thức chưa đúng của nhiều cấp qủan lí .Phổ biến là vẫn chưa thấy đúng tầm của chủ trương nhằm cơ cấu lạI vốn đầu tư của nhà nước,huy động vốn đầu tư cho xã hội và đổỉ mới cơ chế để tạo động lực đối với doanh nghiệp mà nhà nước không cần giữ 100% vốn,còn coi đây như một giảI pháp sắp xếp,chỉ làm đối với những doanh nghiệp nhỏ ,đang gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh ,ít nhằm vào những doanh nghiệp có qui mô lớn hơn mà nhà nước không cần gĩư 100% vốn,đang có lãI ,phát triển tương đốivững chắc,có sức thu hút mạnh nguồn lực của cán bộ công nhân trong doanh nghiệp và bên ngoàI để phát triển sản xuất . Chậm đổi mới thủ tục cổ phần hoá,tính hành chính con nặng ,khâu trở ngạI lớn nhất là việc xác định giá trị doạnh ngjhiệp ,chủ yếu vẫn bằng phương pháp hành chính,chưa tìm được lối ra thích hợp,chưa phù hợp với cơ chế thị trường,chưa công khai ,thẩm định giá phức tạp,tốn nhiều thời gian . Một số qui định trong nghị định số 44/1998/NĐ-CP,chưa đủ độ khuyến khích như:khống chế mua cổ phần lần đàu ,xử lí phần vốn tự bổ sung .Chưa xử lí dứt điểm các khoản nợ tồn đọng để nhiều doanh nghiệp có thể tiến hành cổ phần hoá. Chưa có hệ thống văn bản pháp qui đồng bộ dủ để tiến hàmh viêc giao ,bán và khoán kinh doanh ,cho thuê DNNN Có qui mô nhỏ. 6-Các tổng công ty (TCT) còn gặp nhiều vướng mắc trong thực tiễn ,hạn chế việc thực hiện chức năng nhiệm vụ. +Mối quan hệ giữa các thành viên troan TCT chủ yếu là qyan hệ ghép nối có tính cơ học,rất lỏng iẻo thiếu gắn kết đI nhiều TCT được thành lập chưa tuân theo nhu cẩu tích tụ ,tập trung vốn. +Vai trò đầu tư phát triển hoặc hỗ trợ vốn cho các công ty thành viên của TCT cũng hết sức hạn chế vì bản thân TCT không có vốn;việc điều hoà một phần vốn khấu hao ,vốn tích luỹ để tập trung đầu tư một số dự án hoăc hỗ trợ một số đơn vị gặp khó khăn cũng hoàn tính mang tính thương lương ,thoả thuận với các công ty thành viên.TCT được phân cấp quyết định một số đầu tư nhỏ nhưng nặng về hình thức,vì cơ chế xét duyệt nặng nề,nói chung cũng đều do cấp trên quyết định cả .Sau khi trở thành thành viên của TCT ,các công ty thành viên phảI đóng góp cho TCT bằng các hình thức :phí qủan lí ,tập trung một phần quĩ đầu tư phát triển ,quĩ khen thưởng ,quĩ phúc lợi;trong khi nhiều thành viên hoạt động có hiệu quả không nhận được sự hỗ trợ tương xứng với mức đóng góp ,thi nhưng công ty thành viên yếu kém lạI dựa dẫm vào TCT để tồn tại. Trên thực tế có nhiều đầu mối quản lí nhà nước đối với các TCT ,TCT PHảI gõ nhiều cửa ( Thủ tướng chính phủ,má trực tiếp là văn phòng chính phủ Bộ quản lý nghành ;….).Bản thân các công ty thanh viên không phảI chỉ qua TCT Là xong ,mà cũng phảI gõ nhiều cửa tương tự như TCT đI gõ ở các cấp .các cơ quan thanh tra kiểm tra ,bảo vêh pháp luật ,thanh tra cả với TCT và từng doanh nghiệp thành viên ,nên vai trì của TCT Bị lu mờ. +Hội đòng quản trị của TCT chưa có đủ thực quyền của đạI diện chủ sở hửutực tiếp của nhà nước tạI TCT ,nhiều vấn đề phảI trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền để quyết định.Chủ tịch hội đồng quản trị và tổng gián đốc cúng do một cấp vổ nhiệm,cùng kí nhận vốn ,cùng chịu trách nhiêmj trớc nhà nớc,cúng sử dụng bộ máy tham mưu,phân định quyền hạn ,tràch nhiệm không rõ ràng ,quan hệ vơI nhau chủ yếu trên cơ sở đoàn kết,’’đồng thuận’’. 7-Chưa có chính sách hữu hiệu để giảI quyết tình trạng nợ nần không có khả năng thanh toán ,tình tràng lao động dôI dư lớn và đổi mới công nghệ vốn đã quá cũ kĩ ,lạc hậu ở các DNNN. Việc sắp xếp DNNN chủ yếu mới là thu gọn đấu mối vế mặt số lượng ,tuy có tiến bộ một bước ,nhưng chưa tạo ra sự thay đổi về chất lượng ,hậu quả cũ vẫn còn tồn đọng nặng nề ,chưa tăng được sức sản xuất và năng lực cạnh tranh của DNNN . +Tuy có nhiều cố gắng giảI quyết nhưng tinh trạng nợ nần không có khả năng thanh toán của các DNNN là rất nặng nề . Những giảI pháp để xử lý tồn đọng cho các DNNN như miễn ,giảm thuế ,xoá nợ ,khoanh nợ ,giãn nợ….mới chỉ mang tính chất tình thế ,chưa giải quyết được một cách cơ bản vấn đề tồn đọng của các DNNN,gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong kinh doanh ,trong tiếp tục vay vốn ngân háng hoặc huy động vốn,trong thực hiện sắp xếp,cổ phần hoá ,giao, bán, và khoán kinh doanh ,cho chủ xí nghiệp. +Số lao đông tồn đọng không được bố trí việc làm hoặc dôI dư trong doanh nghiệp hịn nauy là rầt lớn ,hạn chế năng suất lao động và sức cạnh tranh. Ngoài số lao đông không bố trí dược việc làm khoảng 10 vạn người do quá khứ để lại ;khi chuyển sang cơ chế mới, DNNN có quyền tự chủ trong tuyển dụng lao động ,lại đã tuyển nhiều hơn yêu cầu sản xuất,kinh doanh .Số lao động dôi dư này khó giải quýêt do nhiếu nguyên nhân, nhỉều doanh nghiệp do sản xuất ,kinh doanh gặp khó khăn không có nguồn vốn để giải quyết ,ngân sách nhà nước cũmg không có khả năng hỗ trợ;phần đông người lao động có thu nhập thấp vẫn không muốn rời doanh nghiệp,vì lương hưu thấp và không còn được hưởng bảo hiểm xã hội;DNNN không có quyền đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với số hợp đống không xác định thời hạn đã kí kết trước đây;chậm ban hành chế độ bảo hiểm xã hội tự nguyện nên người lao đông không muốn chuyển ra khu vưc ngoài quốc doanh;các chế độ trợ cấp mất việc làm ,trợ cấp thôi việc ,trợ cấp đào tạo nghề…chưa khuyến khích người lao động tự tạo và tìm việc làm ở khu vực ngoài quốc doanh. +Tình trạngphần lớn các DNNN có công nghệ lạc hậu ,đổi mới công nghệ rất chậm do chưa có cơ chế, chính sách phù hợp .đang hạn chế lớn khả năng cạnh tranh ,là một thử thách lớn đối với DNNN trong giai đoạn hội nhập sắp tới.Một số doanh nghiệp chần chừ trong việc đầu tư thiết bị hiện đại vì sẽ làm tăng thêm số lao động dôi dư. 8-Nhiều chủ trương đổi mới của đảng đối với DNNN được thể chế hoá và đưa vào thực hiện chậm ,hoặc chưa được thể chế hoá. Nhiều chủ trương đổi mới của đảng đối DNNN được thể chế hoá và đưa vào thực hiện chậm ,thời gian từ khi ban hành luật đến khi có nghị định và có đủ các văn bản hướng dẫn kèm theo thường rất dài. Cho đến nay ,một số chủ trương nghị quyết trung ương 4 khoá VIII đối với DNNN chưa được thể chế hoá: chuyển các doanh nghiệp đang hoạt động theo cơ chế công ty trách nhiệm hữu hạn hoặc công ty cổ phần; đôí với doanh nghiệp có hội đồng quản trị ,hội đồng quản trị là các cơ quan nhà nước đại diện trực tiếp chủ sở hữu tại doanh nghiệp ,chịu tránh nhiệm vế phát triển và bảo toàn tài sản và vốn nhà nước giao cho doanh nghiệp ;giám đốc do hội đồng quản trị lựa chọn và kí kết hợp đồng với sự chấp thuận của cơ quan hành chính có thẩm quyền ;tổng kết mô hình tổng công ty nhà nước,trên cơ sở đó có phương án xây dựng các TCT thực sự vững mạnh trở thành những tập đoàn kinh tế mạnh ,có hiệu quả và sức cạnh tranh cao ,thực sự là xương sống của nền kinh tế ;nghiên cứu chuyểnt cơ chế quản lí vốn theo phương thức hành chính sang cơ chế công ty tài chính; có qui định kiểm soát các doanh

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc50147.doc
Tài liệu liên quan