2.1. KHÁI QUÁT HOẠT ĐỘNG MGCK TẠI CÁC CTCK VIỆT NAM.
2.1.1. Hoạt động phát triển cơ sở khách hang
2.1.2. Nhận lệnh
2.1.3. Nhập kệnh, huỷ lệnh
2.1.4. Thông báo kết quả giao dịch và thanh toán
2.2. VÀI NÉT CƠ BẢN VỀ CTCK CÔNG THƯƠNG
2.2.1. Giới thiệu công ty
2.1.1.1. Quá trình hình thành và phát triển
2.1.1.2. Vai trò, nguyên tắc hoạt động và các nghiệp vụ kinh doanh
2.1.1.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty
2.2.1. Thuận lợi và khó khăn
2.2.1.1. Những khó khăn chính
2.2.1.2. Những thuận lợi cơ bản
2.3. THỰC TRẠNG, HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MGCK TẠI CTCK CÔNG THƯƠNG
2.3.1. Sự cần thiết hình thành và phát triển nghiệp vụ MGCK
2.3.2. Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động MGCK
2.3.3. Nguyên tắc hoạt động MGCK
2.3.4. Thực trạng, hiệu qua hoạt động MGCK
2.4. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG MGCK CỦA CÔNG TY
2.4.1. Kết quả đạt được
2.4.2. Tồn tại và nguyên nhân
41 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1194 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng, hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty TNHH chứng khoán ngân hang công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
còn kém hiệu quả. Đây là điểm bất cập đáng lo ngại của công ty trước những yêu cầu về tình hình nhiệm vụ sắp tới.
Thiếu nguồn nhân lực có kỹ năng.
Có thể nói, con người là yếu tố quan trọng nhất và có vai trò quyết định đến thành công của một công ty. Các CTCK là những công ty hoạt động trong lĩnh vực tài chính – tiền tệ với những sản phẩm hang hoá cao cấp của thị trường đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân viên dầy dạn kinh nghiệm và tinh thông nghiệp vụ. Đội ngũ nhân viên của CTCK cần phải được đảm bảo vừa là sản phẩm của một nền đào tạo chính quy, có bề dầy năm tháng đồng thời là sản phẩm của một môi trường tài chính phát triển đến một độ chín muồi nhất định mới đảm bảo cho việc điều hành quản lý và thực hiện nghiệp vụ của công ty có kết quả như mong muốn. Tuy nhiên, trong thời gian vừa qua CTCK Công thương còn thiếu một đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý và cán bộ nghiệp vụ có kinh nghiệm kinh doanh thương trường. Một số nghiệp vụ của công ty còn thiếu cán bộ chủ chốt như nghiệp vụ tư vấn, phân tích, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới vấn đề đào tạo kinh nghiệm chuyên môn cũng như kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ nhân viên vừa là một việc làm tất yếu vừa là một thách thức lớn lao đối với công ty.
Doanh thu không đủ bù đắp chi phí.
Nhìn lại quá trình hoạt động trong hơn hai năm qua, các phiên giao dịch hầu như chỉ vào khoảng 3 – 5 tỷ VND, trong giai đoạn hiện nay giá trị giao dịch của các phiên chỉ đạt xấp xỉ 2 tỷ đồng với mức phí dao động từ 0.4 – 0.5% thì doanh thu MG của toàn thị trường đạt khoảng 6 – 10 triệu đồng/phiên. Giả sử chia đều cho các công ty thì mỗi công ty thu khoảng 1 triệu/phiên trong khi mỗi phiên giao dịch công ty phải chi ít nhất là 1 triệu tiền điện thoại, thêm vào đó là các chi phí khác như tiền lương, tiền thuê sàn, tiền mua sắm tài sản cố định… Như vậy, thực tế thời gian đầu, các CTCK đều bị lỗ, cho đến quý2, quý 3 năm 2001 khối lượng giao dịch có tăng, các công ty mới hoà hoặc có thu chút ít. Đến giai đoạn hiện nay giá trị giao dịch mỗi phiên lại rất thấp, các công ty tiếp tục rơi vào tình trạng khó khăn bởi vì nguồn thu chủ yếu của công ty là dựa vào nghiệp vụ MGCK.
2.2.2.2. Những thuận lợi cơ bản.
Bên cạnh những khó khăn vừa nêu, CTCK Công thương cũng có những thuận lợi quan trọng cho quá trình phát triển hoạt động kinh doanh của công ty, đó là:
- Nhìn chung, trong hai năm vừa qua tình hình kinh tế – xã hội đất nước là thuận lợi cho sự phát triển của TTCK. Nhịp độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế vẫn được duy trì tương đối ổn định, năm sau cao hơn năm trước (2001 đạt 6,8%; 2002 đạt 7,04%) và được xếp vào nhóm ba nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới đó là Hàn Quốc – 7% và Trung Quốc – 8%. Các chỉ số kinh tế vĩ mô như lạm phát, tỷ giá hối đoái, cán cân thanh toán, bội chi ngân sách, tỷ trọng đầu tư/GDP, mức thu hút vốn đầu tư nước ngoài… tiếp tục đạt như dự kiến. Khi GDP tăng trưởng ổn định, chỉ số TTCK cũng tăng trưởng ổn định theo. Điều này sẽ tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn cho các cá nhân trong nước cũng như nước ngoài. Hơn nữa, triển vọng tăng trưởng GDP trong những năm tới là chắc chắn do Việt Nam là nước sống hoà bình, có dầu lửa xuất khẩu và có lương thực thực phẩm.
- Quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được diễn ra mạnh mẽ trong các năm vừa qua. Tính đến nay đã có khoảng 965 doanh nghiệp được cổ phần hoá. Hầu hết các doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá đều có tình hình sản xuất kinh doanh tương đối khả quan, thu nhập của người lao động gia tăng, việc làm được bảo đảm, lợi nhuận cao. Tiến trình cổ phần hoá vẫn tiếp tục được quan tâm thúc đẩy từ trung ương đến các địa phương và ở các bộ ngành. Việc các công ty cổ phần hoá hoạt động kinh doanh hiệu quả có ý nghĩa rất quan trọng đối với các CTCK cũng như TTCK vì đây là các chủ thể quan trọng cung cấp hàng hoá cho thị trường. Tuy nhiên, để thu hút, khuyến khích được các doanh nghiệp này tham gia niêm yết trên TTCK là công việc mà các CTCK hiện nay đang hết sức quan tâm.
- TTCK non trẻ đã tạo ra những bước tập dượt ban đầu cho các CTCK. Nhận thức của công chúng đầu tư đối với TTCK đang dần có sự thay đổi. Những cải thiện quan trọng trong khuôn khổ pháp lý trong nước và trong quan hệ đối ngoại đã tạo điều kiện cho môi trường kinh doanh có thêm xung lực mới đặc biệt là khu vực tư nhân.
- TTCK Việt Nam ra đời khi TTCK trên thế giới đủ phát triển mạnh, đặc biệt là TTCK của một số nước như Mỹ, Anh, Nhật, Hồng Kông, Thái Lan, Hàn Quốc, Singapo. Với một bước đi trước của các nước về sự ra đời và phát triển TTCK đã tạo thuận lợi cho nước ta. Chúng ta có thể học hỏi được kinh nghiệm, phát huy được những tiến bộ khoa học kỹ thuật trong lĩnh vực CK phù hợp với điều kiện kinh tế của đất nước.
- CTCK Công thương còn có một thế mạnh khác, tạo ưu thế cho mình khi bắt đầu tham gia hoạt động. Đó là công ty được đầu tư 100% vốn từ Ngân hàng Công thương Việt Nam. CTCK Công thương ra đời cũng được thừa hưởng bề dầy của ngân hàng mẹ với mạng lưới các chi nhánh rộng khắp trên các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước, có quan hệ đại lý với các ngân hàng, các tổ chức tài chính và đang tài trợ cho nhiều dự án lớn.
Thực trạng, hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương
Sự cần thiết hình thành và phát triển nghiệp vụ môi giới chứng khoán.
Cũng giống như tất cả các CTCK khác, CTCK Công thương ra đời nhằm mục đích hoạt động kinh doanh thu lợi nhuận thông qua các nghiệp vụ mà công ty thực hiện theo quy định của UBCKNN bao gồm: môi giới, tư vấn, tự doanh, quản lý danh mục đầu tư, bảo lãnh, thanh toán bù trừ và lưu ký CK trong đó hoạt động MG luôn được công ty chú trọng ngay từ khi công ty mới đi vào hoạt động cho đến ngày nay. Sở dĩ nghiệp vụ này được công ty đánh giá cao là vì nó ít rủi ro, vốn pháp định không cao, hoạt động lại có hiệu quả. Trong các nghiệp vụ kinh doanh của công ty thì nghiệp vụ MGCK luôn đem lại cho công ty nguồn thu nhập lớn nhất. Vì vậy, hình thành và phát triển nghiệp vụ MGCK là điều rất cần thiết đối với công ty.
Hơn nữa, bản chất của TTCK là hoạt động theo nguyên tắc trung gian trong đó nhà MGCK là những người thường xuyên xuất hiện trên Sàn. Họ là người trực tiếp giao dịch với khách hàng, làm cho cung và cầu gặp nhau và quá trình mua bán được diễn ra nhanh chóng, thuận lợi và tiết kiệm. Một trong những thành công của CTCK là thu hút ngày càng nhiều khách hàng, tạo niềm tin trong họ cũng như gây dựng được hình ảnh tốt đẹp của công ty trong lòng công chúng đầu tư vì đây được coi là đối tượng quan trọng có tiềm năng to lớn về vốn đầu tư và được coi là nguồn cung cấp vốn chủ yếu cho TTCK. Muốn thu hút được lực lượng này tham gia vào thị trường cần phải nâng cao hiểu biết cho họ, quan trọng hơn là phải tạo lòng tin của họ vào thị trường. Để làm được điều đó, không ai khác mà chính là nhờ vào một phần rất lớn công sức của các nhà MGCK.
Trong điều kiện TTCK còn rất non trẻ như hiện nay thì lòng tin của công chúng đầu tư là yếu tố rất quan trọng, quyết định đến sự thành bại của TTCK. Một khi lòng tin của công chúng đầu tư bị đổ vỡ thì việc kéo họ trở lại với thị trường là hết sức khó khăn. Vì thế, ngay từ đầu, CTCK với chức năng MG phải có kỷ cương nghiêm minh, nhân viên của công ty, đặc biệt là các đại diện MG, phải được trang bị đầy đủ về tri thức, kỹ năng hành nghề và đạo đức nghề nghiệp. Nếu không kiên định với việc xây dựng những tiêu chí này thì sẽ không thể xoá bỏ được ấn tượng xấu về cái gọi là “nghề chỉ trỏ” đã từng hằn sâu trong xã hội, không thể tạo dựng một khuôn mặt của một người MG tài chính trung thực, giỏi nghề và tận tuỵ với khách hang và vì thế không thể xây dựng thành công TTCK.
Trong tương lai không xa, khi TTCK đã bước qua thời kỳ sơ khai và đi vào giai đoạn phát triển, sản phẩm dịch vụ dồi dào về số lượng, đa dạng, phong phú về chủng loại, tinh tế và nhạy cảm trong vận hành chức năng thì đòi hỏi việc cung cấp cho nhà đầu tư những thông tin cần thiết, những ý tưởng đầu tư, những lời khuyên mang tính thời điểm hay mang tính chiến lược và giúp cho nhà đầu tư thực hiện các giao dịch theo cách có lợi nhất là mục đích hoạt động của công ty. Để thực hiện điều đó, việc thúc đảy hoạt động MGCK phát triển mang tính chuyên nghiệp cao là rất cần thiết đối với công ty ngay cả trong thời điểm hiện nay.
Với những lý do trên đây, có thể thấy MGCK là hoạt động rất quan trọng đối với một CTCK. Đây không chỉ là một khâu bắt buộc phải có trong quá trình giao dịch mà còn là một nguồn chỉ dẫn, tư vấn, chăm sóc rất hữu ích đối với người đầu tư. Nhận thức được tầm quan trọng như vậy nên tất cả các CTCK Việt Nam ngay từ khi thành lập đều thực hiện nghiệp vụ này và coi đây là nghiệp vụ chủ lực trong cạnh tranh giữa các CTCK. Vì vậy việc hình thành và phát triển nghiệp vụ MGCK tại các CTCK là rất cần thiết trong đó CTCK Công thương không phải là trường hợp ngoại lệ.
Cơ sở pháp lý điều chỉnh hoạt động môi giới chứng khoán.
Cho đến nay, UBCKNN cũng chưa đưa ra một văn bản pháp lý nào điều chỉnh riêng hoạt động MGCK. Do hệ thống pháp lý về CK và TTCK Việt Nam còn nhiều bất cập, chưa có một bộ luật cụ thể về CK và TTCK mà chỉ đang nằm quá trình điều chỉnh, sửa đổi, bổ sung theo từng giai đoạn hoạt động của thị trường. Vấn đề này cũng gây ra rất nhiều khó khăn đối với các CTCK đặc biệt đối với những nghiệp vụ dễ gây ra những tranh chấp và xung đột về lợi ích như nghiệp vụ MGCK. Dù chưa có quy chế riêng về hoạt động MGCK nhưng các CTCK thực hiện nghiệp vụ này cũng chịu sự điều chỉnh chung theo các quy định, quy chế, nghị định mà UBCKNN đã ban hành như:
Nghị định 48/1998/NĐ- CP ngày 11/07/1998 của Chính phủ về CK và TTCK.
Quy chế về tổ chức và hoạt động của CTCK (ban hành kèm theo Quyết định số 04/1998/QĐ- UBCK3 ngày 13/10/1998 của Chủ tịch UBCKNN)
Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch CK (ban hành kèm theo Quyết định sôư 04/1999/QĐ- UBCK1 ngày 27/03/1999 của Chủ tịch UBCKNN).
Quyết định số 42/2000/QQĐ- UBCK1 ngày 12/06/2000 của Chủ tịch UBCKNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều trong Quy chế thành viên, niêm yết, công bố thông tin và giao dịch CK ban hành kèm theo Quyết định số 04/1999/QĐ- UBCK1 ngày 27/03/1999 của Chủ tịch UBCKNN.
Thông tư số 01/2000/TT- UBCK1 ngày 17/04/2000 của UBCKNN hướng dẫn tạm thời chế độ thu phí đối với khách hàng của các tổ chức kinh doanh dịch vụ CK.
Nguyên tắc hoạt động môi giới chứng khoán.
Trong mỗi lĩnh vực công việc cụ thể, cán bộ nhân viên đều phải tuân thủ theo những nguyên tắc hoạt động nhất định. Qua đó, sẽ đánh giá được cả về trình độ chuyên môn cũng như đạo đức của một nhân viên hành nghề. Đối với lĩnh vực CK, dù còn hết sức mới mẻ tuy nhiên, để hoạt động kinh doanh của các CTCK đạt hiệu quả thì tất cả các nhân viên CK đều phải tuân thủ theo các nguyên tắc hoạt động nhất định. Mục đích của các nguyên tắc này là nhằm bảo vệ quyền lợi cho các nhà đầu tư và đảm bảo rằng nhân viên tiến hành giao dịch CK của mình theo cách thức hợp lý nhằm góp phần duy trì một thị trường công bằng và có trật tự.
Các nguyên tắc hoạt động của nghiệp vụ MGCK bao gồm:
Giao dịch trung thực và công bằng.
Trong quá trình thực hiện giao dịch mua bán CK cho khách hàng cũng như việc thực hiện các hoạt động về CK thay mặt khách hàng, nhân viên MG cần phải đảm bảo tính độc lập, công khai và không thiên vị. Họ không được đòi hỏi, nhận, mời hay cho tặng bất kỳ một món quà biếu hay hối lộ nào từ phía khách hàng hoặc dành cho khách hàng nhất là các khách hàng tiềm năng nhằm mưu cầu một sự đối sử ưu đãi và thiên vị so với các đối tượng khác.
Ngoài ra, khi tính các loại phí nhân viên MG không được tính vượt quá mức phí cho phép trong từng trường họp cụ thể ví dụ như mức phí dịch vụ MG tối đa không vượt quá 0,5% trị giá giao dịch cổ phiếu, chứng chỉ quỹ đầu tư và tối đa không quá 0,15% giá trị giao dịch trái phiếu (áp dụng từ ngày 29/11/2000).
Kinh doanh có kỹ năng, tận tuỵ, có tinh thân ftrách nhiệm.
Nhân viên MG tài năng không chỉ là ngươig hội tụ đầy đủ các phẩm chất đạo đức nghề nghiệp mà còn phải nắm vững thành thục các kỹ năng hành nghề cơ bản như kỹ năng tìm kiếm khách hàng, kỹ năng truyền đạt thông tin, kỹ năng khai thác thông tin, kỹ năng bán hàng. Sử dụng thành thạo các kỹ năng này sẽ giúp cho các nhà MG nâng cao trình độ nghiệp vụ, chia sẻ những kiến thức và hiểu biết của mình cho khách hàng từ đó thoả mãn tốt nhất lợi ích tài chính cho họ.
Một nhà MG thành công còn là người có tinh thần trách nhiệm cao, tận tuỵ với khách hàng, coi lợi ích của khách hàng cũng chính là lợi ích của mình, cùng vui với niềm vui và cùng chia sẽ với những nỗi buồn của họ.
Có đủ đội ngũ nhân viên MG có năng lực, đã qua đào tạo và tuyển chọn.
Trước hết, nhân viên phải nắm vững và luôn tuân thủ các luật lệ, quy chế, quy định hiện hành liên quan đến giao dịch kinh doanh CK. Trong quá trình giao dịch với khách hàng họ phải thể hiện là nhân viên có đủ năng lực cần thiết bao gồm cả việc được đào tạo hoặc có kinh nghiệm chuyên môn phù hợp để có thể làm việc tốt ở vị trí được giao phó. Đơn vị quản lý luôn phải đảm bảo các nhân viên được chỉ định giao dịch với khách hàng phải có những chuẩn mực nghề nghiệp về tính liêm chính và công bằng. Mặt khác, họ phải có các thủ tục kiểm soát nội bộ thoả đáng và có năng lực nghiệp vụ, tài chính để cho phép tiến hành hợp thức việc kinh doanh của mình và để có thể bảo vệ việc kinh doanh cũng như khách hang khỏi những thất thoát về tài chính do trộm cắp, gian lận, các hành vi không trung thực khác và các thiếu sót và sai phạm về nghiệp vụ gây ra.
Ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của công ty.
Nhân viên phải xử lý các lệnh của khach shàng một cách công bằng và theo thứ tự thời gian nhận được chúng, và phải đảm bảo rằng trong mọi trường hợp các lệnh của khách hàng phải được ưu tiên hơn so với các lệnh của chính công ty. Nếu nhân viên gộp đơn của khách hàng này với đơn đặt hàng của khách hang khác hoặc với đơn đặt hàng của chính công ty thì nhân viên phải ưu tiên thực hiện trước các đơn đặt hàng của khách hàng bất kể thứ tự trước sau trong trường hợp không thể thực hiện được tất cả các đơn đặt hang.
Không tiến hành các hoạt động có thể làm cho khách hàng và công chúng hiểu lầm về giá cả, giá trị và bản chất của CK hoặc các hoạt động khác gây thiệt hại cho khách hang.
Công khai về thông tin cho khách hang.
Trước hết, nhân viên phải cung cấp cho khách hàng những thông tin đầy đủ về công ty của mình, các điều kiện thuận lợi cũng như hạn chế liên quan đến quyết định đầu tư của khách hàng. Bên cạnh đó, tất cả các thoả thuận về việc cung cấp dịch vụ giữa nhân viên và khách hàng phải được viết bằng văn bản và phải quy định đầy đủ, chi tiết. Sau khi thực hiện giao dịch cho khách hàng, nhân viên phải cố gắng nhanh chóng xác nhận với khách hàng những đặc điểm chính của giao dịch như ngày, giờ giao dịch, tên của các CK có liên quan, giá tiền phải trả hoặc được nhận và số lượng mua vào hay bán ra. Trong trườn hợp nhân viên thực hiện giao dịch với khách hàng họ phải công khai hoá tất cả các dữ liệu có liên quan và các thông tin chi tiết về phí dịch vụ đi kèm. Và bất kỳ thông báo nào do nhân viên cung cấp cho khách hang liên quan tới các giao dịch phải đưọc công khai một cách rõ ràng, minh bạch, đầy đủ và chính xác.
Xung đột về lợi ích.
Trong trường hợp nhân viên có một lợi ích trong một giao dịch với khách hàng hoặc có mối quan hệ sẽ làm nảy sinh xung đột về lợi ích, họ phải tự giác không được làm tư vấn cho khách hàng hoặc thực hiện các giao dịch đó trừ khi họ đã công khai hoá cho khách hàng biết lợi ích đó và được khách hàng chấp thuận trước khi tiến hành vụ giao dịch và nhân viên cũng phải đảm bảo rằng họ đã làm mọi việc để khách hang được đối xử công bằng.
Tuân thủ các quy định pháp luật.
Nhân viên phải chấp hành pháp luật, thực hiện và duy trì các biện pháp thích hợp để đảm bảo việc chấp hành pháp luật, các nguyên tắc của UBCKNN, TTGDCK và yêu cầu của các cơ quan quản lý đối với mình. Họ phải đảm bảo những khiếu nại của khách hàng về những vấn đề liên quan tới lĩnh vực hoạt động kinh doanh của công ty đều được xử lý nhanh chóng và phù hợp, điều tra và giải đáp nhanh chóng những khiếu nại này hoặc thông báo cho khách hàng những biện pháp tiếp theo mà khách hàng có thể sử dụng theo những quy định hiện hành. Nếu nhân viên nào vi phạm các quy định pháp luật thì hoàn toàn phải chịu trách nhiệm trước những hành vi của mình và bị xử lý, kỷ luật theo từng mức độ nặng, nhẹ mà mình gây ra.
2.3.4. Thực trạng, hiệu quả hoạt động môi giới chứng khoán tại CTCK Ngân hàng Công thương.
Trải qua hơn hai năm hoạt động (11/2000), được sự quan tâm chỉ đạo của Ngân hàng Công thương Việt Nam, sự ủng hộ giúp đỡ của các cơ quan hữu quan, cùng với sự nỗ lực của toàn thể Ban lãnh đạo công ty cũng như cán bộ nhân viên, IBS đã từng bước vượt qua những khó khăn ban đầu, hoạt động kinh doanh của công ty dần đi vào ổn định. Với phương châm “hiệu quả kinh doanh của nhà đầu tư là mục tiêu của CTCK Công thương” công ty đã ngày càng thu hút được nhiều khách hang và nâng cao uy tín trên thị trường. Trong các nghiệp vụ mà công ty đang tiến hành thì MGCK được xem là chủ chốt ngay từ khi công ty được thành lập. Tuy mới hoạt động được hơn hai năm nhưng MGCK luôn tỏ ra là một nghiệp vụ hấp dẫn và mang lại hiệu quả cao đối với công ty. Hơn nữa, nghiệp vụ này cũng đang được phát triển nhanh chóng do được tiếp xúc với nhiều thông tin, với các thủ thuật kiếm tiền và với cả những kinh nghiệm học từ nước ngoài. Vì vậy, việc xem xét thực trạng hoạt động MGCK của công ty vào lúc này là rất cần thiết giúp cho việc định hướng phát triển hoạt động MG trở thành một nghiệp vụ có chất lượng, có uy tín và góp phần vào việc thúc đảy TTCK Việt Nam.
Thực trạng, hiệu qủa hoạt động MGCK của IBS có thể được đánh giá qua nhiều tiêu thức khác nhau, tuy nhiên có thể nhìn nhận qua ba chỉ tiêu chính là: Số lượng tài khoản khách hàng mở tại công ty và tỷ trọng; thị phần cũng như doanh số giá trị giao dịch; doanh thu từ phí môi giới.
Số lượng tài khoản khách hàng mở tại công ty và tỷ trọng.
Qua hơn hai năm hoạt động, số lượng khách hàng đến công ty mở tài khoản không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn năm trước. Điều này cho thấy dấu hiệu khả quan về hoạt động MG và hiệu quả mà hoạt động này mang lại ngay trong thời gian đầu. Công ty không chỉ giữ chân được các khách hàng cũ mà còn ngày càng thu hút thêm nhiều khách hàng mới, tạo niềm tin đối với nhà đầu tư và nâng cao uy tín,vị thế của công ty trên thị trường. Có thể đánh giá vấn đề này thông qua các bảng biểu số liệu sau:
Bảng 1: Tài khoản mở tại IBS năm 2001
Kế hoạch
Thực hiện
Tăng/giảm
(+/-)
Số tài khoản đến 31/12/2001
Trụ sở chính
100
240
+140,0%
304
Chi nhánh
80
150
+87,5%
170
Toàn công ty
180
390
+116,7%
474
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2001)
Biểu đồ 1: Số lượng tài khoản giao dịch mở thêm trong năm 2001
Nhìn vào bảng 1 cho thấy, trong năm 2001 IBS không những đạt chỉ tiêu kế hoạch đề ra mà còn vượt xa chỉ tiêu kế hoạch ở cả trụ sở chính và chi nhánh. Trong đó, số tài khoản tăng thêm tại trụ sở chính là 240 (tăng 140% so với kế hoạch), tại chi nhánh thành phố Hồ Chí Minh là 150 (tăng 87,5% so với kế hoạch) đưa tổng số tài khoản tăng thêm trong toàn công ty năm 2001 là 390 tài khoản (tăng 116,7% so với kế hoạch). Như vậy đến cuối năm 2000, công ty mới chỉ có 84 tài khoản trong đó tại trụ sở chính là 64 còn chi nhánh là 20 do công ty mới đi vào hoạt động được hơn một tháng. Tính đến cuối 2001 số tài khoản của toàn công ty đã lên tới 474 tài khoản, trong khi đó toàn thị trường có 8774 tài khoản giao dịch, do đó tỷ trọng số lượng tài khoản mở tại công ty so với thị trường đạt xấp xỉ 6%. Tuy nhiên, con số này còn hạn chế so với một số các CTCK khác như CTCK Sài Gòn chiếm tỷ trọng 27% với số lượng tài khoản mở cho khách hang trên 2000 tài khoản, CTCK Bảo Việt chiếm tỷ trọng 32% với gần 2500 tài khoản mở cho các cá nhân và tổ chức…
Mặc dù vậy, hoạt động MG của công ty vẫn được đánh giá là có hiệu quả vì công ty đã đạt được chỉ tiêu thực tế cao hơn rất nhiều so với dự kiến. Qua biểu đồ 1 ta thấy trong quý 1 năm 2001 số tài khoản giao dịch mở thêm là 90, quý 2 là 147, quý 3 là 88 và quý 4 là 65 tài khoản. Số tài khoản tăng đần từ quý 1 đến quý 2 sau đó giảm dần trong quý 3 và quý 4. Trong quý 2 số tài khoản tăng mạnh là do vào thời điểm này chỉ số Vn – index đạt mức đỉnh điểm 571,04 điểm (phiên ngày 25/06/2001). Hơn nữa,
TTCK mới đi vào hoạt động còn rất nhiều mới mẻ đối với công chúng đầu tư, hàng hoá trên thị trường còn khan hiếm, ban đầu mới chỉ có hai loại là REE và SAM sau đó tăng dần lên 5 loại hang hoá và số phiên giao dịch là 3 phiên/1 tuần vì vậy nhu cầu của nhà đầu tư tham gia giao dịch là lớn và tâm lý của nhà đầu tư bước đầu muốn làm quen, thử sức với sân chơi mới này. Nhận biết được điều đó, với mục tiêu phục vụ khách hang tốt hơn công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và đưa ra các dịch vụ mới. Ngày 12/09/2001 IBS chính thức kết hợp với NHTMCP Kỹ Thương (Techcombank) cung cấp dịch vụ ứng trước tiền bán CK, với mức phí ứng trước 0,035%/ngày/số tiền ứng trước công ty đã thực sự tạo được hình ảnh trong công chúng đầu tư.
Bảng 2: Số tài khoản mở tại công ty năm 2002
Số tài khoản đến
31/12/2002
Tăng/giảm so với năm 2001
Số tài khoản
(+/-) (%)
Trụ sở chính
480
176
+ 73,33
Chi nhánh
520
350
+ 233,33
Toàn công ty
1000
526
+ 134,87
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động năm 2002)
Tính đến 31/12/2002 có gần 1000 khách hàng mở tài khoản tại hai sàn giao dịch của công ty, tăng 134,87% so với năm 2001 (trong đó có 5 khách hàng là tổ chức và 1 khách hàng là người nước ngoài). Số tài khoản tại trụ sở chính là 480 tăng 176 tài khoản so với năm 2001 tỷ lệ tăng 73,33%, tại chi nhánh là 520 tăng 350 tài khoản so với năm 2001 tỷ lệ tăng 233,33%. Tại chi nhánh có số tài khoản tăng nhanh gấp hơn 2, 3 lần so với cùng kỳ là do vào quý 3 chi nhánh thực hiện tư vấn niêm yết được cho một công ty nên thu hút được nhiều cổ đông của họ mở tài khoản mua, bán CK.
Thực trạng tình hình TTCK năm 2002 được đánh gía là một năm trầm lắng và buồn tẻ, tại hầu hết các CTCK quang cảnh giao dịch vắng vẻ, ảm đạm. Trong điều kiện khó khăn đó công ty đã ký kết được một số hợp đồng dịch vụ lưu ký và tư vấn cho một số nhà đầu tư lớn, nhờ vậy, công ty vẫn níu giữ được số khách hang truyền thống và thu hút thêm khách hàng mới đến mở tài khoản giao dịch. Hơn nữa, từ quý 2 công ty đã triển khai mạnh công tác tiếp thị như vào các sáng thứ 2 hàng tuần, IBS tổ chức các buổi thuyết trình miễn phí về tình hình thị trường giúp cho nhà đầu tư có những thông tin tổng thể và chuyên sâu về TTCK. Bên cạnh đó, công ty tiếp tục cung cấp các dịch vụ mới hỗ trợ cho nhà đầu tư CK như dịch vụ chuyển nhượng quyền nhận cổ tức (áp dụng từ ngày 22/10/2002), dịch vụ xác nhận số dư CK trên tài khoản khách hàng (áp dụng miễn phí từ ngày 31/10/2002). Đặc biệt từ 22/07/2002 IBS triển khai nhận lệnh từ xa đối với tất cả khách hàng của công ty qua fax và điện thoại tạo điều kiện cho nhà đầu tư đặt lệnh được nhanh chóng, chính xác và tiết kiệm. Vì vậy, trong điều kiện thị trường còn nhiều khó khăn, một số CTCK không tránh khỏi những tổn thất nhất định thì hoạt động MGCK của IBS vẫn được đánh giá là đạt hiệu quả và đem lại nguồn thu chủ yếu cho công ty.
Nhìn chung lại, qua các số liệu trên cho thấy khách hàng đến với công ty ngày càng nhiều. Với việc đảm bảo các nguyên tắc cơ bản của TTCK cũng như các nguyên tắc về đạo đức nghề nghiệp, hình ảnh của công ty đã được nhiều người biết đến. Bên cạnh đó, dịch vụ tư vấn đầu tư cũng thực sự có hiệu quả đã góp phần thu hút được nhiều khách hang đến với công ty. Điều quan trọng hơn cả là tất cả các nghiệp vụ mà công ty thực hiện đều liên quan trực tiếp đến khách hàng và đã được khách hàng tin tưởng, hài lòng, uy tín của công ty được nhanh chóng truyền miệng từ người này sang người khác do đó số khách hàng đến với công ty mở tài khoản ngày càng nhiều.
Giá trị doanh số giao dịch và thị phần.
Trong năm 2001 với số lượng khách hàng đến mở tài khoản tại công ty vượt dự kiến cũng góp phần làm tăng giá trị doanh số giao dịch tại công ty. Có thể đánh giá thị phần giao dịch của công ty trong mối tương quan với toàn bộ thị trường và với một số CTCK khác như sau:
Bảng 3: Doanh số giao dịch năm 2001
Giá trị GD
(tỷ đồng)
Thị phần kế hoạch (%)
Thị phần thực tế (%)
Tăng/giảm
(+/-)
Trụ sở chính
121,175
Chi nhánh
89,377
Toàn công ty
210,552
7
11,3
+4,3%
(Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh năm 2001)
Như vây, giá trị doanh số giao dịch trong năm 2001 của toàn công ty đạt 210,552 tỷ đồng chiếm 11,3% thị phần vượt 4,3% so với kế hoạch (kế hoạch 7%). Trong đó, giá trị giao dịch qua trụ sở chính là 121,175 tỷ đồng chiếm 57,55% toàn công ty và chi nhánh là 89,377 tỷ đồng chiếm 42,45% toàn công ty. Mặc dù thị phần của công ty còn thấp hơn một số công ty khác như CTCK Bảo Vịêt (25%), CTCK Sài Gòn hay CTCK ACBS…nhưng kết quả mà công ty đạt được trong năm vẫn được xem là có hiệu quả vì công ty đã hoàn thành vượt mức kế hoạch đề ra, hơn nữa nguyên nhân là do công ty đi vào hoạt động sau một số công ty khác vì vậy mà chậm trễ hơn trong việc thu hút khách hàng niê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0043.doc