MỤC LỤC
Trang
Lời nói đầu 1
Nội dung 2
PHẦN I
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TTCK 2
I- Chứng khoán sự hình thành TTCK và cơ cấu của TTCK 2
1. Chứng khoán 2
2. Sự hình thành TTCK. 3
3. Cơ cấu của thị trường chứng khoán 3
II- Những điều kiện cơ bản để thành lập TTCK 4
III- Tính hai mặt của thị trường chứng khoán 5
1. Mặt thứ nhất (mặt tích cực) của thị trường chứng khoán 6
2. Mặt thứ hai (mặt tiêu cực) của thị trường chứng khoán 10
PHẦN II
THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỂN TTCK Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 13
I- Thực trạng TTCK ở Việt Nam hiện nay 13
1. Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành TTCK ở Việt Nam 13
2. Sự cần thiết phải phát triển TTCK ở Việt Nam 16
II- Các giải pháp để phát triển TTCK ở Việt Nam hiện nay 18
1. Vai trò, tác dụng và yêu cầu khách quan của việc hình thành TTCK tại Việt Nam 18
2. Đối chiếu các điều kiện để ra đời TTCK nêu trên vào nền kinh tế Việt Nam 22
3. Xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta 23
Kết luận 27
Tài liệu tham khảo 28
28 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1604 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng lâu, tính thanh khoản càng thấp.
- Tạo thói quen về đầu tư.
Chúng ta biết rằng nguồn tiền nhàn rỗi còn tiềm tàng trong dân chúng rất lớn và hệ thống ngân hàng chưa thu hút được tiềm tàng này. Hơn nữa, dân chúng cũng chưa hiểu đầy đủ về hùn vốn. Chúng ta đã thấy thực tế nhiều Công ty cổ phần ra đời và nhiều cổ đông đã xem phần vốn của mình như là một loại tiền gửi và đòi hỏi đơn vị phải đảm bảo một lãi suất tương đương lãi suất tiền gửi cho phần hùn vốn của mình không cần biết đơn vị làm ăn ra sao.
TTCK, với cơ sở pháp lý hoàn chỉnh và bộ máy quản lý hữu hiệu, sẽ là môi trường thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu và các loại chứng khoán cũng như mọi nghiệp vụ mua bán ở thị trường thứ cấp. Với sự phổ biến và hướng dẫn rộng rãi, người dân sẽ sử dụng nguồn tiết kiệm của mình để mua cổ phiếu hay chứng khoán với niềm tin về lợi nhuận hay tiền lãi bảo đảm. Dĩ nhiên, các nhà trung gian và môi giới phải làm tốt vai trò trung gian của mình để các nhà đầu tư nắm được thông tin đầy đủ về các đơn vị kinh tế đã hoặc đang chuẩn bị phát hành cổ phiếu. Nguồn tiết kiệm quan trọng này, nếu không có TTCK, sẽ tiếp tục nằm yên dưới dạng cất trữ không sinh lợi, và cũng chẳng đóng góp gì cho quá trình phát triển kinh tế . TTCK chẳng những khuyến khích đầu tư mà còn là nơi tạo điều kiện thực hiện mọi sự mua bán dễ dàng khi cần thiết. Sự phát triển của thị trường sơ cấp càng trở nên hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào hoạt động của thị trường.
- Hỗ trợ định giá cổ phần trong chương trình cổ phần hoá.
Vấn đề then chốt ở đây là các đơn vị kinh tế muốn tham gia TTCK cần phải được đánh giá khá chính xác về tình hình hoạt động của đơn vị thể hiện qua bảng cân đối tài sản và tài khoản lỗ lãi. Muốn làm được điều này, đơn vị phải cung cấp đầy đủ thông tin để bộ phận chuyên môn của thị trường thẩm định lại tất cả các loại tài sản, các khoản nợ và đánh giá hoạt động trong từng năm. Mức độ lỗ, lãi của đơn vị là thước đo giá trị cổ phần và người ta cũng quan tâm đến triển vọng của đơn vị trong tương lai. Sự thành bại của một đơn vị còn lệ thuộc vào trình độ quản trị của đơn vị. Do đó, trong kinh tế thị trường không có sự khoan nhượng trong việc thay đổi cấp lãnh đạo của đơn vị. Quyền lợi của cổ đông phải đặt lên trên hết. Nếu không, đơnvị sẽ khó tồn tại. Quản trị tốt sẽ mang lại hiệu quả cao và sẽ làm tăng giá trị cổ phần. Ngược lại, đơn vị sẽ lâm vào tình trạng suy sụp có thể đi đến phá sản.
- Điều tiết việc phát hành cổ phiếu.
Sự tồn tại và phát triển của TTCK hoàn toàn tuỳ thuộc vào sự tham gia thị trường của các đơn vị kinh tế. Tuy nhiên, sự tham gia này phải có điều kiện và chỉ khi nào các điều kiện này được thoả mãn đầy đủ, đơn vị mới có khả năng yết giá trên thị trường để tiến hành mua bán. TTCK có quyền tạm ngừng mua bán một loại cổ phiếu nào đó, nếu có vi phạm sẽ có thể đưa đến thiệt hại cho nhà đầu tư và chỉ cũng cho phép yết giá trở lại khi mọi điều kiện cần thiết được đáp ứng đầy đủ. Như vậy, vai trò quản lý của TTCK là bảm đảm sự an toàn cho các nhà đầu tư bằng cách xem xét, đánh giá các loại cổ phiếu trước khi cho phép đưa ra mua bán. Vai trò điều tiết của TTCK còn có thể hướng các đơn vị kinh tế đầu tư vào các ngành hay lĩnh vực được khuyến khích cũng như thúc đẩy chương trình cổ phần hoá của Nhà nước bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác.
2. Mặt thứ hai (mặt tiêu cực) của thị trường chứng khoán.
- Yếu tố đầu cơ. Trong TTCK đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những người chấp nhận rủi ro. Họ có thể mua cổ phiếu ngay với hy vọng là giá sẽ tăng trong tương lai và thu hồi được lợi nhuận trong từng thương vụ. Yếu tố đầu tư dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giả tạo. Sự việc này càng dễ xảy ra khi có nhiều người cùng kết cấu với nhau để mua hay bán ra một số cổ phiếu nào đó của một đơn vị kinh tế. Sự kết cấu này sẽ tạo sự khan hiếm hay thừa làm cho giá cổ phiếu có thểlên hay xuống đột ngột.
- Mua bán nội gián. Một cá nhân nào đó lợi dụng thông tin nội bộ trong một đơn vị kinh tế để mua bán cổ phiếu của đơn vị đó có ảnh hưởng đến giá trị của cổ phiếu nếu thông tin đó được phổ biến rộng rãi. Mua bán nội gián được xem là phi đạo đức về mặt thương mại vì người có nguồn thông tin từ bên trong sẽ có một lợi thế không hợp lý đối với nhà đầu tư bên ngoài để kiếm lời v ề cho riêng mình hay tránh lỗ và dĩ nhiên là đi ngược lại nguyên tắc: mọi nhà đầu tư đều phải có cơ hội như nhau. Mua bán nội gián được xem như là vi phạm quyền lợi chung, vì lợi dụng nguồn thông tin từ bên trong, người mua bán thu được lợi nhuận hay tránh được lỗ và hậu quả sẽ do người không có được nguồn thông tin đó gánh chịu. Và, nhều nước đã có luật cấm về việc mua bán này.
- Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán.
Luật về TTCK cũng cần phải quan tâm đến việc hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu bên ngoài TTCK. Nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khó lường. Vì bộ phận quản lý không thể nào biết được việc chuyển nhượng quyền sở hữu cổ phiếu của một đơn vị nào đó. Mọi sự mua bán bên ngoài có khả năng tạo áp lực cho các nhà đầu tư khác, thậm chí đưa đến việc khống chế hay thay thế cả lãnh đạo của đơn vị. Hầu hết các TTCK đều quy định là mọi sự mua bán cổ phần đã đăng ký với TTCK phải được thực hiện thông qua thị trường. Nếu không quy định như vậy thì mọi sự lạm dụng trong việc mua bán và chuyển nhượng có thể xảy ra, có khả năng tạo ảnh hưởng xấu đối với đơn vị kinh tế có liên quan.
- Phao tin đồn nhảm về hoạt động của một đơn vị kinh tế.
Điều này cũng gây hậu quả xấu cho đơn vị, có thể đưa đến tình trạng cổ phiếu được đưa ra bán ồ ạt làm giá trị cổ phiếu giảm đột ngột. Những người có ý đồ xấu có thể đứng ra mua các cổ phiếu nào đó để khống chế Công ty và hưởng một số lãi đáng kể sau khi tin đồn đã được kiểm chứng. Đây cũng là điều cấm trong các luật chi phối hoạt động của TTCK.
- Liên tục mua cổ phiếu của một đơn vị kinh tế nào đó ở giá cao và bán ra cùng loại cổ phiếu đó ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng đến giá trị cổ phiếu để đầu cơ.
Hoạt động của TTCK có những yếu tố đầu cơ, nhưng cũng có những yếu tố đầu cơ bị cấm như mua bán liên tục một loại cổ phiếu nào đó nhằm làm cho giá trị của cổ phiếu tăng hay giảm để đầu cơ. Người đầu cơ mau cổ phiếu với giá cao để đẩy giá lên và đến một lúc nào đó họ bắt đầu bán ra để kiếm lời. Hiện tượng này tuy không phổ biến nhưng cũng thường xảy ra và việc phát hiện cũng không phải dễ dàng. Người ta cũng có thể giả vờ mua bán cổ phiếu nhưng không thực sự chuyển quyền sở hữu với mục đích là đẩy giá lên hoặc xuống. Bộ phận qql TTCK cũng cần phải theo dõi. Trên thực tế không cho phép sử dụng tín dụng ngân hàng để mua bán cổ phiếu, nhất là đối với các thương vụ mang tính chất đầu cơ. Sự sụp đổ của một Công ty, trong trường hợp này sẽ có ảnh hưởng đến ngân hàng cho vay và uy tín của ngân hàng cũng sẽ chịu ảnh hưởng.
- Biến động về tình hình chung của nền kinh tế.
TTCK là một công cụ để huy động vốn và cũng là nơi để hiện kim hoá cổ phiếu khi có yêu cầu. Trong tình hình kinh tế phát triển, những người đầu cơ đưa giá lên giúp cho thị trường thu hút nguồn vốn lớn. Ngược lại, trong trường hợp có suy thoái, đầu tư giảm, mua bán trên thị trường cũng có chiều hướng giảm và những người đầu cơ đưa giá xuống, có thể làm cho thị trường biến động bất thường, có khả năng dẫn đến khủng hoảng. Trong trường hợp này, vai trò của Nhà nước rất quan trọng, phải bơm tiền vào nền kinh tế để tránh mọi sự biến động lớn trong chỉ số cổ phiếu.
Rõ ràng hiểu cả hai mặt tích cực cũng như các khuyết tật của thị trường chứng khoán là một điều cần thiết cho bất cứ thành viên nào tham gia trên thị trường chứng khoán.
Từ những lý luận chung về TTCK ở trên, chúng ta tiến tới thực trạng và những giải pháp để phát triển TTCk ở Việt Nam hiện nay.
Phần II
thực trạng thị trường chứng khoán và những giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
I- Thực trạng thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
1. Thuận lợi và khó khăn trong việc hình thành TTCK ở Việt Nam.
a. Những thuận lợi.
Năm 1996 đánh dấu sự thay đổi căn bản trong đường lối đổi mới của Chính phủ nhằm chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước.
Cuộc cải cách đã và đang kéo theo hàng loạt những thay đổi tích cực tạo nên những cơ bản quan trọng, tạo tiền đề tiến tới một thị trường tài chính ở Việt Nam.
Điều hết sức quan trọng là Nhà nước đã khẳng định sự đa dạng hoá các hình thức sở hữu. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần cho phép giải phóng mọi năng lực sản xuất kinh doanh, huy động tối đa và có hiệu quả các năng lực cho công cuộc phát triển đất nước.
Trong lĩnh vực phân phối lưu thông, một thị trường hàng hoá thống nhất trong phạm vi cả nước đang ngày càng phát triển mạnh mẽ. Chính sách một giá và nới lỏng kiểm soát hối đoái đã tạo điều kiện cho hàng hoá lưu thông thuận tiện giữa các miền trong cả nước. Lãi suất tín dụng và tiết kiệm đã được ấn định trên cơ sở tương quan cung - cầu vốn trên thị trường và có tác dụng chống lạm phát. Qui luật cung - cầu và qui luật giá trị đang được phát huy tác dụng vốn có của nó.
Tiến trình cải cách đã cho ra đời hàng loạt các tổ chức tín dụng: Ngân hàng cổ phần, Công ty tài chính, hợp tác xã tín dụng bên cạnh hệ thống Ngân hàng quốc doanh đang ngày càng được hoàn thiện, cùng với sự có mặt của các ngân hàng liên doanh, ngân hàng nước ngoài trên lãnh thổ. Yếu tố này là hết sức quan trọng trong việc hình thành thị trường tài chính ở Việt Nam.
Nền kinh tế đã thay đối sắc thái, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh phát triển khá nhanh. Kinh tế hộ gia đình phát triển mạnh ở cả nông thôn và thành thị. ở nông thôn, các hộ nông dân đã được giao ruộng đất để sử dụng lâu dài và có quyền chuyển nhượng. Chính sách này đã tạo cơ sở vững chắc và động lực mới cho kinh tế nông thôn. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh trong lĩnh vực dịch vụ và có xu thế phát triển rộng trong các ngành sản xuất. Số doanh nghiệp cổ phần và liên doanh thu hút vốn của nhiều hình thức sở hữu ở trong nước và nước ngoài đã xuất hiện ngày càng nhiều. Sự ra đời của các tín phiếu, trái phiếu, cổ phiếu do một số Công ty, doanh nghiệp và Nhà nước phát hành là những dấu hiệu đầu tiên manh nha cho sự xuất hiện của các công cụ tài chính trên thị trường chứng khoán.
Đất nước đã bước đầu chương trình cổ phần hoá các doanh nghiệp quốc doanh nhằm tạo cơ sở cần thiết cho các doanh nghiệp, các Công ty trong quá trình tham gia thị trường vốn tại Việt Nam. Đây là một điều kiện hết sức quan trọng, là một trong những yếu tố cơ bản tạo tiền đề thành công cho thị trường chứng khoán.
Chúng ta đã có luật Công ty, luật Doanh nghiệp tư nhân và luật đầu tư nước ngoài đã được bổ sung, hoàn thiện, bước đầu đã có sức hấp dẫn và tạo môi trường pháp lý nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài với số lượng ngày càng lớn. Cùng với chính sách mở cửa của Chính phủ, hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước có những thành quả đáng kể. Một hệ thống kinh tế mở hoà nhập với thế giới bên ngoài đang là một yếu tố có ý nghĩa cực kỳ quan trọng.
Nền kinh tế thị trường đang thay đổi dần thói quen và nếp nghĩ của dân chúng trong việc sử dụng vốn tích luỹ của mình.
Là nước có nền kinh tế phát triển sau nên có thuận lợi là tiếp thu được khoa học tiên tiến của thế giới, có thời cơ và điều kiện để rút kinh nghiệm bổ sung những kiếm khuyết của mô hình thị trường chứng khoán các nước.
Những điều kiện thuận lợi trên đây là những tiền đề để có thể chuẩn bị ra rời một thị trường chứng khoán ở nước ta. Chính vì vậy, từ năm 1990 trong pháp lệnh ngân hàng (điều 32và điều 49) Chính phủ đã cho phép ngân hàng phối hợp với Bộ Tài chính tổ chức và thực hiện một số nghiệp vụ về thị trường chứng khoán. Tháng 8/1992, Chính phủ ra văn bản số 4396-KTĐN chỉ rõ "Để chuẩn bị việc cho ra đời thị trường chứng khoán ở Việt Nam mà hiện nay đã xuất hiện một số tiền đề , các nội dung cần thiết từ vấn đề pháp quy, tổ chức bộ máy điều hành, địa điểm triển khai và các bước triển khai".
b. Những khó khăn.
Nền kinh tế chưa thật sự ổn định; hiệu quả của nền kinh tế còn thấp, tỷ lệ tích luỹ đầu tư còn nhỏ. Năng suất lao động thấp, chất lượng của nhiều sản phẩm còn kém sức cạnh tranh, thị trường tiêu thụ còn hẹp. Ngân sách còn thâm hụt lớn, lưu thông tiền tệ chưa thông suốt. Trình độ quản lý yếu kém, nhiều sơ hở... Chưa đẩy lùi được tệ tham nhũng, buôn lậu, kinh doanh gian dối...
Về môi trường pháp lý: hệ thống pháp luật của chúng ta những năm qua tuy đã được củng cố, bổ sung nhưng thực sự đang còn rất yếu,chưa đồng bộ và kém hiệu lực.
Đặc biệt chúng ta chưa có những bộ luật liên quan đến sự ra đời và hoạt động của thị trường chứng khoán như: Luật dân sự, luật thương mại, luật đầu tư trong nước, luật chứng khoán và một số bộ luật đã có nhưng chưa hoàn chỉnh cần được sửa đổi, bổ sung... Nghiêm trọng hơn nữa là việc chấp hành những luật đã có không nghiêm minh, nên đã kéo theo nhiều hậu quả tiêu cực làm giảm sút lòng tin.
Đây là một khó khăn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng dẫn đến sự thành công hay thất bại của thị trường chứng khoán.
Quá trình sắp xếp, chấn chỉnh lại khu vực kinh tế quốc doanh còn chậma, hiệu quả thấp. Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh mới được đổi mới bước đầu, chưa phát huy được năng lực sản xuất tiềm tàng vốn có của nó.
Quá trình tư nhân hoá (cổ phần hoá doanh nghiệp) là một cuộc đổi mới về chiều sâu trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường nhưng triển khai rất chậm và hiệu quả rất thấp do thiếu vốn trong nước và sự không rõ ràng trong cơ cấu sở hữu. Đây là một trong những trở ngại lớn nhất cho việc hình thành và hoạt động của thị trường vốn bởi quá trình tư nhân hoá sẽ cho ra đời những doanh nghiệp, Công ty có đủ điều kiện và tư cách tham gia trong thị trường chứng khoán.
Một yếu tố quan trọng để thành công trong thị trường chứng khoán phải kể đến là lòng tin của dân chúng - điều này ở đất nước chúng ta còn hết sức khó khăn bởi dân chúng chưa quen với hoạt động kinh tế thị trường, và còn bị ám ảnh bởi sư âm của sự đổ vỡ của các trung tâm tín dụng trước đây và sự thiếu ổn định của nền kinh tế đất nước.
Đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý của chúng ta còn thiếu những kiến thức cơ bản về thị trường chứng khoán.
Chúng ta chưa có một hệ thống kế toán hoàn chỉnh theo tiêu chuẩn quốc tế. Bên cạnh đó công tác kiểm toán đối với chúng ta còn mới mẻ, số lườn các Công ty kiểm toán còn ít. Điều đó gây khó khăn cho việc đánh giá tình hình tài chính của các doanh nghiệp.
2. Sự cần thiết phải phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Như chúng ta đã biết, thị trường chứng khoán là một trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn tiết kiệm cho đầu tư của toàn xã hội. Về mặt lịch sử, đã có một hình thức thu nhận và phân phối các nguồn vốn ra đời trước TTCK,đó là hệ thống ngân hàng với các dịch vụ giao lưu vốn. Tuy rằng, việc huy động và giao lưu vốn qua hệ thống ngân hàng chứa đựng nhiều hạn chế mà tự nó không thể khắc phục được. Cụ thể là:
- Giá cả của vốn (lãi suất) cũng như các quan hệ tín dụng trong quá trình giao lưu qua hệ thống ngân hàng đều do ngân hàng độc quyền quyết định.
- Giao lưu vốn qua hệ thống ngân hàng làm tách rời người có vốn và người sử dụng vốn.
Ngân hàng có thể khắc phục, bằng cách tham gia TTCK vì thế quan trọng hơn.
Những ưu thế của thị trường chứng khoán.
- Thứ nhất, việc giao lưu vốn thông qua mua bán chứng khoán sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho quá trình huy động và cung cấp vốn, phá thế độc quyền của các tổ chức tín dụng, tài chính.
- Thứ hai, TTCK làm đa dạng hoá các hình thức đầu tư tạo cho người có vốn những cơ hội và khả năng rộng rãi thành đạt trong kinh doanh thông qua việc mua bán chứng khoán thay đổi chủ sở hữu vốn ở các Công ty tạo ra cách thức kinh doanh mới.
- Thứ ba, TTCK là nơi tạo điều kiện để các cổ đông có thể rút khỏi Công ty, bằng cách bán các cổ phiếu của mình cho người khác trên TTCK.
- Thứ tư, TTCK là hình thức xã hội hoá đầu tư cao và tiện lợi cho mọi người, mặt khác thông qua thị giá cổ phiếu thực hiện kiểm soát xã hội các hoạt động của các Công ty và của nền kinh tế, thúc đẩy các Công ty cổ phần phát triển và cạnh tranh, đồng thời cứu vãn sự sụp đổ của nhiều Công ty.
Thực tế ở Việt Nam, nhu cầu vốn đầu tư rất lớn, vậy mà hiện nay lại đang tồn tại một nghịch lý là: Các tổ chức kinh tế thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh nhưng trong dân cư và cả trong một số xí nghiệp, ngân hàng thương mại vốn không được giải phóng bị tồn đọng rất lớn. Thói quen của người sử dụng vốn vẫn là cần vốn ngân sách, vốn tín dụng ưu đãi. Các ngân hàng chuyển sang kinh doanh mang tâm lý thắt chặt tín dụng chưa hạ được lãi suất đến mức thấp hơn nữa, trong dân cư chưa dám đầu tư trực tiếp vào các Công ty mà cất trữ tiền dạng gửi tiền tiết kiệm, mua bất động sản và tiêu dùng. Xã hội cần các kênh giải ngân mà chúng ta chưa có. TTCK là một hướng khả dĩ để tích tụ, tập trung vốn đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Có nhà kinh tế nói rằng thị trường chứng khoán có thể tạo ra các Công ty cổ phần mà cổ đông là những bà nội trợ tiết kiệm đồng tiền đi chợ.
Một số thuận lợi khi thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam:
Thứ nhất, trong nền kinh tế Việt Nam đã tồn tại một số loại chứng khoán ngắn hạn và dài hạn như cổ phiếu, trái phiếu của các cạnh tranh cổ phần, ngân hàng cổ phần, ngân hàng thương mại cổ phần, công trái quốc gia, giấy ghi nợ ngắn hạn (sổ tiết kiệm, kỳ phiếu có mục đích của ngân hàng), tín phiếu kho bạc ngắn hạn và dài hạn... các loại chứng khoán đó được bán ngay trong cơ quan phát hành ra nó với giá là số tiền (giá trị danh nghĩa) ghi trên từng loại chứng khoán. Những chứng khoán này đã được lưu thông: chuyển nhượng, mua bán, tặng, cầm cố, thế chấp, thanh toán hàng hoá, thậm chí xuất hiện cả người đầu cơ.
Thứ hai, hoạt động của hệ thống ngân hàng đang từng bước phát triển và hoàn thiện, ứng dụng được những công nghệ tiên tiến của thế giới về các nghiệp vụ truyền thống, nghiệp vụ mới.
Thứ ba, TTCK đã có hàng thế kỳ nay, những kinh nghiệm về tổ chức, quản lý hoạt động của TTCK cũng đã được đúc kết. Đó là tài sản vô giá của cả nhân loại. Nó giúp Việt Nam bỏ qua giai đoạn nghiên cứu, mò mẫm, tìm hiểu để chuyển qua giai đoạn nghiên cứu ứng dụng, chọn những mô hìnhvà bước đi thích hợp nhất với hoàn cảnh của mình. Chính phủ Việt Nam rất chú trọng, đã giao cho một số cơ quan nghiên cứu vấn đề này, thành lập uỷ ban chứng khoán quốc gia.
II- Các giải pháp để phát triển thị trường chứng khoán ở Việt Nam hiện nay.
1. Vai trò, tác dụng và yêu cầu khách quan của việc hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Đã có nhiều tác giả bàn về vai trò, tác dụng và yêu cầu khách quan của việc hình thành thị trường chứng khoán tại Việt Nam , khi nền kinh tế đã và đang vận động theo cơ chế thị trường. Trong bài viết này chúng em muốn bàn đến ba vấn đề thực tiễn nhất của thị trường này, đó là các vấn đề: Cái gì, Cho ai và những điều kiện cơ bản để thị trường chứng khoán ở Việt Nam ra đời.
Trước hết về câu hỏi "Cái gì?" - thực chất đó là vấn đề "hàng hoá" của thị trường chứng khoán là những gì?
Trong mọi trường hợp, khi nói đến thị trường thì bao giờ người ta cũng phải bàn đến vấn đề đầu tiên là thị trường bán cái gì.
Chừng nào không chỉ người bán, mà cả người mua cũng chưa bức bách bởi nhu cầu không thể không bán, cũng như không thể không mua thứ hàng hoá đặc biệt trên thị trường này, thì chừng ấy lý thuyết về thị trường chứng khoán vẫn chưa được mở ra, và nó chưa phát huy tác dụng. Vậy thị trường chứng khoán bán gì? Có thể nói ngay: nó bán các cổ phiếu, trái phiếu Công ty; các chứng chỉ tiền gửi dài hạn; các khế ước cầm cố tài sản... Thực chất hàng hoá trên thị trường chứng khoán là việc bán và mua những "niềm tin". Hình thức của các hàng hoá ở đây là những loại giấy tờ mang nội dung cam kết về hùn vốn hay những cam kết về vay và nợ, kèm theo một niềm tin về món thu nhập lợi nhuận ước tính hoặc món lãi suất ưu đãi nào đó đủ để hấp dẫn cả hai bên mua và bán trên thị trường chứng khoán. Vấn đề không thể úp mở là: bản thân những hàng hoá trên thị trường chứng khoán là sự hiện diện "bóng" của tư bản. Đã là tư bản thì mục đích sâu xa và bản chất của nó là lợi nhuận, là khả năng sinh lời của những đồng vốn kinh doanh trong thị trường này. ở những nước tư bản phát triển, trên thị trường chứng khoán của họ "hàng hoá" chiếm tỷ trọng lớn nhất là cổ phiếu Công ty. "Hàng hoá" này chiếm tới trên dưới 70% tổng giá trị luân chuyển của thị trường chứng khoán. Phần đông những người mua cổ phiếu này là các chủ sở hữu vô danh về Công ty, nhưng hữu danh về số tư bản mà họ đã "ném" vào thị trường. Do đó, uy tín Công ty, luật kinh doanh Nhà nước và tính ổn định của tiền tệ quốc gia.... là những điều kiện bên trong quyết định niềm tin của những khách hàng trên thị trường chứng khoán.Vì thế sẽ là vô nghĩa nếu bàn đến thị trường chứng khoán lại không bàn đến những người mua mà chỉ bàn đến những người phát hành " hàng hoá" - giấy tờ có giá.
Thị trường chứng khoán bán các "giấy tờ" cam kết nợ, hay cam kết lợi nhuận, hoặc cam kết lãi suất... cho ai? Có thể trả lời ngay là cho những chủ sở hữu vốn đầu tư tương lai nằm rải rác khắp mọi nơi trong các tầng lớp dân cư trong nước, kiều bào nước ngoài và cả những tổ chức hay công dân nước ngoài. Bản thân những khách hàng này, tự họ không đủ sức để biến tiền tệ tạm thời nhàn rỗi của mình thành tư bản; hoặc họ thích thị trường chứng khoán của ta hơn, vì có nhiều sức hấp dẫn hơn. Họ sẵn sàng đầu tư vốn mua cổ phiếu, trái phiếu hay cầm cố.. do các chủ kinh doanh đủ uy tín và được Nhà nước bảo lãnh theo luật để phát hành ra các loại "hàng hoá" nói trên bán cho khách hàng của mình. Đặc trưng của cơ chế thị trường là các quan hệ lợi nhuận và cùng có lợi. Do vậy, sức hấp dẫn tư bản đối với người mua là đối tượng và nguyên nhân hấp dẫn đối với "óc thẩm mỹ kinh doanh" của người bán. Trên thị trường này, đối với người bán thì đầu tiên mới chỉ là "bán danh nghĩa"; "bán niềm tin"... còn đối với người mua thì bản thân hành động mua, ngay từ đầu họ đã "quẳng" tiền vào kinh doanh rồi. Riêng ở Việt Nam, đa số những người mua chưa có thói quen "quẳng tiền" vào thị trường này mặc dù về phương diện lý thuyết họ cũng hiểu rằng giá cả của hành động nói trên được đo bằng một lợi nhuận ước tính, hoặc một lãi suất ưu đãi nào đó. Chính đặc điểm này mà không phải ngay lập tức muốn có thị trường chứng khoán ra đời là nó sẽ ra đời ngay, mà vấn đề xem ra cấp bách nhất lại là ở chỗ xác định và tạo ra những điều kiện vật chất cho sự ra đời của thị trường này ở Việt Nam như thế nào?
Vậy điều kiện để thị trường chứng khoán ra đời ở Việt Nam là gì? Thói quen bao giờ cũng được hình thành thông qua một quá trình. Quá trình đó ngắn hay dài, một phần lớn phụ thuộc vào hoàn cảnh kinh tế xã hội cụ thể cùng với trình độ nhận biết của các bên tham gia thị trường. Nếu phải viết đôi lời về điều kiện để ra đời một thị trường thì thật là đơn giản. Thị trường chỉ ra đời khi nhu cầu về một loại hàng hoá nào đó đã trở thành thúc bách đối với nhiều ngươì mua tiềm tàng trong xã hội, còn người bán thì đã nắm bắt được tín hiệu đó và đã có những "lô" hàng hoá sẵn sáng bán thăm dò ... Đó là nói về điều kiện cho thị trường hàng hoá nói chung. Còn với thị trường chứng khoán thì khác. ở Việt Nam với một đất nước mà tư tưởng tiểu nông, sản xuất nhỏ và ăn chắc đã từng ngự trị suốt chiều dài lịch sử, nay dù nền kinh tế không thể tiếp tục vận hành theo cơ chế cũ; dù các cuộc cải cách kinh tế theo ngành , theo lĩnh vực từ sau Đại hội 6 của Đảng đã lần lượt chứng tỏ tính ưu việt của nó trong cuộc sống, và mặc dù 80% dân số sống ở nông thôn đã chứng kiến một điều đó trên thực tế. Song việc họ sẽ bỏ tiền ra mua những giấy chứng chỉ có giá, dù với hy vọng sau một thời gian nhất định sẽ thu được lợi nhuận hay lãi suất so với số tiền bỏ ra hôm nay thì vẫn không phải là vấn đề hấp dẫn ngay trong nay mai. Với đông đảo số khách hàng kể trên thì cái gọi là "lý thuyết về thị trường chứng khoán" không phải là vấn đề quan trọng nhất, mà quan trọng nhất là số những tấm gương giàu lên chỉ vì tham gia thị trường này là bao nhiêu so với số những người đã gặp rủi ro chỉ vì dám đặt chân vào "vùng kinh tế" lạ lùng ấy!
Chính lý lẽ nói trên mà việc hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam trong buổi bình minh của nó theo em cần phải có những điều kiện căn bản sau:
Một là, thị trường chứng khoán ở Việt Nam phải được hình thành bắt đầu từ "điểm" đến "diện" nghĩa là phải định hướng một số ngành, một số lĩnh vực được tính toán rất chắc chắn về khả năng sinh lãi nếu các dự án ở đó được đầu tư thực hiện. Trong các ngành, các lĩnh vực ấy, Nhà nước tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp gồm những người đã có đề án khả thi, đã đủ kiến thức về phát hành và đủ năng lực trách nhiệm về những loại tín phiếu phát ra gọi vốn trên thị trường chứng khoán.
Hai là, Nhà nước cần xúc tiến chỉ đạo việc soạn thảo và trình Quốc hội về dự luật tín phiếu. Trong đó sẽ bao gồm những chương, những điều cụ thể nói về các quan hệ, các "ngưỡng" khống chế giữa các bên tham gia thị trường chứng khoán, với những hình thức hàng hoá khác nhau như: cổ phiếu, trái phiếu, cầm cố... ở các nước tư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35002.doc