A. LỜI MỞ ĐẦU 3
B. PHẦN NỘI DUNG 5
Chương I: Vai trò của nhà nước trong quản lí môi trường nước
ở đô thị
1.QLNN về môi trường nước ở đô thị 5
1.1.Quản lí môi trường nước ở đô thị 5
1.2.Quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị 6
1.3.Chức năng, nội dung của QLNN về môi trường nước ở đô thị 6
2.Những công cụ quản lí môi trường nước ở đô thị 8
2.1.Công cụ kinh tế 8
2.2.Công cụ pháp lí 13
2.3.Công cụ kĩ thuật 17
2.4.Công cụ giáo dục và truyền thông 21
3.Tính tất yếu khách quan của QLNN về môi trường nước ở đô thị 23
ChươngII:Thực trạng môi trường nước ở đô thị & nguyên nhân
1.Thực trạng 26
1.1.Cấp nước 26
1.2.Úng ngập đô thị 28
1.3.Nước thải 30
2.Nguyên nhân 31
2.1.Nguyên nhân ô nhiễm từ nguồn nước thải 31
2.2.Nguyên nhân tình trạng úng ngập 34
ChươngIII: Giải pháp của nhà nước trong QLMT nước ở đô thị
1.Sử dụng các công cụ quản lí vào quản lí môi trường nước ở đô thị 36
1.1.Sử dụng công cụ pháp lí 36
1.2.Sử dụng công cụ kĩ thuật trong quản lí môi trường nước 36
1.3.Sử dụng công cụ kinh tế 37
1.4.Sử dụng công cụ giáo dục và truyền thông 38
2.Kiến nghị với cơ quan nhà nước 39
2.1.Về vấn đề xử lí nước thải ở đô thị 39
2.2.Về vấn đề giải quyết úng ngập 40
2.3.Về vấn đề cung cấp nước sạch 40
2.4. Về vấn đề xử lý vi phạm nguồn nước ở đô thị 40
C. PHẦN KẾT LUẬN 42
D.DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 43
44 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 4086 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ức năng nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan Bộ, Sở tài nguyên và môi trường .
Hệ thống văn bản pháp luật về quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội trong bảo vệ môi trường nước ở đô thị và phát triển tài nguyên. Đây là công cụ hay biện pháp mang tính pháp lí do Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động phát triển của cá nhân, doanh nghiệp, cộng đồng, các ngành ,các cấp, các địa phương sao cho phù hợp với mục đích bảo vệ môi trường nước ở đô thị, đảm bảo cân bằng sinh thái, thông qua hàng loạt các văn bản pháp quy đối với việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, tức là thực thi các biện pháp bắt buộc hoặc cưỡng chế đối với người gây ô nhiễm phải huỷ bỏ hay hạn chế bớt một số hoạt động gây tổn thất cho môi trường nước ở đô thị.
Một trong những công cụ pháp lí quan trọng trong quản lí môi trường nước mặt là xây dựng, ban hành các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường nước.
Ở Mỹ và một số nước phát triển từ lâu đã thực hiện quy định : tất cả các cơ sở sản xuất công nghiệp cần phải có giấy phép xả thải vào hệ thống thoát nước chung của đô thị hoặc đổ thải vào nguồn nước mặt. Các giấy phép xả thải được cấp cho từng thời kì 5 năm và sau đó phải xin gia hạn hoặc cấp giấy phép mới mới được tiếp tục xả thải. Những cơ sở sản xuất xả nước thải thực hiện ghi chép lưu trữ hồ sơ và tiến hành tự quan trắc giám sát nước thải của mình. Ở Anh, giấy phép xả thải được cấp hai năm một lần, trong giấy phép xả thải thường quy định rõ lượng nước thải tối đa cho phép và các giới hạn đối với chỉ tiêu: BOD, COD, độ pH, nhiệt độ và một số kim loại nặng. Các cơ quan quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị định kì đến kiểm tra các cơ sở đổ thải nước, nếu phát hiện các cơ sở không tuân thủ tiêu chuẩn môi trường nước ở đô thị và các quy định trong giấy phép thì thực hiện ngay các biện pháp tương ứng như cảnh cáo, xử phạt, thu hồi giấy phép, bắt cơ sở tạm ngừng sản xuất, thậm chí là đóng cửa nhà máy. Mức độ xử phạt đến 400 USD đến 20,000 USD. Thực tế ở nhiều nước phát triển chứng tỏ sử dụng hiệu quả công cụ pháp lí này trong quản lí môi trường nước.
Tuỳ theo tình hình cụ thể ở mỗi địa phương mà bổ sung thêm hoặc chi tiết hoá các quy định và tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường nước. Trong nhiều trường hợp giải quyết các vấn đề ô nhiễm môi trường các dòng sông, các thuỷ vực cần có sự phối hợp giữa các địa phương với nhau, giữa các tỉnh, thành trong cùng khu vực, các địa phương ở đầu nguồn nước( thượng lưu) phải có trách nhiệm đối với bảo vệ môi trường nước ở hạ lưu.
2.2.3.Về chính sách
Chính sách bảo vệ môi trường nước ở đô thị là công cụ chỉ đạo toàn bộ hoạt động bảo vệ môi trường nước ở đô thị trên một phạm vi lãnh thổ rộng lớn như một vùng hay một quốc gia trong thời gian dài (10 – 15 năm trở lên). Chính sách phải nêu lên mục tiêu và định hướng lớn để thực hiện mục tiêu. Chính sách đó phải hợp lí, có cơ sở vững chắc về khoa học và thực tiễn. Phải có chiến lược để cụ thể hoá chính sách ở một mức độ nhất định, chọn các mục tiêu khả thi, xác định các phương hướng biện pháp thực hiện các mục tiêu đề ra.
Đây vừa là nhiệm vụ quan trọng vừa là công cụ trong quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị. Vì vậy, Đảng và nhà nước ta đã đề ra chính sách bảo vệ môi trường nước ở đô thị gắn liền với chính sách phát triển kinh tế - xã hội, trên cơ sở đó, Chính phủ đã xây dựng chiến lược bảo vệ môi trường nước quốc gia theo từng giai đoạn phát triển của đất nước. Trên cơ sở chiến lược bảo vệ môi trường, các cơ quan quản lí nhà nước về tài nguyên và môi trường nước ở đô thị tiến hành nhiệm vụ cụ thể sau đây:
2.2.4.Xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường nước ở đô thị
Nhà nước thực hiện chính sách xã hội hoá bảo vệ môi trường nước ở đô thị bằng pháp luật và các văn bản pháp lý, để huy động cộng đồng tham gia vào các hoạt động quản lí môi trường các cấp, vào việc ra quyết định của các cơ quan nhà nước bằng các phong trào quần chúng như phong trào tự quản vệ sinh - môi trường, phân loại phế thải tại nguồn, làng sinh thái, làng văn hoá, thông tin môi trường nước ở đô thị cho cộng đồng…theo hướng thân thiện với môi trường nước ở đô thị. Đầu tư bảo vệ môi trường nước ở đô thị phải được đa dạng hoá về hình thức và nguồn vốn nhằm huy động được mọi nguồn lực trong xã hội. Hình thức đầu tư bao gồm đầu tư bằng trí lực, vật lực, ngày công lao động hữu ích và bằng tiền. Đây là công cụ được nghiên cứu áp dụng rộng rãi do được đánh giá là có hiệu quả vì nó huy động nhiều nguồn lực cho quản lí và bảo vệ môi trường nước ở đô thị.
2.3.Công cụ kĩ thuật quản lí môi trường nước ở đô thị
Các công cụ kỹ thuật quản lí môi trường nước ở đô thị thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát Nhà nước về chất lượng và thành phần môi trường nước ở đô thị, về sự hình thành và phân bố chất ô nhiễm trong môi trường nước ở đô thị .
Công cụ kĩ thuật có thể bao gồm các đánh giá môi trường nước ở đô thị, kiểm toán môi trường nước ở đô thị, các hệ thống quan trắc môi trường , xử lí chất thải, tái chế và tái sử dụng chất thải. Các công cụ kĩ thuật được coi là những công cụ hành động quan trọng của các tổ chức trong công tác bảo vệ môi trường nước ở đô thị .
Thông qua việc thực hiện các công cụ kĩ thuật, các cơ quan chức năng có thể có những thông tin đầy đủ, chính xác về hiện trạng và diễn biến chất lượng môi trường nước ở đô thị, đồng thời có những biện pháp, giải pháp phù hợp để xử lí, hạn chế những tác động tiêu cực đối với môi trường nước ở đô thị
Các công cụ kĩ thuật cũng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ tuân thủ các tiêu chuẩn, quy định về bảo vệ môi trường nước ở đô thị.
Đây là công cụ thực hiện vai trò kiểm soát và giám sát nhà nước về sự hình thành và phân bố ô nhiễm. Công cụ kĩ thuật quản lí bao gồm các biện pháp chính sau đây:
Thứ nhất, tăng cường thu thập thông tin giữ liệu môi trường nước :
Công cụ bao gồm hệ thống quan sát, đo đạc, các thông số kĩ thuật về môi trường nước, tạo nên cơ sở dữ liệu thống nhất quốc gia. Các công cụ này có vai trò quyết định tính đúng đắn, độ chính xác của việc đánh giá hiện trạng, dự báo diễn biến môi trường nước trong tương lai
Thứ hai, tổ chức bộ máy quản lí: Quản lí nguồn nước ở đô thị được tổ chức kết hợp theo ngành và lãnh thổ, cụ thể là:
Ở Trung ương có Bộ Tài nguyên và Môi trường bao quát quan hệ vĩ mô về môi trường nước, thực hiện các hoạt động điều chỉnh trong cả nước.
Bộ Tài chính, với tư cách là chủ sở hữu, đại diện cho nhà nước quản lí nguồn tài nguyên nước
Bộ Kế hoạch và đầu tư làm tham mưu cho nhà nước trong việc huy động, sử dụng tài nguyên môi trường nước hợp lí, phù hợp với quá trình xây dựng đất nước, cũng như tư vấn trong việc giao trọng trách khai thác đúng đối tượng.
Các Bộ kinh tế như Bộ công nghiệp, xây dựng …được nhà nước giao trách nhiệm quản lí các doanh nhân, các học giả được phép hay thuê mướn các hoạt động tìm kiếm, thăm dò, khai thác tài nguyên nước phải tuân thủ pháp luật, các điều khoản hợp đồng mà họ đã cam kết với nhà nước.
Ở mỗi địa phương, các khu đô thị lớn đều có cơ quan quản lí tương ứng làm chức năng quản lí nhà nước về môi trường
Lực lượng bảo vệ môi trường nước, trực tiếp làm sạch môi trường nước rộng khắp và quan trọng là nhân dân, đựơc chính quyền cơ sở tổ chức, chỉ đạo. Đồng thời, trong các cơ quan nhà nước, các doanh nghiệp và các tổ chức công dân đều có lực lượng làm nhiệm vụ vệ sinh môi trường nước công sở, cơ quan.
Thứ ba, nghiên cứu và triển khai khoa học kĩ thuật:
Trước tiên là phát triển hệ thống thoát nước và hệ thống xử lí nước thải đô thị và công nghiệp đầy đủ và phù hợp:
Tách hệ thống thoát nước mưa và hệ thống thoát nước bẩn thành hai hệ thống riêng. Xây dựng các trạm xử lí nước thải sinh hoạt đô thị tập trung cho từng khu vực. Tất cả các nhà máy, xí nghiệp, bệnh viện, khách sạn, các cơ sở dịch vụ có lượng nước thải lớn đều phải có trạm xử lí nước thỉ đảm bảo tiêu chuẩn môi trường mới được thải ra hệ thống thoát nước chung.
Trong phát triển đô thị phải dành đất để xây dựng các trạm xử lí nước đô thị tập trung. Luôn luôn quan tâm bảo vệ an toàn hệ thống thoát nước đô thị, vì trong quá trình phát triển đô thị, hệ thống thoát nước đô thị bị lấn chiếm và hư hỏng, như san lấp hai bên bờ để mở rộng đất ở, mở rộng đường, sân bãi xây dựng nhà cửa đè lên hệ thống thoát nước, làm nứt gãy hệ thống thoát nước, đổ chất thải xây dựng vào kênh mương làm tắc nghẽn dòng chảy.
Thứ tư, phổ biến kinh nghiệm chọn lựa công nghệ xử lí nước thải đô thị thích hợp Quản lí môi trường – NGUYỄN ĐỨC HIỂN-NXB LĐ-XÃ HộI.tr 278
:
Tuỳ theo tính chất ô nhiễm và khối lượng nước thải khác nhau mà cần lựa chọn các công nghệ thích hợp. Thông thường, hệ thống công nghệ và xử lí nước thải bao gồm kĩ thuật xử lí bậc 1, bậc 2 và bậc 3, trong một số trường hợp cần đến kĩ thuật xử lí bậc 4. Xử lý bậc 1 và bậc 2( xử lí cơ học và sinh học) chủ yếu là tập trung vào việc làm giảm cặn, vi khuẩn và kử các chất hữu cơ dễ phân huỷ. Xử lí bậc 3 thường là bước xử lí hoá học để khử photpho. Trong một số trường hợp cần đến xử lí bậc 4 là bước tinh lọc - để giảm thiểu triệt để các chất ô nhiễm dinh dưỡng trước khi nước chảy vào nguồn nước mặt. Xử lí hoá học để khử photpho (bậc3) nên được áp dụng ở các khu đô thị lớn, phương pháp này bổ sung cùng với phương pháp xử lí cơ học và sinh học.
Thứ năm, cần phải có biện pháp ngăn chặn để các cơ sở công nghiệp không thải ra các chất nguy hiểm, có thể làm ảnh hưởng đến tới quá trình xử lí nước thải ở các trạm xử lí nước thải tập trung của thành phố. Các biện pháp phòng ngừa trong việc này cụ thể :
Phải thực hiện quá trình tiền xử lí ở các cơ sở công nghiệp trước khi đưa nước thải về trạm xử lí nước tập trung là một cách tiếp cận theo cách chi phí hiệu quả.
Biểu thuế xử lí theo thang đối chiếu thuế dựa vào cường độ liên quan của chất thải được đưa vào hệ thống thải thành phố - là cách tiếp cận khuyến khích tiền xử lí.
Hạn chế sử dụng các hoá chất gây ô nhiễm môi trường trong quá trình sản xuất công nghiệp và sinh hoạt đô thị
Thứ sáu, thanh tra và giám sát môi trường nước :
Việc thanh tra, giám sát phải diễn ra thường xuyên và trung thực. Đoàn thanh tra có quyền:
Yêu cầu các tổ chức, các nhân có liên quan cung cấp tài liệu và trả lời những vấn đề cần thiết
Tiến hành các biện pháp kiểm tra kĩ thuật thực tế tại các doanh nghiệp và nguồn nước thải bệnh viện…
Quyết định tạm đình chỉ các cơ sở sản xuất và trường hợp làm ô nhiễm môi trường nước quá lớn
Xử lí theo thẩm quyền hoặc kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử lí các vi phạm về môi trường nước.
2. 4.Công cụ giáo dục và truyền thông môi trường nước ở đô thị Giáo trình kinh tế và quản lí môi trường – NXB Thống kê- PGS.TS Nguyễn Thế Chinh. Tr 439.
Giáo dục môi trường nước ở đô thị là một quá trình thông qua các hoạt động giáo dục chính quy và không chính quy nhằm giúp con người có được sự hiểu biết, kĩ năng và giá trị, tạo điều kiện cho họ tham gia vào phát triển một xã hội bền vững về sinh thái.
Mục đích của giáo dục môi trường nước ở đô thị là nhằm vận dụng những kiến thức và kĩ năng vào giữ gìn, bảo tồn và sử dụng môi trường nước ở đô thị theo cách bền vững cho cả thế hệ hiện tại và tương lai. Giáo dục môi trường nước ở đô thị cũng bao hàm cả việc học tập cách sử dụng những công nghệ mới nhằm tăng sản lượng kinh tế và tránh những thảm hoạ môi trường nước. Hơn nữa, giáo dục môi trường bao hàm cả việc đạt được những kĩ năng, có những kỹ năng, có những động cơ và cam kết hành động, dù với tư cách cá nhân hay tập thể, để giải quyết những vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện tại và phòng ngừa những vấn đề mới nảy sinh.
Giáo dục môi trường nước ở đô thị bao gồm, những nội dung chủ yếu :
- Đưa giáo dục môi trường nước ở đô thị vào trường học
- Cung cấp thông tin cho những người có quyền ra quyết định
- Đào tạo chuyên gia về môi trường nước ở đô thị.
Truyền thông môi trường nước ở đô thị là một quá trình tương tác xã hội hai chiều nhằm giúp cho những người có liên quan hiểu được các yếu tố môi trường nước ở đô thị then chốt, mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng và cách tác động vào vấn đề có liên quan một cách thích hợp để giải quyết các vấn đề về môi trường nước ở đô thị.
Thông tin cho người bị tác động bởi các vấn đề môi trường nước biết tình trạng của họ, từ đó giúp họ quan tâm đến việc tìm kiếm cá giải pháp khắc phục.
Huy động các kinh nghiệm, kỹ năng, bí quyết của những người sống ở đô thị tham gia vào các chương trình liên quan đến bảo vệ nguồn nước.
Thương lượng hoà giải các xung đột, khiếu nại, tranh chấp về môi trường nước ở đô thị nước giữa các cơ quan và trong nhân dân.
Tạo cơ hội cho mọi thành phần trong xã hội tham gia bảo vệ môi trường nước ở đô thị, xã hội hoá công tác bảo vệ môi trường nước
Khả năng thay đổi các hành vi sẽ được hữu hiệu hơn thông qua đối thoại thường xuyên trong xã hội.
Truyền thông về môi trường nước ở đô thị có thể thực hiện thông qua các phương thức chủ yếu sau:
Chuyển thông tin tới từng cá nhân qua việc tiếp xúc tại nhà, tại cơ quan, gọi điện thoại, gửi thư.
Chuyển thông tin tới các nhóm thông qua hội thảo tập trung, huấn luyện, họp nhóm, tham quan khảo sát.
Chuyển thông tin tới các phương tiện truyền thông đại chúng : báo chí, ti vi, radio, pano, áp phích, tờ rơi, phim ảnh…
Thực hiện giáo dục về môi trường nước ở đô thị để vấn đề bảo vệ môi trường nước trở thành trách nhiệm của tất cả mọi người. Có những biện pháp khuyến khích những cá nhân, tập thể, doanh nghiệp…có những việc làm tốt, có sáng kiến trong giữ gìn bảo vệ môi trường nước ở đô thị bằng việc tuyên dương, khen thưởng hoặc tổ chức thăm quan, học tập và nhân rộng các mô hình tiên tiến về quản lí và bảo vệ môi trường nước
Phát triển đào tạo đội ngũ chuyên gia trong lĩnh vực quản lí môi trường nước ở đô thị thông qua đào tạo chuyên nghiệp về các vấn đề môi trường cấp bách: đội ngũ kiểm tra tiêu chuẩn nguồn nước, chuyên gia tư vấn xử lí nước thải, kĩ sư thiết kế công trình xử lí nước thải, cán bộ kiểm tra có phẩm chất và kĩ năng…
Tăng cường cảnh báo về vấn đề nguy hại của môi trường nước, kêu gọi toàn dân tham gia các chương trình hành động như: chương trình thi viết về các giải pháp bảo vệ môi trường nước ở đô thị…
3.Tính tất yếu khách quan của quản lí nhà nước về môi trường nước ở đô thị Giáo trình quản lí môi trường bằng công cụ kinh tế - NXB Lao động- Trần Thanh Lâm. Tr 22
Mọi quốc gia trên thế giới đều phải thực hiện sự quản lý nhà nước về môi trường nước vì các lí do sau:
Thứ nhất, tầm quan trọng của tài nguyên nước vì nó là yếu tố của môi trường. Con người và các thực thể sống trên trái đất không thể thiếu nguồn nước, đối với con người nguồn nước sạch để phục vụ ăn uống và sinh hoạt hàng ngày là vô cùng cần thiết. Như vậy môi trường nước càng trở nên quan trọng hơn ở các khu đô thị , nơi dân cư đông đúc và nhiều cơ sở sản xuất.
Thứ hai, bảo vệ tài nguyên và môi trường nước ở đô thị là sự nghiệp toàn dân, nhất là dân sinh sống ở đô thị và lâu dài, đòi hỏi sự tham gia đồng bộ của nhiều ngành, mọi địa phương và nhiều thế hệ nối tiếp nhau. Để có sự đồng bộ đó thì chỉ có nhà nước mới có khả năng tổ chức, quản lý các hoạt động đó.
Thứ ba, với tài nguyên nước, việc bảo vệ nó không chỉ cần thống nhất hành động của cả một quốc gia mà còn cần hành động của cả khu vực toàn cầu. Vì vậy, chỉ có nhà nước nhân danh cộng đồng , quốc gia mới có thể tham gia vào các hoạt động chung của khu vực hay toàn cầu để thực hiện các chương trình phối hợp chung nhằm bảo vệ nguồn nước chung.
Thứ tư, do chất lượng môi trường nước ở đô thị nước có thể bị “ ngoại ứng”, đó là sự tác động các lợi ích và chi phí nằm ngoài thị trường (Thí dụ như nước thải của một nhà máy vào một con sông làm nó bị ô nhiễm, không sử dụng nước của con sông vào mục đích khác được. Đây là ngoại ứng tiêu cực, vì thiệt hại do ô nhiễm nước sông xã hội phải gánh chịu ). Các vấn đề về môi trường nước ở đô thị có thể được xem xét như các vấn đề của ngoại ứng, nghĩa là các vấn đề không được đề cập đến trong thị trường giao dịch. Ngoại ứng được xem là các hàng hoá không có chủ sở hữu xác định.
Thứ năm, do chất lượng môi trường nước là hàng hoá công cộng nên một số người có thể tiêu dùng mà không ảnh hưởng đến số lượng vốn có của chúng đối với những người khác và không thể loại trừ ai ra khỏi việc tiêu dùng chúng, trừ khi họ phải trả giá rất cao.
Khi tồn tại ngoại ứng và hàng hoá công cộng, giá cả của sản phẩm không phản ánh đúng giá trị xã hội của nó. Vì thế các doanh nghiệp có thể sản xuất quá nhiều hoặc quá ít, do đó kết quả của thị trường là không hiệu quả và tác động xấu đến tài nguyên nước và môi trường nước ở đô thị (sử dụng lãng phí tài nguyên, gây ô nhiễm môi trường nước ở đô thị ). Vì vậy nhà nước phải điều chỉnh và quản lí ngoại ứng hoặc đảm nhiệm sản xuất và cung ứng toàn bộ hay một phần hàng hoá công cộng, nên cũng phải điều chỉnh và quản lí loại hàng hoá này.
Thứ sáu, xem xét về sở hữu tài nguyên và thành phần môi trường, chúng ta đều thừa nhận các tài nguyên thiên nhiên và thành phần môi trường nước ở đô thị thuộc sở hữu nhà nước, như vậy nhà nước không thể giao cho đối tượng nào khác để chịu trách nhiệm chính về quản lí môi trường nước ở đô thị, trách nhiệm đó phải thuộc về nhà nước…
Ở nước ta, nguồn nước mặt và nước ngầm đang càng ngày bị ô nhiễm và cạn kiệt, nhiều đô thị và khu công nghiệp bị ô nhiễm do nguồn nước thải, chất thải…Việc gia tăng dân số, việc di dân tự do diễn ra ồ ạt và không kiểm soát được, không kiểm soát được, việc khai thác có tính chất huỷ diệt các nguồn lợi sinh vật trên cạn và dưới nước. Do sản xuất công nghiệp vẫn còn nằm trong tình trạng phân bố tuỳ tiện, không tính toán hướng, vị trí, xả thải bừa bãi, không xử lí đúng mức, còn sử dụng nhiều chất hoá học độc hại ảnh hưởng đến nguồn nước…Mặt khác, do đòi hỏi của cộng đồng quốc tế đối với nước ta về hưởng ứng các chương trình chung về bảo vệ môi trường khu vực và quốc tế. Vì vậy, nhà nước phải có trách nhiệm thay mặt nhân dân ta thực hiện các cam kết đó và quản lí, bảo vệ môi trường nước ở đô thị trên địa bàn cả nước.
Chương II
THỰC TRẠNG MÔI TRƯỜNG NƯỚC Ở ĐÔ THỊ VIỆT NAM HIỆN NAY VÀ NGUYÊN NHÂN
1.Thực trạng về môi trường nước đô thị ở nước ta hiện nay
Hiện nay ở Việt Nam, mặc dù các cấp, các ngành đã có nhiều cố gắng trong việc thực hiện chính sách và pháp luật về bảo vệ môi trường nước ở đô thị, nhưng tình trạng ô nhiễm môi trường nước đô thị và công nghiệp vẫn là vấn đề rất đáng lo ngại.
1.1.Cấp nước
Phần lớn các hệ thống cấp nước máy ở đô thị đều lấy nước từ nguồn nước mặt, khoảng 30% nước cấp lấy từ nước ngầm. Hiện nay, nhiều hệ thống cấp nước đã được xây dựng rất hiện đại và ngày càng nhiều ở các khu đô thị trên toàn quốc. Tuy nhiên, bên cạnh đó hệ thống phân phối nước nhiều nơi còn tồi tàn gây thất thoát rò rỉ (thường là tới 30-40%).Còn nhiều đô thị (các thị trấn, đô thị loại IV, V ) chưa được cấp nước máy, hiện vẫn lấy nước từ các giếng khoan nông, bơm tay, một số trường hợp còn là sử dụng giếng lộ thiên. Tỷ lệ dân số được cấp nước còn thấp, 60-70% đối với đô thị loại I, II; 40-50% đối với đô thị loại III, nhưng lượng nước chỉ đạt 40–50% tiêu chuẩn cần thiết theo đầu người. Hầu hết các hệ thống cấp nước đã được xây dựng từ lâu, chắp vá và xuống cấp nghiêm trọng.
Các công ty cấp nước hầu như chưa cân đối được thu chi, do giá nhà nước thường thấp hơn so với giá chung trong khu vực. Ở nước ta biểu giá nước dân dụng thường là khoảng 0,25USD/m3, và nước dùng trong sản xuất là 0.35USD/m3, so với giá tương ứng tại các nước khác trong khu vực là 0.3USD/m3 và 0,5USD/m3. “Việt Nam môi trường và cuộc sống”- NXB Chính Trị Quốc gia- Tr 223
Hiện nay
, nhiều đô thị lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Đà Nẵng... vẫn thường xuyên thiếu nước. Ở VN nguồn nước chủ yếu sử dụng là nước mặt và nước ngầm, trong đó 2/3 là nước mặt từ các sông. Nguy cơ gây ô nhiễm nguồn nước mặt và nước ngầm do tác động của con người và thiên nhiên gia tăng. Chất lượng nguồn nước ngày càng không ổn định và diễn biến theo chiều hướng xấu. Tỷ lệ thất thoát và thất thu nước còn cao, vào khoảng 30 - 50%, có nơi lên đến 60% khiến tình trạng thiếu nước tại các đô thị càng trầm trọng. Mặt khác, trong tổng số 17.600 km đường ống cấp nước có đến 60% xây dựng cách đây hơn 35 năm đã xuống cấp nghiêm trọng, vừa gây thất thoát, vừa khiến chất lượng nước sạch không bảo đảm tiêu chuẩn. Sự cố nước bị nhiễm bẩn tại TP. Hồ Chí Minh, chất lượng nước kém tại nhiều đô thị như Hà Nội, Quảng Ninh, Thái Bình, Hưng Yên hay nước nhiễm mặn tại Huế đang trở thành vấn đề bức xúc. Các công ty cấp nước còn mang nặng dấu ấn thời bao cấp, công tác quản lý tổ chức, điều hành và nhân lực còn yếu gây ức chế, mất lòng tin của khách hàng...
Đặc biệt, hiện cả nước chưa có một cơ cấu tổ chức cấp nước thống nhất: Có địa phương giao cho công ty cấp nước tỉnh quản lý toàn bộ hệ thống cấp nước trên địa bàn, có tỉnh lại giao cho các nhà máy nước theo từng địa bàn riêng biệt; có nơi để các công ty cấp nước trực thuộc tỉnh, có địa phương giao các công ty cấp nước cho UBND thị xã quản lý, đa phần trực thuộc Sở Xây dựng, Sở Giao thông - Công chính. Cơ cấu không đồng bộ đang là trở ngại kìm hãm sự phát triển của hệ thống cấp nước đô thị VN. Nguồn nhân lực không được quan tâm đào tạo, trình độ cán bộ và công nhân thấp, ảnh hưởng đến công tác vận hành, bảo dưỡng cũng như tiếp thu công nghệ mới. Ngoài ra, hầu hết các địa phương đều định giá nước làm nhiều loại giá, tăng giá nước sản xuất và kinh doanh để bù cho giá nước sinh hoạt và công cộng. Nhiều nơi vẫn còn quy định mức sử dụng, dùng nhiều không khuyến khích mà còn bị trả tiền theo lũy tiến, đi ngược nguyên lý kinh doanh thông thường và sự phi lý bắt buộc phải chấp nhận...
1.2.Úng ngập đô thị
Vào mùa mưa, ở nhiều đô thị thường xảy ra úng ngập.Tình trạng úng ngập không những gây ô nhiễm môi trường nước ở đô thị, làm cho nước cống rãnh bẩn lan tràn trên đường phố, mà còn cản trở giao thông đô thị gây ra các thiệt hại lớn về kinh tế và xã hội. Ở nước ta, phần lớn các đô thị được phát triển ở vùng đồng bằng, nên tình trạng úng ngập trong đô thị về mùa mưa xảy ra rất phổ biến. Vì vậy vấn đề thoát nứơc mưa và chống ngập úng trong mùa mưa đối với đô thị có ý nghĩa rất quan trọng về mặt môi trường nước ở đô thị, cũng như về mặt kinh tế - xã hội.
Áp lực phát triển của các đô thị đang dẫn đến tình trạng: tại các lưu vực thoát nước, các ao hồ chứa nước mưa thiên nhiên đều bị san lấp, làm cho các hệ thống thoát nước càng bị quá tải và dẫn đến tình trạng úng ngập. Hơn thế nữa do không có một quy hoạch cụ thể để xây dựng một hệ thống đô thị thống nhất, các đường ống , các kênh thoát nước ở các khu vực mới phát triển thường được xây dựng mâu thuẫn với phương thức thoát nước của khu vực cũ. Đồng bằng sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long đã gặp phải những vấn đề đặc biệt phức tạp, mức nước sông hiện nay cao hơn khu vực xung quanh, bắt buộc người ta phải bơm nước ra để thoát nước trong mùa mưa bão. Đây là phương thức vừa quá tốn kém, vừa không đáp ứng nổi nhu cầu.
Trong những năm gần đây, phần lớn các hệ thống thoát nước đều trong tình trạng nhanh chóng xuống cấp và không được bảo dưỡng, đều không đáp ứng nổi công suất cần thiết, vì mức độ phát triển của các đô thị ngày càng tăng thì chiều dài và chiều rộng của các khu vực không được thoát nước ngày càng lớn. Nhiều đường phố không có hệ thống thoát nước mưa và nước sinh hoạt nên thưòng bị úng ngập khi mưa và tình trạng ứ đọng nước thải sinh hoạt là thường xuyên.
Việc tiêu thoát nước mưa gặp nhiều khó khăn: tự chảy chỉ được một phần ,chủ yếu tiêu bằng động lực. Hệ thống thu hứng và thoát nước tập trung nhỏ, thường bị tắc nghẽn . Trong các trận mưa lớn 1-2 giờ, cường độ từ 50mm trở lên, là xuất hiện một số điểm úng ngập, chiều sâu ngập, thời gian ngập đều không giảm, thậm chí có nơi còn phát sinh thêm. Hiện trạng ngập úng đã dẫn đến mức độ ô nhiễm tương đối cao xung quanh hầu hết các điểm thải nước.
Ở tất cả các khu đô thị trong cả nước, hầu như không có một hệ thống thoát nước thải riêng nào. Các hệ thống thoát nước thải đều chung với hệ thống thu gom nước mưa, cả bùn rác, nước cống đều xả vào một hệ thống thoát nước chung - kết hợp. Ở hầu hết các đô thị, đặc biệt là ở Miền Nam, rác thải được xả trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua bể phốt vào hệ thống thoát nước này. Tỷ lệ dân số được sử dụng các hệ thống thoát nước tại các trung tâm đô thị đang còn thấp – vào khoảng 50 - 60% tại thành phố HCM và 35-40% tại Hà Nội và Hải Phòng,và thậm chí còn thấp hơn nữa ở các đô thị cấp thấp hơn. Chỉ tính riêng các đường ống thoát nước thải thì chiều dài đường ống ở thành phố và thị xã thuộc tất cả các cấp đều dưới 0,2m/người.
Dự báo đến năm 2010, công tác thoát nước đô thị ở nước ta cũng chỉ tập trung giải quyết úng ngập, chưa thể giải quyết úng ngập ,chưa thể giải quyết được việc xử lí nước thải tập trung. Như vậy, đối với đô thị tới năm 2010 cũng vẫn sử dụng hệ thống thoát nước chung và xử lí nước thải phân tán ở các bể tự hoại, tức là chỉ xử lí được khoảng 30% lượng chất lơ lửng và 5-10% lượng BOD.Ô nhiễm môi trường nước mặt trong đô thị vẫn còn trầm trọng.
Thống kê của Bộ xây dựng cho thấy hệ thống thoát nước tại các đô thị hiện nay bị xuống cấp nghiêm trọng, chỉ đáp ứng được 60% nhu cầu thoát nước.Tại thành phố HCM,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thực trạng và giải pháp của nhà nước trong việc giải quyết vấn đề môi trường nước ở đô thị hiện nay.DOC