Đề tài Thực trạng và giải pháp về việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV-AIDS tại Việt Nam

Hiện nay đã có những chương trình Quốc gia về vấn đề chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Các trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV được điều trị và cấp thuốc ARV miễn phí.

Tháng 3 năm 2004 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia về phòng chống HIV ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Để thực hiện chiến lược Quốc gia này các bộ ngành đã xây dựng và hiện đang thực hiện các kế hoạch hành động quốc gia về Thông tin, Giáo dục tuyên truyền trong công tác phòng chống HIV; Can thiệp giảm thiểu tác hại; Chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV trong đó có trẻ em; Chương trình giám sát trọng điểm, theo dõi và đánh giá HIV/AIDS; Phòng chống lây truyền HIV từ mẹ sang con và Giáo dục về sức khỏe sinh sản và Phòng chống HIV/AIDS tại các cấp trung học phổ thông.

Công tác chăm sóc cho các trẻ em nhiễm HIV tại các gia đình đang được mở rộng có rất nhiều lợi ích, nhưng quan trọng hơn cả đây chính là điểm quan trọng thúc đấy sự đánh giá và đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành viên trong gia đình- trẻ bị nhiễm HIV, người chưa được chuẩn đoán và người bị ảnh hưởng. Cách tiếp cận này làm tăng số lượng trẻ em và trẻ vị thành niên được chuẩn bị, thúc đẩy sự đáp ứng tích cực đối với việc đánh giá và đáp ứng kịp thời các nhu cầu về dinh dưỡng, giáo dục, y tế, tâm lý cho trẻ em nhiễm HIV.

 

doc20 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5423 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Thực trạng và giải pháp về việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV-AIDS tại Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trẻ em. Trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở Việt Nam được phát hiện vào tháng 12 năm 1990 tại Thành phố Hồ Chí Minh và hiện nay HIV/AIDS đã và đang lan rộng ra khắp các tỉnh, thành phố. HIV/AIDS đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống gia đình và cộng đồng dân cư, ảnh hưởng đến Kinh tế- Xã hội của đất nước, đe dọa đến sức khỏe của người dân mà đặc biệt là trẻ em – những chủ nhân tương lai của đất nước. Trong bối cảnh dịch HIV/AIDS đang lan tràn, các nhóm xã hội dễ bị tổn thương phải chịu nhiều tác động nhất. Tình trạng bất bình đẳng về giới khiến cho phụ nữ và trẻ em gái mất đi các phương tiện để tự bảo vệ mình, họ bị bóc lột, bị lạm dụng tình dục trong môi trường không an toàn…Trẻ em được ra từ những người mẹ có HIV thường không được chăm sóc, có khi còn bị bỏ rơi, quyền được đến trường có khi còn bị vi phạm bởi sự kì thị và phân biệt đối xử của Xã hội. Tại Hội nghị Quốc tế lần thứ 17 ở Mêxicô, cô bé Kare Dunaway đã phát biểu: “ Chúng tôi những cậu bé và cô bé mang trong mình virut HIV và lớn lên với nhiều mục tiêu trong cuộc sống: muốn trở thành nghệ sĩ, giáo viên, bác sĩ thậm chí muốn kết hôn và sinh con…nhưng những ước muốn ấy chỉ đạt được cả xã hội quan tâm”. Chúng ta – những con người may mắn hơn, cần phải hanh động, cần phải góp một phần nào đó giúp ích cho xã hội, giúp cho những đứa trẻ mang trong mình mầm mống của HIV có thêm cơ hội được sống, thêm ước mơ tươi sáng và thêm hi vọng vào tương lai. Cho đến thời điểm hiện nay số trẻ em nhiễm HIV và tử vong vì AIDS được báo cáo hàng năm ở Việt Nam không ngừng tăng lên. Vì vậy vấn đề tiếp cận, chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV đã trở thành một nhu cầu khách quan và ngày càng cấp bách. Trong bài viết này em xin đưa ra một số giải pháp đảm bảo an sinh cho vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV tại Việt Nam. Do đây là lần đầu tiên đi nghiên cứu về vấn đề này nên em không tránh khỏi những thiếu sót, khuyết điểm. Vì vậy em kính mong sự giúp đỡ của cô giáo để em có thể viết tốt hơn trong những bài viết sau. Em xin chân thành cảm ơn! Phần 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Khái niệm an sinh và một số khái niệm liên quan: 1.1- Khái niệm an sinh: Theo tổ chức Lao động quốc tế ILO: An sinh xã hội là một sự bảo vệ mà xã hội cung cấp cho các thành viên của mình thông qua một số biện pháp được áp dụng rộng rãi để đương đầu với những khó khăn, các cú sốc về Kinh tế - Xã hội làm mất hoặc suy giảm nghiêm trọng nguồn thu nhập do ốm đau, thai sản, thương tật do lao động, mất sức lao động hoặc tử vong. An sinh xã hội cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình nạn nhân có trẻ em (ILO – 1984). Quan điểm của Việt Nam: An sinh xã hội là một hệ thống các cơ chế chính sách, các giải pháp của Nhà nước và cộng đồng nhằm trợ giúp cho mọi thành viên trong xã hội đối phó với các rủi ro, các cú sốc về Kinh tế - Xã hội làm cho họ suy giảm hoặc mất nguồn thu nhập do bị ốm đau, thai sản, tai nạn, bệnh nghề nghiệp, già cả không còn sức lao động hoặc vì các nguyên nhân khách quan khác rơi vào cảnh nghèo khổ, bần cùng hóa và cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng, thông qua các hệ thống chính sách và bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trợ giúp xã hội và trợ giúp đặc biệt. 1.2 - Khái niệm về trẻ em: Theo quy định của Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em thì trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi. Đặc điểm của trẻ em: + Về mặt sinh học: Trẻ em là người phát triển chưa đầy đủ về thể chất, trí tuệ và nhân cách…Trẻ em chưa thể tự lập được trong cuộc sống, cũng chưa có khả năng đánh giá hành vi và tự định hướng phát triển, chưa có khả năng tự bảo vệ mình trước những tác động xấu từ môi trường, trước những nguy cơ bị xâm hại. + Về mặt xã hội: trẻ em là thế hệ kế cận, là lượng lao động nòng cốt và sẽ làm chủ thế giới trong tương lai. 1.3 - Khái niệm về HIV/AIDS: HIV là virut gây suy giảm miễn dịch ở người, có nghĩa là nếu bị nhiễm phải nó khả năng chống lại bệnh tật sẽ bị suy yếu.Đó là vì: Cơ thể con người có hệ thống miễn dịch chống lại các vi khuẩn, virut, vi sinh vật… gây bệnh có trong môi trường để duy trì sự sống. Trong hệ thống này bộ phận chủ chốt là đội quân các bạch cầu. Nhưng chính các bạch cầu chỉ huy (T-CD4) của đội quân đó lại là đối tượng tấn công của HIV. HIV chui vào cư trú trong các bạch cầu chỉ huy, nên nó không bị đội quân bạch cầu tiêu diệt. Virut HIV lợi dụng bạch cầu để sinh sôi và sau đó tiêu diệt bạch cầu. Đến khi đa số chỉ huy bị tiêu diệt và đội quân sẽ bị vô hiệu, không chống được bệnh tật nữa. AIDS( còn gọi là SIDA) có nghĩa là hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải. Đó là khi khả năng chống bệnh tật suy yếu đến nỗi cơ thể bị các thứ bệnh hoành hành, điều trị không khỏi được. Từ khi phát bệnh AIDS đến lúc chết chỉ vài tháng hoặc nhiều nhất là hai năm. 1.4 - Chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV: Là chăm sóc các trẻ mang trong mình virut HIV. Các em cần có một chế độ chăm sóc và quan tâm đặc biệt hơn so với các trẻ em khác. Vì trẻ em nhiễm HIV không có khả năng phát triển khỏe mạnh; các em thường xuyên bị ảnh hưởng bởi các bệnh lây truyền và bị trẩm trọng hơn so với những đứa trẻ bình thường khác. Nếu không được chăm sóc và điều trị bằng thuốc thì có tới khoang 60-70% các em chết sau 5 năm nhiễm bệnh. 1.5 - Quan điểm của Đảng và Nhà nước về chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS: Đảng và chính phủ đã có sự quan tâm tới vấn đề chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Đảng và Nhà nước có quan điểm rằng: Tất cả các trẻ em nhiễm HIV/AIDS và bị ảnh hưởng bởi HIV/AIDS cần phải được hưởng đầy đủ những quyền lợi dành cho một người về ăn ở và học tập. Điều căn bản đầu tiên là giúp các em có được một cuộc sống tối thiểu như có một chỗ ở, có thể có một nhà ở hay một mái ấm tình thương hoặc một trung tâm bảo trợ nào đó.Tại những nơi đó các em cần phải được chăm sóc sức khỏe, điều trị khi bị bệnh …Ngoài ra tất cả các em cũng được hỗ trợ xây dựng các mối quan hệ trong xã hội nhằm giúp các em có được một cuộc sống bình thường giữa xã hội, như bao trẻ em may mắn khác. Theo Luật Bảo vệ, Chăm sóc và Giáo dục trẻ em: Điều 53. Trẻ em nhiễm HIV/AIDS: Trẻ em nhiễm HIV/AIDS không bị phân biệt đối xử; được Nhà nước và xã hội tạo điều kiện để chữa bệnh, nuôi dưỡng tại gia đình và tại các cơ sở trợ giúp trẻ em. Phần 2: Thực trạng của việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS tại Việt Nam. Thực trạng: HIV/AIDS đang là vấn đề mang tính toàn cầu. Nhiều chương trình chiến lược phòng chống HIV/AIDS đã được phát động và triển khai nhưng đại dịch HIV/AIDS vẫn có xu hướng phát triển và lan rộng; đối tượng nhiễm HIV ngày càng trẻ hóa đặc biệt là trẻ em. Theo số liệu thống kê ước tính mỗi năm ở Việt Nam có từ 1 triệu đến 1,5 triệu phụ nữ mang thai thì có khoảng gần 6000 người bị nhiễm HIV và gần 2000 trẻ em mới sinh hằng năm có nguy cơ nhiễm HIV từ mẹ. Tuy nhiên còn có một điều may mắn là không phải đứa trẻ nào sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV cũng bị nhiễm HIV. Nếu biết dự phòng và chăm sóc đúng cách số trẻ em bị nhiễm HIV sẽ giảm đi đáng kể. Theo ước tính tỉ lệ thai phụ nhiễm HIV trong những năm 2007-2008 đã tăng lên khoảng 18,5 lần so với thời kì 1994-1995.Tuy nhiên đa phần thai phụ nhiễm HIV đều được phát hiện muộn nên khó phòng tránh nguy cơ lây truyền từ mẹ sang con. Đây là một thực tế rất đáng lo ngại, gây khó khăn cho việc áp dụng điều trị dự phòng lây truyền từ mẹ sang con. Điều đáng nói là các bà mẹ dù có thể biết mình nhiễm HIV nhưng lại e ngại việc đi xét nghiệm máu sớm để phát hiện và được uống thuốc dự phòng kịp thời nhằm phòng lây nhiễm sang con mình. Vì không được phát hiện sớm nên không ít thai phụ đến khi chuyển dạ mới đến bệnh viện và sau khi xét nghiệm máu mới biết mình mắc HIV. Theo thống kê trong 3 năm 2005 – 2008 trong số khoảng 48.500 sản phụ đến khám và sinh tại bệnh viện phụ sản Trung ương, sàng lọc được 271 trường hợp HIV dương tính. Trong đó có tới 40% thai phụ chỉ biết mình nhiễm HIV khi chuyển dạ. Điều này đồng nghĩa với việc những thai phụ này đã tự đánh mất cơ hội để tiếp cận đến thuốc điều trị kháng vi rút dự phòng lây truyền từ mẹ sang con. Như vậy vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em ngay từ trong bụng mẹ đã không được quan tâm môt cách đúng mức. Những đứa trẻ đó hoàn toàn có thể khỏe mạnh như bao đứa trẻ khác nếu được chăm sóc và dự phòng đúng cách ngay từ khi mang thai. Kết quả khảo sát cho thấy sự kì thị và phân biệt đối xử là nguyên nhân gây cản trở các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và giáo dục đối với trẻ em nhiễm HIV. Nỗi lo lắng bị kì thị cũng khiến các gia đình có trẻ em nhiễm HIV e ngại chia sẻ thông tin. Điều này làm cho việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc và điều trị cho các em gặp nhiều khó khăn. Ở nước ta những người nhiễm HIV, trong đó có trẻ em luôn bị kì thị và phân biệt đối xử. Nhà trường và phụ huynh học sinh cũng tạo ra rào cản trong học tập đặc biệt là trong các lớp mẫu giáo và các khóa đào tạo nghề. Trong một diễn đàn về trẻ em nhiều trẻ em có HIV đã cho biết: Các em bị tẩy chay và bị bắt nạt bởi các bạn cùng trang lứa và bị phân biệt đối xử bởi giáo viên. Những người chăm sóc trẻ này cho biết họ gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhập học cho trẻ và động viên trẻ đến trường. Chính sự kì thị và phân biệt đối xử với trẻ em nhiễm HIV khiến cho các em bị hạn chế cơ hội được chăm sóc sức khỏe. Theo thống kê của Cục Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe của trẻ em có tới 51,5 % số trẻ nhiễm HIV không được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và điều trị bệnh một cách đầy đủ. Trong số đó có tới 35% trẻ bị bỏ rơi không được quan tâm đúng mức từ phía cộng đồng và xã hội. Tính đến khoảng tháng 12 năm 2007 cả nước có tới 976 trường hợp trẻ em dưới 5 tuổi được báo cáo là nhiễm HIV do mẹ truyền sang. Trên thực tế con số này cao hơn do những bà mẹ đã sinh con tại nhà hoặc tại các trạm y tế xã chưa có điều kiện xét nghiệm HIV. Theo bác sĩ Nguyễn Trọng An – Phó Cục trưởng Cục bảo vệ và chăm sóc sức khỏe trẻ em (Thuộc Bộ Lao động Thương binh và Xã hội) cho biết có tới 49,5% trẻ nhiễm HIV thuộc gia đình nghèo và 2,1% là rất nghèo. Hơn một nửa số vị thành niên bị nhiễm HIV(57,8%) và 42% số trẻ số trẻ sống trong các gia đình có người nhiễm HIV đang phải đi làm để tự kiếm sống hoặc phụ giúp gia đình. Trong đó có 29,6% đi làm thuê, 21% đi đánh giày, 16,5% bán vé số dạo. Chính vì thế vấn đề chăm sóc sức khỏe cho các trẻ em này gặp rất nhiều khó khăn. Ở độ tưổi này đáng lẽ các em phải được cắp sách tới trường; được chăm sóc đầy đủ từ phía gia đình, nhà trường và xã hội thì các em đang phải từng ngày đối diện với sự mưu sinh của cuộc sống. Kết quả khảo sát của Uỷ ban Dân số gia đình và trẻ em cho thấy có 58,7% số trẻ bị nhiễm HIV và bị ảnh hưởng bởi HIV đang sống với gia đình có người thân bị nhiễm HIV. Một số trẻ khác bị bỏ rơi, gia đình và họ hàng không sẵn lòng chăm sóc nên bị gửi vào các Trung tâm bảo trợ trẻ em. Những đứa trẻ này cho biết chúng luôn cảm thấy bị bỏ rơi và thiếu sự yêu thương của những người xung quanh. Một điều đáng nói là chính sách quy định hỗ trợ cho những gia đình có trẻ em nhiễm HIV còn nhiều bất cập. Chính điều đó đã gây cản trở cho vấn đề chăm sóc và điều trị cho các em. Như một gia đình ở huyện Văn Lãng (tỉnh Lạng Sơn) có con trai chết vì AIDS. Con dâu sau đó một tháng cũng chết vì AIDS. Bà nội ở cái tuổi “xưa nay hiếm” phải còm cõm nuôi hai đứa cháu. Và đã ba năm nay gia đình không được hưởng một chế độ trợ cấp nào. Gia đình kêu lên tỉnh thì được giải thích vì là cán bộ về hưu nên bà không được hưởng trợ cấp ( trong khi đó lương hưu của bà là 300 nghìn đồng/ tháng). Như vậy cuộc sống của ba bà cháu phải đối mặt với rất nhiều khó khăn với đồng lương ít ỏi. Hai đứa trẻ đang mang trong mình virut HIV không được chăm sóc và điều trị đúng cách. Do đó vấn đề chăm sóc sức khỏe cho những đứa trẻ này rất cần được quan tâm, hỗ trợ và giúp đỡ từ phía các cơ quan tổ chức có thẩm quyền. 2- Đánh giá về thực trạng: 2.1- Ưu điểm: Công tác chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV đã có những nỗ lực đáng kể. Đảng và Nhà nước đã có sự quan tâm đến vấn đề này.Các trẻ ngày càng được quan tâm hơn, được chăm sóc hơn. Xã hội và cộng đồng cũng đã phần nào giảm bớt những kì thị và phân biệt đối xử như trước với các em. Hiện nay đã có những chương trình Quốc gia về vấn đề chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Các trẻ em dưới 6 tuổi nhiễm HIV được điều trị và cấp thuốc ARV miễn phí. Tháng 3 năm 2004 Thủ tướng chính phủ đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia về phòng chống HIV ở Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Để thực hiện chiến lược Quốc gia này các bộ ngành đã xây dựng và hiện đang thực hiện các kế hoạch hành động quốc gia về Thông tin, Giáo dục tuyên truyền trong công tác phòng chống HIV; Can thiệp giảm thiểu tác hại; Chăm sóc và điều trị cho người nhiễm HIV trong đó có trẻ em; Chương trình giám sát trọng điểm, theo dõi và đánh giá HIV/AIDS; Phòng chống lây truyền HIV từ mẹ sang con và Giáo dục về sức khỏe sinh sản và Phòng chống HIV/AIDS tại các cấp trung học phổ thông. Công tác chăm sóc cho các trẻ em nhiễm HIV tại các gia đình đang được mở rộng có rất nhiều lợi ích, nhưng quan trọng hơn cả đây chính là điểm quan trọng thúc đấy sự đánh giá và đáp ứng nhu cầu của tất cả các thành viên trong gia đình- trẻ bị nhiễm HIV, người chưa được chuẩn đoán và người bị ảnh hưởng. Cách tiếp cận này làm tăng số lượng trẻ em và trẻ vị thành niên được chuẩn bị, thúc đẩy sự đáp ứng tích cực đối với việc đánh giá và đáp ứng kịp thời các nhu cầu về dinh dưỡng, giáo dục, y tế, tâm lý cho trẻ em nhiễm HIV. 2.2- Hạn chế: Ngoài những mặt tích cực trên thì công tác chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS còn gặp rất nhiều khó khăn. Không phải trẻ em cũng có điều kiện được điều trị bằng thuốc kháng virut ARV. ARV giúp làm giảm nồng độ HIV trong máu, phòng những bệnh nhiễm trùng đe dọa tới tính mạng và kéo dài thời gian khỏe mạnh cho trẻ. Giúp trẻ có thêm niềm tin vào cuộc sống. Tuy nhiên phần lớn trẻ nhiễm HIV lại được sinh ra trong các gia đình nghèo, một số trẻ còn bị bỏ rơi không nơi nương tựa, không có chế độ bảo hiểm y tế. Trong khi đó chế độ chăm sóc và điều trị chưa rõ ràng, dẫn đến khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế cho trẻ nhiễm HIV còn thấp. Bộ máy tổ chức chăm sóc và điều trị cho trẻ chưa được chuẩn bị tốt, các hoạt động tổ chức chăm sóc còn nhiều bất cập. Kinh phí của chương trình quốc gia hàng năm dành cho chăm sóc và điều trị trẻ em có HIV còn thấp. Do đó chưa thể đáp ứng được đầy đủ nhu cấu chăm sóc và điều trị. Việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến HIV nói riêng và việc cung cấp ARV một cách hạn chế theo chỉ tiêu của mỗi tỉnh là một rào cản. Hiện đã có những kế hoạch nhằm mở rộng nhanh chóng số lượng các Quận huyện được cung cấp các dịch vụ chuẩn đoán HIV, cung cấp thuốc ARV. Tuy nhiên điều đáng băn khoăn là các biện pháp can thiệp này không được áp dụng một cách đồng đều trên các khu vực địa lý khác nhau. Hiện tại thị hầu hết các can thiệp đều tập trung nhiều ở các khu vực thành thị. Trẻ em bị nhiễm HIV là dân tộc thiểu số ở các khu vực vùng cao, khu vực nông thôn ít nhận được sự hỗ trợ, chăm sóc và điều trị. Các hỗ trợ mặt tâm lý cho trẻ em và trẻ vị thành niên mới chỉ được thực hiện trên quy mô rất nhỏ. Chưa đáp ứng được nhu cầu hỗ trợ cho các em. Một điều đáng nói nữa là nhiều người chăm sóc trẻ không muốn đưa trẻ đến các cơ sở y tế để xét nghiệm, một phần vì lo sợ sự phân biệt đối xử, một phần thì thiếu hiểu biết về lợi ích của việc chuẩn đoán sớm. Dữ liệu thông tin về vấn đề chăm sóc trẻ em nhiễm HIV còn rất thiếu. Các thông tin về tỉ lệ nhiễm bệnh, đặc điểm và nhu cầu của trẻ em nhiễm HIV còn hạn chế. Cần có thêm nhiều nghiên cứu và thu thập thêm nhiều dữ liệu thông tin một cách có hệ thống về trẻ em nhiễm HIV và các biện pháp can thiệp nhằm đưa ra những đường lối chỉ đạo tốt hơn cho việc hoạch định chính sách và chương trình về chăm sóc sức khỏe và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Phần 3- Một số giải pháp và kiến nghị để đảm bảo an sinh cho vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS. Một số giải pháp về chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV: 1.1 Các cách chăm sóc trẻ bị nhiễm HIV: Trẻ em nhiễm HIV lây qua 3 con đường chính: + Từ mẹ nhiễm HIV( đây là con đường lây chủ yếu có thể bị nhiễm từ trong bào thai, trong lúc sinh qua sữa mẹ). + Qua đường máu và chế phẩm máu bị nhiễm HIV, do dùng chung dụng cụ tiêm chích bị nhiễm HIV. + Qua quan hệ tình dục không an toàn. Trẻ bị nhiễm HIV sẽ trải qua các giai đoạn sau : * Giai đoạn không có triệu chứng: Trẻ đã bị nhiễm HIV những cơ thể vẫn chưa bị suy giảm miễn dịch, trẻ vẫn khỏe mạnh bình thường. * Giai đoạn có triệu chứng: Trung bình khoảng 8 tháng sau khi bị nhiễm ( có thể dài hơn thậm chí kéo dài tới 6 -7 năm sau khi trẻ bị nhiễm). Các biểu hiện trong giai đoạn này bao gồm: nhiễm khuẩn (trẻ bị viêm phổi kéo dài, tưa miệng, chốc lở, mụn nhọt tái diễn, sốt kéo dài); gan, lách, hạch to. * Giai đoạn AIDS là giai đoạn cuối: Là giai đoạn cuối cùng của bệnh, lúc này các biểu hiện trên kéo dài, nặng lên và trẻ tử vong. Những trẻ sau đây nên đi làm xét nghiệm HIV: Tất cả các trẻ sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV. Trẻ bị xâm hại tình dục. Trẻ sinh ra tại các gia đinh có bố hoặc mẹ nghiện ma túy, hoạt động mại dâm, quan hệ tình dục với nhiều người. Trẻ có một số biểu hiện không rõ nguyên nhân như: Sốt kéo dài trên 1 tháng, tiêu chảy kéo dài trên một tháng, sụt cân nhiều, hạch to kéo dài, nhiễm khuẩn tái diễn kéo dài. Khi đã khẳng trẻ chắc chắn bị nhiễm HIV thìu chúng ta cần phải chăm sóc trẻ theo đúng cách: + Về tiêm chủng: Trẻ nhiễm HIV chưa có biểu hiện triệu chứng thì cần phải tiêm chủng theo lịch như đối với trẻ bình thường. Trẻ nhiễm HIV có hệ thống miễm dịch suy giảm nên có nguy cơ mắc bệnh cao hơn những đứa trẻ khác và nếu có mắc bệnh thì diễn biến cũng trầm trọng hơn. Với các bệnh thông thường thì cần phải cách ly trẻ với những đứa trẻ bị ốm hoặc những người ốm nhất là những người bị bệnh lao. Trẻ đã có biểu hiện triệu chứng thì không tiêm phòng lao; sởi và không uống thuốc văcxin bại liệt. + Về dinh dưỡng: Cần cho trẻ được nuôi dưỡng theo một chế độ ăn uống tốt nhất. Nên tham khảo thầy thuốc về sự lựa chọn thức ăn cho phù hợp với cơ thể trẻ. Những đứa trẻ này thường biếng ăn, vì vậy nên thay đổi món ăn cho đa dạng. Thức ăn chế biến cần đảm bảo dễ tiêu hóa, đảm bảo vệ sinh… Không được cho trẻ uống các loại đồ uống kích thích như rượu, bia… + Về vệ sinh: Đối với trẻ sinh ra bởi những bà mẹ nhiễm HIV thì cần tắm ngay cho trẻ sau khi sinh. Thường xuyên vệ sinh thân thể hằng ngày cho trẻ. Nhà ở cho trẻ cần được thu dọn thường xuyên để đảm bảo luôn sạch sẽ và thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông, không có khói thuốc lá, khói than, không nuôi vật nuôi trong nhà. Tạo cho trẻ một cuộc sống khỏe mạnh,dành nhiều tình cảm và sự yêu thương đối với trẻ. Dạy và hướng dẫn cho trẻ biết chăm sóc giữ gìn và vệ sinh cá nhân. Hầu hết những đứa trẻ này thường hiếu động, tuy nhiên cũng cần khuyến khích trẻ rèn luyện thân thể, tập thể dục thường xuyên. Mỗi năm hai lần cho trẻ đi khám răng miệng. Phải báo cho bác sĩ nha khoa biết để trẻ được thăm khám cẩn thận. + Về nghỉ ngơi: Trẻ nhiễm HIV cần ngủ nhiều có thời gian nghỉ ngơi nhiều hơn so với các đứa trẻ khác. Người thân nên dành nhiều thời gian chơi, nói chuyện, ôm ấp trẻ. Giúp cho trẻ có một cuộc sống bình thường như bao đứa trẻ khác. Khi trẻ có những biểu hiện như sốt, ho, thở nhanh và khó, chán ăn, gấy sút nhanh, xuất hiện những đốm trắng hoặc những vết đau trong miệng, xuất hiện mụn nhiều tiêu chảy, nôn mửa…Cần đảm bảo cho trẻ phải được điều trị và theo dõi liên tục. Trẻ nhiễm HIV có thể vẫn tiếp tục khỏe mạnh trong một thời gian dài, nhưng để theo dõi diễn biến sức khỏe của trẻ cần thường xuyên cho trẻ được kiểm tra máu. Một số giải pháp đảm bảo an sinh cho vấn đề chăm sóc trẻ bị nhiễm HIV/AIDS: Không phải đứa trẻ nào sinh ra từ những bà mẹ bị nhiếm HIV thì cũng bị nhiễm HIV. Những đứa trẻ mới sinh ra từ mẹ bị nhiễm HIV thì được gọi là “phơi nhiễm HIV” chứ không được khẳng định trẻ bị nhiễm HIV. Do đó cần phải theo dõi quản lý và chăm sóc phụ nữ nhiễm HIV ngay từ khi đang mang thai. Song song với việc đánh giá tình trạng thai nghén định kì, tình trạng lâm sàng nhiễm HIV cũng phải được theo dõi. Cần cho thai phụ uống thuốc dự phòng lây truyền từ mẹ sang con để giảm khả năng nhiễm HIV cho trẻ. Đối với những trẻ nhỏ( dưới 5tuổi) hầu như các em chưa nhận thức được về bệnh của mình do đó rất cần sự chăm sóc tận tình từ phía gia đình, nhà trường và những người xung quanh. Trẻ bị nhiễm HIV đều có nguyện vọng được sống với gia đình và người thân và mong muốn được người lớn bảo vệ, chăm sóc và nuôi dưỡng. Cần cung cấp các kiến thức về dự phòng lây nhiễm HIV và kĩ năng cho người chăm sóc các em. Ngoài sự chăm sóc về y tế cần có sự hỗ trợ về tinh thần giúp các em có thêm niềm tin vào cuộc sống. Có thể mở các “lớp học tình thương”, “trẻ em giúp trẻ em” và các “câu lạc bộ về hỗ trợ tâm lý cho trẻ nhiễm HIV” với mục đích trợ giúp, giải trí, giúp các em có cơ hội hòa nhập với các trẻ em khác. Cộng đồng mà đặc biệt là Nhà trường cần phải là cầu nối, mở rộng vòng tay chào đón các em. Những đứa trẻ nay luôn mong muốn được cắp sách tới trường, được vui chơi cùng ban bè đồng trang lứa. Các em cũng có những ước mơ, những hoài bão lớn lao do đó các em cần phải được đối xử công bằng; tránh sự kì thị, xa lánh. Trẻ em về bản chất là nhóm dễ bị tổn thương, các em đặc biệt dễ bị tổn thương bởi HIV/AIDS và các tác động của HIV/AIDS gây ra. Trong nhiều trường hợp các em thường là những người ít được trang bị nhất để đương đầu với những thiệt hại do HIV/AIDS gây. Vì vậy cần đảm bảo cho các em được chăm sóc và điều trị tốt nhất. Sự kì thị và phân biệt đối xử với các em là hoàn toàn sai trái. Cần tìm cách loại trừ quan điểm đó, chúng ta cần đảm bảo rằng không có trẻ em nhiễm HIV nào phải gánh chịu điều này. Cần cung cấp thêm nhiều hơn nữa các thông tin về chăm sóc sức khỏe cho trẻ nhiễm HIV. Việc tiếp cận các dịch vụ liên quan đến HIV nói riêng và việc cung cấp ARV cần phải được tăng cường, để đảm bảo rằng tất cả các trẻ em nhiễm HIV không kể thành thị hay nông thôn, đồng bằng hay miền núi đều có cơ hội được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt nhất. 2 – Một số kiến nghị: 2.1 Về phía Nhà nước: HIV/AIDS đã và đang trở thành một đại dịch nguy hiểm mang tính toàn cầu, đe dọa trực tiếp tới tính mạng và sức khỏe của con người và tương lai nòi giống của dân tộc. Do đó ngoài vấn đề chăm sóc sức khỏe và điều trị cho những người nhiễm HIV trong đó có trẻ em thì vấn đề phòng chống HIV/AIDS phải được coi là nhiệm vụ trọng tâm, cấp bách và lâu dài. Đảng và Nhà nước cần tăng cường phối hợp liên ngành và đẩy mạnh huy động toàn xã hội tham gia. Các cấp chính quyền và các ngành có liên quan cần đầu tư hơn nữa các cơ sở vật chất, kĩ thuật, thuốc men cho công tác phòng chống và đièu trị cho những trẻ em nhiễm HIV. Hiện nay ở Việt Nam việc điều trị cho trẻ em nhiễm HIV đang phải lồng ghép với phòng khám ngoại trú của người lớn. Để thiết lập một hệ thống khám riêng cho trẻ nhiễm HIV như hệ thống của người lớn là rất tốn kém. Do đo cần chi phí lớn để thực hiện. Nhà nước cần hỗ trợ để chống sự kì thị và phân biệt đối xử với trẻ em nhiễm HIV. Sự kì thị với các em dẫn đến sự cô lập trong cộng đồng. Điều này khiến cho những nỗ lực trong công tác chăm sóc và điều trị cho trẻ em nhiễm HIV gặp nhiều khó khăn hơn. Việc tiếp cận các dịch vụ y tế, dịch vụ chăm sóc sức khỏe bị cản trở. Cần tuyên truyền và cung cấp đầy đủ các thông tin về vấn đề chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV/AIDS trong nhân dân. Cần tăng cường hợp tác và mở rộng quan hệ quốc tế với các nước láng giềng, các nước trong khu vực và trên thế giới để cung chung tay chống lại đại dịch HIV đang lan tràn. 2.2- Về phía cộng đồng và Nhà trường: Cần tạo mọi điều kiện để giúp cho trẻ được chăm sóc và điều trị tốt nhất. Giúp các em hòa nhập để có một cuộc sống bình thường như bao trẻ em khác. Cần xóa bỏ sự kì thị và phân biệt đối xử với các em nhất là từ phía những người xung quanh. Nhà trường phải làm công tác giáo dục, tuyên truyền cho các trẻ em khác không nên có thái độ xa lánh đối với các trẻ bị nhiễm HIV. 2.3- Về phía gia đình: Gia đình luôn là chỗ dựa vững chắc nhất, chính vì thế cần chăm sóc một cách đầy đủ nhất về sức khỏe và hỗ trợ về tinh thần cho các em. Cần thường xuyên đưa các em tới các cở sở y tế thăm khám sức khỏe và điều trị. Gia đình cần tạo niềm tin, không nên bi quan, chán nản để giúp các em có thêm nghị lực sống. Kết luận Trẻ em là tương lai của dân tộc và vận mệnh của đât nước. Nhưng không phải đứa trẻ nào sinh ra cũng được phát triển một cách đầy đủ và hoành thiện. Có rất nhiều những đứa trẻ kém may mắn do vô tình hay cố ý mà phải mang trong mình virut HIV. Các em luôn mong được sống được thực hiện ước mơ và hoài bão của mình. Đó là những điều rất chính đáng. Chúng ta cần tạo mọi cơ hội và điều kiện để các em được chăm sóc một cách tốt nhất. Vì hãy hi vọng, tin tưởng vào một ngày khi khoa học phát triển thì những đứa trẻ kia sẽ được cứu sống, được góp sức xây dựng một đất nước giàu đẹp. Danh mục tài liệu tham k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThực trạng và giải pháp về việc chăm sóc sức khỏe cho trẻ em nhiễm HIV-AIDS tại Việt Nam.doc
Tài liệu liên quan