Lời nói đầu
Nội dung
Chương I. Lý luận chung về chính sách tiền tệ, các công cụ của chính sách tiền tệ.
I.Chính sách tiền tệ.
1.Khái niệm chính sách tiền tệ.
2.Vai trò, mục tiêu của chính sách tiền tệ.
II. Hệ thống các công cụ của chính sách tiền tệ.
1.Chính sách chiết khấu ,tái chiết khấu.
2.Dự trữ bắt buộc.
3.Nghiệp vụ thị trường mở.
4.Hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại.
5.Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế.
6.Quản lý lãi suất.
7.Can thiệp vào tỷ giá hối đoái.
Chương II Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
I.Điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn từ 1996 đến nay.
II.Những mặt hạn chế và nguyên nhân.
Chương III.Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam.
I.Những quan điểm, định hướng toàn diện.
II.Những giải pháp đối với các công cụ.
III.Một số kiến nghị.
Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo.
30 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Thực trạng việc sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính khác, làm hình thành nên lãi suất vốn trong toàn quốc. Lãi suất vốn đó sẽ ảnh hưởng chỉ đạo, quy chiếu cho lãi suất tín dụng và tác động lên các lãi suất thị trường vốn.
Môi trường hoạt động tốt nhất cho nghiệp vụ thị trường mở là thị trường chứng khoán. Tuy nhiên nếu chưa có thị trường chứng khoán thì Ngân hàng trung ương cũng có thể thực hiện được việc mua bán trên thị trường vốn.
Với công cụ này Ngân hàng trung ương có thể thực hiẹn việc đIều tiết ở bất kì mức độ nào. Nghiệp vụ thị trường mở cũng là công cụ có tính linh họat cao thể hiện ở việc Ngân hàng trung ương có thể dễ dàng thay đổi vị trí của mình trên thi trường. Ví dụ khi Ngân hàng trung ương đang là người bán chứng khoán trên thị trường nếu thấy M1 bị sụt giảm quá nhiều, Ngân hàng trung ương có thể từ việc bán lập tức chuyển sang mua chứng khoán để bơm tiền vào nền kinh tế. Việc thực hiện nghiệp vụ thị trường mở cũng khá đơn giản nhanh chóng, ít tốn kém về mặt chi phí. Tuy nhiên viêc mua bán các chứng khoán còn phụ thuộc vào các ngân hàng và các tổ chức tàI chính khác. Chính họ là người quyết định có mua, bán các chứng khoán không và mua bán với khối lượng bao nhiêu, mức giá thế nào. Nghiệp vụ thị trường mở chỉ được sử dụng có hiệu quả khi thị trường tiền tệ đã phát triển đến một mức độ nhất định và Ngân hàng trung ương dự đoán được chính xác sự biến động của lượng vốn khả dụng trong hệ thống ngân hàng.
Hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại :
Hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại là khối lượng tín dụng tối đa mà các Ngân hàng trung ương có thể cung ứng cho hệ thống các ngân hàng thương mại trong một thời kì nhất định ( năm, quý ) phù hợp với mức tăng trưởng kinh tế của thời kì đó. Đây là một chỉ tiêu có quan hệ trực tiếp đến lượng tiền được cung ứng thêm ( hay giảm bớt ) đối với các ngân hàng thương mại . Khi ấn định hạn mức tín dụng cho các ngân hàng thương mại mỗi thời kì, Ngân hàng trung ương thường căn cứ vào kế hoạch tăng trưởng kinh tế cộng với chỉ số lạm phát cho phép trong thời kì đó. Hạn mức này không phảI là chỉ tiêu khống chế hạn mức tín dụng cho nền kinh tế mà các ngân hàng thương mại ấn định đối với các doanh nghiệp. Các ngân hàng thương mại có thể thực hiện mức tín dụng của mình lớn hơn hạn mức mà Ngân hàng trung ương ấn định cho ngân hàng mình, nếu nó có khả năng huy động được lượng vốn lớn hơn. Sở dĩ như vậy là vì vốn do các ngân hàng thương mại huy động và cho vay cho dù lớn gấp nhiều lần hạn mức tín dụng mà Ngân hàng trung ương cung ứng cũng không ảnh hưởng đến lượng tiền đưa thêm hay rút khỏi lưu thông.
Tuy nhiên việc đIều hành công cụ này chỉ có hiệu quả khi hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh có thể chiếm lĩnh phần lớn thị trường tiền tệ, đồng thời có sự phối hợp chặt chẽ giữa các công cụ cùng các biện pháp hành chính khác. Khi các thị trường tiền tệ, vốn phát triển và khi hệ thống các ngân hàng thương mại, các tổ chức tài chính phát triển đa dạng, phong phú thì việc điều hành bằng công cụ này không còn thích hợp.
Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế:
Hạn mức tín dụng đối với nền kinh tế được căn cứ vào các chỉ tiêu: tốc độ tăng trưỏng nền kinh tế, biến động của chỉ số giá cả ( lạm phát ), biến động của tỷ giá, tỉ lệ thất nghiệp và bội chi ngân sách. Ví dụ : lạm phát 10%, GDP dự tính tăng 10%, suy ra M1 phảI tăng 20%, hạn mức cho vay có thể tăng 20%. Sau khi xác định hạn mức chung, Ngân hàng trung ương sẽ tiến hành phân bổ cho các ngân hàng thương mại tuỳ theo khả năng của từng ngân hàng.
Đây là công cụ tác động trực tiếp vào khối lượng tiền trong lưu thông. Việc Ngân hàng trung ương quy định hạn mức tín dụng sẽ tác động đến việc cung ứng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại và từ đó ảnh hưởng đến lượng tiền cung ứng. Cụ thể: khi Ngân hàng trung ương tăng hạn mức tín dụng sẽ dẫn đến khả năng tăng vốn tín dụng của các ngân hàng thương mại cho nền kinh tế, tăng khả năng tạo tiền, từ đó làm tăng lượng tiền cung ứng. Ngược lại khi Ngân hàng trung ương giảm hạn mức tín dụng sẽ khống chế khả năng cung ứng tín dụng của hệ thống ngân hàng cho nền kinh tế, giảm khả năng tạo tiền qua hệ thống này, do đó làm giảm lượng tiền cung ứng.Công cụ này giúp cho Ngân hàng trung ương quản lý đIều chỉnh được lượng tiền cung ứng khi các công cụ khác tỏ ra kém hiệu quả, đặc biệt trong trường hợp lạm phát cao.
Tuy nhiên công cụ này có rất nhiều nhược điểm nên trong thực tế ít được sử dụng. Bởi vì nó triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại, đánh đồng các ngân hàng hoạt động hiệu quả và không hiệu quả. Khi hạn mức quá thấp mà nhu cầu vốn quá cao sẽ dẫn tới lãi suất tăng, ảnh hưởng tới đầu tư, việc làm, đồng thời làm phát sinh các hình thức tín dụng nằm ngoài khả năng kiểm soát của Ngân hàng trung ương như: hụi, hội, vay nóng,…Nếu hạn mức quá cao thì sẽ có ngân hàng không thể sử dụng hạn mức của mình, đặc biệt trong trường hợp hệ thống liên ngân hàng hoạt động chưa hiệu quả, từ đó dẫn đến làm giảm hoặc vô hiệu hoá vai trò quản lí của Ngân hàng trung ương. Hạn mức tín dụng cũng có thể làm sai cơ cấu đầu tư, bởi vì với hạn mức đã được xác định, các ngân hàng thương mại bao giờ cũng tìm đến những dự án đầu tư lớn, lĩnh vực đầu tư dễ sinh lời, bỏ mặc các lĩnh vực khác, gây khó khăn cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
6.Quản lý lãi suất:
Khi đã sử dụng mọi công cụ mà không thể điều khiển và chi phối lãi suất tín dụng trong nền kinh tế, Ngân hàng trung ương sẽ sử dụng công cụ quản lí lãI suất. ở công cụ này, Ngân hàng trung ương trực tiếp qui định mức lãi suất của các ngân hàng thương mại, có thể cả đầu vào lẫn đầu ra.
Thứ nhất, Ngân hàng trung ương có thể đưa ra khung lãi suất và các ngân hàng thương mại chỉ được phép điều chỉnh lãi suất của mình trong khuôn khổ đó. Tuỳ theo mục đích mà các khung lãi suất của các Ngân hàng trung ương có thể là lãi suất tiền gửi tối đa - lãi suất cho vay tối thiểu ( bảo đảm lợi ích của các ngân hàng ) hoặc lãi suất tiền gửi tối thiểu - lãi suất cho vay tối đa ( bảo đảm lợi ích cho khách hàng của ngân hàng ).
Thứ hai, Ngân hàng trung ương có thể đưa ra trần lãI suất hoặc sàn lãi suất, tức là mức lãi suất tối đa, hoặc tối thiểu mà các Ngân hàng trung ương được phép cho vay hoặc huy động vốn.
Công cụ này chỉ thực sự có hiệu quả nếu nó được kết hợp chặt chẽ với công cụ tỷ giá. Việc lạm dụng quản lý lãi suất cũng sẽ làm triệt tiêu động lực cạnh tranh giữa các ngân hàng trong việc hạ lãi suất thu hút khách hàng và các ngân hàng thương mại cũng sẽ rất bị động trong việc huy động vốn và cho vay.
7.Can thiệp vào tỷ giá hối đoái:
Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh giữa hai đồng tiền hay giá cả một đơn vị tiền nước này bằng bao nhiêu đơn vị tiền nước khác. Theo Luật Ngân hàng nhà nước Việt Nam thì tỷ giá hối đoái là tỷ lệ giũa giá trị đồng tiền Việt Nam so với giá trị đồng tiền của nước ngoài.
Giả Sử: Giá tính theo Việt Nam đồng là P1.
Giá tính theo Đô la Mỹ là P2.
Nếu một mặt hàng có giá trị là P2 = 100USD, tỷ giá e = 14000 thì quy ra VND mặt hàng đó có giá P1 = 14600 x 100 = 1.460.000VND.
Tỷ giá thay đổi ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền. Khi tỷ giá tăng đồng tiền nội tệ mất giá, khi tỉ giá giảm đồng tiền nội tệ tăng giá.Về mặt dài hạn tỷ giá do thực trạng nền kinh tế mỗi nước quyết định. Về mặt ngắn hạn tỷ giá chịu sự ảnh hưởng bởi lượng tiền cung ứng của Ngân hàng trung ương.
Quan hệ cung cầu hàng hoá xuất nhập khẩu cân bằng góp phần làm cân bằng cung cầu ngoại tệ và có liên quan đến lượng tiền cung ứng trong nước, đến tăng trưởng kinh tế.Việc Ngân hàng trung ương mua ngoại tệ trên thị trường ngoại hối làm tăng lượng tiền cung ứng và dẫn đến tỷ giá tăng. Ngược lại khi Ngân hàng trung ương bán ngoại tệ trên thị trường ngoại hối, thu nội tệ về thì trên thị trường, lượng tiền cung ứng sẽ giảm xuống làm cho tỷ giá giảm.
Tỷ giá là một công cụ rất quan trọng, nó góp phần phát triển sản xuất hàng hoá nhập khẩu, mở rộng thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Bằng việc tác động vào tỷ giá, Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu hay nhập khẩu tuỳ theo mục tiêu từng thời kì. Tuy nhiên việc sử dụng công cụ này đòi hỏi Ngân hàng trung ương phải cân nhắc một cách kĩ lưỡng vì nó ảnh hưởng đến quan hệ kinh tế quốc tế, đến hệ thống kinh doanh ngoại hối của hệ thống ngân hàng thương mại. Muốn chính sách can thiệp tỷ giá thực sự trở thành công cụ trung gian, hỗ trợ đắc lực cho các công cụ khác của chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương phải có những đIều kiện nhất định. đó là khối lượng dự trữ quốc gia và ngoại tệ dành cho quĩ bình ổn phải đủ lớn, các biện pháp hành chính và hệ thống pháp luật phải thật đồng bộ và phải thực sự có hiệu lực. Mặt khác bản thân đồng tiền phải tương đối ổn định, không còn lạm phát ở mức độ cao.
Chương II
Thực trạng việc sử dụng các công cụ
của chính sách tiền tệ ở Việt Nam
Như đã trình bày ở trên, chính sách tiền tệ có thể được đIều hành thông qua một hệ thống khá phong phú các công cụ. Các công cụ này có phương thức đối tượng, quy mô, tác động khác nhau.Tuỳ theo đặc điểm kinh tế từng quốc gia ở từng thời kì mà Ngân hàng trung ương các nước có thể quyết định sử dụng công cụ nào, điều đó cũng có nghĩa là có những quốc gia thiên hẳn về phía chỉ sử dụng một số công cụ nào đó. Ví dụ ở Nhật Bản, Ngân hàng trung ương không hề quy định dự trữ bắt buộc mà để cho các ngân hàng thương mại tự quyết định lấy mức dự trữ của mình, trái lại nghiệp vụ thị trường mở lại được sử dụng khá thường xuyên. ở những nước phát triển, nơi mà thị trường tiền tệ đã phát triển đến trình độ cao, các quan hệ trên thị trường tiền tệ đã đủ khả năng định hướng cho hoạt động ủa các tổ chức tín dụng đi vào hiệu qủa, thì nhà nước có xu hướng giảm bớt sự điều tiết của mình và mở rộng quyền tự do kinh doanh cho các tổ chức tín dụng. Khi đó Ngân hàng trung ương sẽ chuyển sang sử dụng các công cụ diều tiết gián tiếp, bao gồm: nghiệp vụ thị trường mở, chính sách chiết khấu và dự trữ bắt buộc. Còn ở những nước kém phát triển như nước ta, nơi mà hoạt động liên ngân hàng còn chưa hiệu quả, Ngân hàng trung ương bắt buộc phải sử dụng các công cụ điều tiết trực tiếp, bao gồm hạn mức tín dụng và khung lãi suất. Tuy nhiên theo xu hướng của thời đại, ngân hàng Nhầ Nước Việt Nam đang cố gắng hạn chế việc sử dụng các công cụ đIềutiết trực tiếp và chuyển sang cơ chế điều tiết gián tiếp.
I.Điều hành chính sách tiền tệ ở Việt Nam giai đoạn từ 1996 đến nay.
Nét nổi bật trong thời kì này là nước ta đã dành được những thắng lợi hết sức to lớn trên mặt trận kinh tế, kết thúc quá trình tạo tiền đề vật chất cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá, bước sang giai đoạn mới: giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tiếp tục đi lên Chủ Nghĩa Xã Hội. Mục tiêu cơ bản của chính sách tiền tệ nước ta giai đoạn này là: ổn định sức mua trong nước của đồng bản tệ, duy trì giá trị hợp lí đối với ngoại tệ trong các giao dịch đối ngoại, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt động tài chính trong nền kinh tế, kiềm chế lạm phát ở mức hợp lí, góp phần tạo ra mức tăng trưởng cao và vững chắc.Các công cụ chính sách tiền tệ trong thời kì này được diều hành cụ thể như sau:
Hạn mức tín dụng: Công cụ này được Ngân hàng nhà nước áp dung điều hành chính sách tiền từ năm 1994, đã có tác động hiệu quả đến việc hạn chế tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán trong những năm 1995-1997 và qua đó kiềm chế lạm phát. Tuy nhiên từ cuối năm 1997 và đầu năm 1998 công cụ hạn mức tín dụng đã dần mất vai trò của nó trong việc hạn chế việc gia tăng của tổng phương tiện thanh toán. Hơn nữa việc mở rộng phương tiện thanh toán trong giai doạn này là cần thiết để thúc đẩy tăng trưởngkinh tế, nếu tiếp tục thực hiện hạn mức tín dụng sẽ tạo ra khó khăn cho các ngân hàng thương mại trong việc mở rộng tín dụng. Do vậy từ quý II năm 1998, Ngân hàng nhà nước đã không áp dụng công cụ hạn mức tín dụng như là một công cụ thường xuyên trong điều hành chính sách tiền tệ . Mặc dù vậy mức tăng trưởng tín dụng vẫn được tiếp tục theo dõi để có những giải pháp kịp thời nhằm hạn chế sự gia tăng khi nó có xu hướng tăng cao.
Dự trữ bắt buộc: Dự trữ bắt buộc được thực hiện theo qui chế dự trữ bắt buộc được ban hành theo quyết định số 396/1997/QĐ-NHNN ngày 1/12/1997 của thống đốc Ngân hàng nhà nước và có hiệu lực kể từ tháng 1.1998 dến nay. Qui chế dự trữ bắt buộc lần này được qui định cụ thể hơn thể hiện ở việc quy định tiền gửi dự trữ bắt buộc tai Ngân hàng nhà nước được tính bình quân trong cả kì duy trì. Năm 1998 tỉ lệ dự trữ bắt buộc được áp dụng cho các tổ chức tín dụng và các loạI tiền gửi huy động có kì hạn dưới 12 tháng là 10%, từ tháng 3 đến tháng 6 năm 1999 tỷ lệ này là 7% và từ tháng 6 năm 1999 là 6%. Ngân hàng nhà nước không trả lãI suất cho tiền gửi dự trữ bắt buộc. Đối với tiền gửi dự trữ vượt quá Ngân hàng nhà nước áp dụng lãi suẩt 0,2%/ tháng ( bằng VND ) và 4,86%/năm ( bằng ngoạI tệ ). Đồng thời những tổ chức thiếu tiền gửi dự trữ bắt buộc trong kì duy trì bị phạt mức 200% lãi suất cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng nhà nước ( đối với dự trữ bắt buộc bằng VND ) và 200% lần lãi suất cho vay bằng đô la do thống đốc Ngân hàng nhà nước quy định trong cùng thời kì (đ ối với dự trữ bắt buộc bằng USD ). Trong năm 2000 tỷ lệ dự trữ bắt buộc được quy dịnh là 5% trên tổng số dư tiền gửi dưới 12 tháng đối với các tổ chức tín dụng ở đô thị và 1% đối với các tổ chức tín dụng ở nômhg thôn. Từ tháng 10 năm 2000 riêng tiền gửi dự trữ bắt buộc bằng ngoại tệ được nâng từ mức 5% nên 8% và từ ngày 1.12.2000 được đIều chỉnh lên tới 12% trên tổng số dư tiền gửi bằng ngoạI tệ dưới 12 tháng áp dụng cho tất cả các loại hình tổ chức tín dụng.
Tái cấp vốn: Ngân hàng nhà nước thực hiện tái cấp vốn ngắn hạn nhằm bù đắp khó khăn tạm thời về thanh toán cho các ngân hàng thương mại theo hình thức cho vay thế chấp bằng tiền gửi ngoại tệ của các ngân hàng thương mại taị Ngân hàng trung ương . Năm 1998 lãi suất tái cấp vốn được đIều chỉnh từ 1%/tháng lên 1,1%/tháng. Năm 1999 cùng với việc giảm trần lãi suất cho vay, lãi suất tái cấp vốn cũng được giảm xuống mức 0,85%/tháng. Hiện nay lãi suất cho vay tái cấp vốn của Ngân hàng nhà nước là 0,5%/tháng và lãi suất tái chiết khấu là 0,45%/tháng.
Lãi suất : Thời kì này đánh dấu hai sự thay đổi căn bản về đIêu hành lãi suất, thích ứng với nhịp độ cải cách kinh tế của Việt Nam, đó là đIều hành chính sách lãi suất thông qua mức lãi suất trần, và sau đó là lãi suất cơ bản tiến tới tự do hoá lãi suất.
Đối với lãi suất trần, Ngân hàng nhà nước khống chế tỉ lệ chênh lệch giữa cho vay và lãi suất huy động ở mức 0,35%/tháng. Trần lãi suất trong năm 1999 được Ngân hàng nhà nước điều chỉnh liên tục phù hợp với chỉ số lạm phát, quan hệ cung cầu vốn tín dụng tạI từng thời điểm. Tháng 5 năm 1999 trần lãi suất cho vay bằng VND được đIều chỉnh giảm từ 1,2%/tháng xuống mức 1,15%/tháng. Từ tháng 6 năm 1999 từ chỗ nhiều trần lãi suất (ngắn, trung và dàI hạn), đã thống nhất một trần áp dụng chung cho các tổ chức tín dụng, không phân biệt quốc doanh hay cổ phần. Tháng 8 năm 1999 Ngân hàng nhà nước tiếp tục đIều chỉnh giảm lãi suất cho vay bằng VND từ 1,15%/tháng xuống 1,05%/tháng. Đến tháng 10 năm 1999 trước tình hình thiểu phát của đầu năm 1999 Ngân hàng nhà nước lạI một lần nữa điều chỉnh giảm trần lãi suất xuống còn 0,85% đối với khu vực thành thị.
Việc giảm liên tiếp trần lãi suất cho vay là một biện pháp của Ngân hàng nhà nước để đối phó với tình trạng thiểu phát và góp phần thực hiện giảI pháp kích cầu về đầu tư của chính phủ thông qua cơ chế nới lỏng lãi suất tín dụng. Tuy nhiên biện pháp hành chính này đã gây ra khó khăn rất lớn cho các ngân hàng thương mại trong việc duy trì lợi nhuận, thậm chí còn đe doạ đến khả năng đảm bảo an toàn thanh toán. Vì vậy sau một thời gian chuẩn bị xây dựng đề án với nhiều ý kiến, quan đIểm khác nhau đến ngày 5.8.2000 Ngân hàng nhà nước đã chính thức chuyển sang cơ chế đIều hành theo lãi suất cơ bản. Các ngân hàng thương mại được chủ động quy định mức lãI suất cho vay cụ thể của mình theo biên độ xoay quanh lãi suất cơ bản. Từ tháng 8 đến tháng 12 ăm 2000 lãi suất cơ bản đối với VND vẫn liên tục được giữ nguyên ở mức 0,75%/tháng. Các ngân hàng thương mại được qui định mức lãI suất cho vay cụ thể xoay quanh biên độ 0,3%/ tháng đối với cho vay ngắn hạn và 0,5%/tháng đối với cho vay trung và dài hạn. Đầu tháng 3.2001 do sự sụt giảm đồng loạt của mức lãi suất trên thị trường tiền tệ của nhiều quốc gia trên thế giới, Ngân hàng nhà nước Việt Nam dã quyết định giảm mức lãi suất cơ bản xuống 0,025%/tháng, tức là ở mức 0,725%.
Nghiệp vụ thị trường mở: Đầu tháng 7 năm 2000, lần đầu tiên Ngân hàng nhà nước đã chính thức đưa nghiệp vụ thị trường mở vào hoạt động, đIều nàu hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Tổng số đã có 14 ngân hàng thương mại đăng kí và được chấp nhận là thành viên của thị trường. Bình quân 10 ngày tổ chức một phiên giao dịch. Đến đầu tháng 12 năm 2000 ngân hàng thương mại đã tổ chức được 13 phiên giao dịch với tổng khối lượng tín phiếu mua bán là 1428 tỷ đồng ( mua vào 878 tỷ đồng, bán ra 550 tỷ đồng ).Lãi suất giao dịch từ 4,95% đến 5,58%.
Trong năm 2000 Ngân hàng nhà nước cũng đã tổ chức được 43 phiên đấu thầu trái phiếu kho bạc, bình quân mỗi tuần một phiên. Tổng kế hoạch đưa ra đấu thầu là 6500 tỷ đồng trong khi tổng số vốn đăng kí dự thầu là 12.000 tỷ đồng, tổng khối lượng trúng thầu là 4800 tỷ đồng. lãi suất trúng thầu đầu năm là 6%/năm đến giữa năm giảm xuống còn 4,9%/năm và cuối năm tăng lên là 5,3%-5,35%/năm.
Tỷ giá hối đoái và quản lí ngoại hối: Thông qua việc can thiệp và công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên thị trường giao dịch liên ngân hàng, Ngân hàng nhà nước đã đIều chỉnh tăng tỷ giá giữa VND và USD đần dần, đều dặn qua các phiên giao dịch, tránh tạo nên các cú sốc tăng đột giá, gây bất lợi cho các doanh nghiệp và thị trường. Trong ca s tháng cuối năm , bình quânmỗi phiên giao dịch tỷ giá tăng từ 5 dồng đến 7 đồng/USD. Từ đó làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại đIều chỉnh tỷ giá mua bán của mình đối với khách hàng, tác động đến tỉ giá trên thị trường tự do. Đến cuối năm 2000 tỷ giá trên cả ba thị trường đã tăng so với đầu năm như sau :
Thị trường ngoạI tệ liên ngân hàng tăng 3,1% (14.450/14.016 đồng)
Thị trường mua bán của các ngân hàng thương mại tăng 2,9% (12.460/14042 đồng).
Thị trường tự do tăng 3,96% (14.700/14139 đồng).
Trong lĩnh vực quản lý ngoại hối, Ngân hàng nhà nước quy định lại nguyên tắc giao dịch tỷ giá, sắp xếp lại các bàn thu đổi ngoạI tệ, mở rộng thêm đối tượng vay, bán ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài.
II. Những mặt hạn chế và nguyên nhân.
Một điều không thể phủ nhận là bước sang thời kì đổi mới, chính sách tiền tệ đã chứng tỏ vai trò hết sức quan trọng trong tổng thể các chính sách kinh tế vĩ mô của quốc gia, có tác động đến toàn bộ hoạt động nền kinh tế. Nó đã duy trì sự ổn định của hệ thống tiền tệ, giữ vững giá trị của đồng bản tệ, tạo lòng tin trong nước và nứơc ngoài thúc đẩy đầu tư, góp phần thúc đẩy sự tăng trưởng liên tục và vững chắc của nền kinh tế, kìm giữ lạm phát. Trong thực tế cơ chế diều chỉnh cũ đã đem lại sự thành công đáng kể cho chính sách tiền tệ trong thập kỉ 90 khi nhìn vào các chỉ số vĩ mô, lạm phát, sản lượng, việc làm. Chính sách tiền tệ đã đạt được hiệu quả tối đa của nó: tỷ lệ lạm phát đã được duy trì ở mức một con số cùng tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 8,6%/năm trong gần 10 năm.
Tuy nhiên trong thời gian gần đây, chính sách tiền tệ của Ngân hàng nhà nước đã bắt đầu tỏ ra lúng túng và thiếu chủ động trong việc đIều tiết lượng tiền cung ứng, đảm bảo với nhu cầu phù hợp tiền tệ của nền kinh tế. Lí do chính dẫn đến tình trạng này là hạn chế vốn có của sơ chế đIều hành cũ, mà cụ thể là những công cụ đIều tiết mà Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã sử dụng từ trước đến nay.
Thứ nhất các công cụ này không cho phép Ngân hàng nhà nước có thể điều chỉnh linh họat lượng vốn khả dụng trong điều kiên ứ thừa. Tình trạng dự trữ không mong muốn của các ngân hàng thương mại bắt đầu từ 1994 và kéo dài cho đến nay. Lý do ban đầu có lẽ bởi sự duy trì lãi suất tiền gửi cao cùng với việc khống chế trần tín dụng trong những năm 1994-1996. Dự trữ ngoạI tệ tăng lên rất mạnh trong thời gian này và tỷ lệ tiền mặt trên tiền gửi có xu hướng giảm xuống ( năm 1995 tỷ lệ này là 1,3; năm 1996 là 0,8; 1997 là 0,5 ).Tuy nhiên lí do chính của tình trạng này từ năm 1997 đến nay lạI nằm ở sự giảm sút tổng cầu của nền kinth tế, phản ánh sự giảm sút nhu cầu tiền tệ, đặc biệt nhu cầu giao dịch. Thực tế này làm cho các ngân hàng thương mại phảI chị áp lực rất mạnh về chi phí vốn đồng thời làm giảm thiểu tính hiệu quả của chính sách tiền tệ . NgoàI dự trữ bắt buộc ( thay đổi rất chậm chạp ), Ngân hàng nhà nước không có các côg cụ để hấp thụ lượng vốn khả dụng thừa một cách chủ động.
Hai là các công cụ này ngày càng tỏ ra thiếu chủ động trong việc điều chỉnh lượng tiền cung ứng và do đó làm giảm hiệu lực của chính sách tiền tệ. Điều này thể hiện rõ nét trong các năm 1998, 1999, 2000, khi trần lãi suất và lãi suất cơ bản giảm liên tục nhưng giá cả không những không tăng mà tiếp tục giảm. Đương nhiên sự giảm sút này xuất phát chủ yếu từ các yếu tố thực của nền kinh tế chứ không hoàn toàn từ yếu tố tiền tệ danh nghĩa. nhưng chính sách tiền tệ đã không chủ động khi đối mặt với tình trạng này và do đó làm cho sự tác động của nó trở nên kém hiệu quả. Về mặt lí thuyết hiệu quả ngắn hạn của chính sách tiền tệ có được khi nó tạo được các cú sốc tiền tệ ( theo Milton Friedmen ) hoặc nó xuát phát từ sự dự tính không hoàn hảo của công chúng đối với sự biến động của giá cả theo quan điểm của Luca. Tuy nhiên trên thực tế các quyết định điều chỉnh của trần lãi suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc thường đuổi theo sự giảm giá và đi sau sự đIều chỉnh tự phát của thị trường hoặc nó phải căn cứ vào dấu hiệu của thị trường ( lãi suất, tỷ giá, giá cả ) thay cho việc tạo nên những dấu hiệu đó. Các đợt điều chỉn trần lãi suất có tác dụng khẳng định hơn là hướng dẫn diễn biến thực tế và dự đoán của công chúng. Điều này rõ ràng đã triệt tiêu ảnh hưởng tích cực của chính sách tiền tệ .
Ba là, hiệu lực tác động của chính sách tiền tệ bị hạnh chế vì không lợi dụng được các kênh dẫn truyền đa dạng qua lãi suất, qua kênh tín dụng và qua thị trường tài chính với những ảnh hưởng qua giá trái phiếu, cổ phiếu và ngoại tệ. Việc sử dụng các công cụ trực tiếp và các chính sách điều chỉnh như hiện nay chỉ cho phép chính sách tiền tệ tác động đến các mục tiêu vĩ mô thông qua kênh dẫn truyền trực tiếp và chủ yếu thông qua tác động về mặt khối lượng. Kênh dẫn truyền gián tiếp chủ yếu lợi dụng cơ chế tác động cuả thị trường tàI chính thông qua sự thay đổi giá tài sản và sự cơ cấu lại danh mục đầu tư. Với các công cụ đầu tư gián tiếp, đặc biệt là nghiệp vụ thị trường mở, Ngân hàng trung ương có thể đa phương truyền tác động của nó đến các mục tiêu cuối cùng của chính sách tiền tệ, bao gồm các kênh dẫn truyền trực tiếp và gián tiếp.
Việc phân tích những hạn chế của công cụ trực tiếp cũng như chỉ ra những lợi thế của công cụ gián tiếp trong đIều hành chính sách tiền tệ không có nghĩa là phủ nhận hoàn tác động tích cực của chúng trong đIều tiết lượng tiền cung ứng trong thời gian qua. Trong thực tế khi các điều kiện sử dụng gián tiếp chưa chín muồi bao gồm: (1)Hệ thống ngân hàng lành mạnh trong cơ chế cạnh tranh; (2).Thị trường tiền tệ thứ cấp hoạt động tích cực và được điều tiết hiệu quả; (3).Các công cụ ảnh hưởng có hiệu quả đến lãi suất của các kênh truyền dẫn được hoàn thiện, thì việc sử dụng các công cụ trực tiếp đảm bảo được tính hiệu quả nhất định của nó. Tuy nhiên đã đến lúc cơ chế diều chỉnh chính sách tiền tệ cần được thay đổi, nền kinh tế đang đứng trước thách thức của nhu cầu mở cửa và hội nhập toàn diện, một chính sách tiền tệ cứng nhắc và kém hiệu quả sẽ không đảm bảo cho nó tránh được những ảnh hưởng mạnh mẽ từ thị trường bên ngoài. Hơn nữa sau 10 năm đổi mới và với những cải cách mạnh mẽ trong lĩnh vực ngân hàng, những diều kiện cho phép sử dụng cơ chế đIều chỉnh gián tiếp đang dần hình thành, hứa hẹn một khả năng chắc chắn cho sự chuyển đổi cơ chế đIều tiết lượng tiền cung ứng.
Chương III
Các giảI pháp nhằm nâng cao hiệu quả
các công cụ chính sách tiền tệ ở Việt Nam:
I.Những quan điểm, định hướng hoàn thiện:
Mục tiêu trực tiếp của chính sách tiền tệ ở Việt Nam là thúc dẩy tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát. Do đó các chỉ tiêu chính đề ra cho năm 2001: khối lượng tiền cung ứng, mức tăng tổng phương tiện thanh toán, tốc độ tăng của nguồn vốn huy động và tố độ tăng của dư nợ cho vay nền kinh tế sẽ tương ứng với các chỉ tiêu đạt được năm 2000, và hướng tới đạt được chỉ tiêu tăng trưởng GDP và mức độ lạm phát theo nghị quyết của Quốc Hội đã đề ra. Trong đó dự toán tổng phương tiện thanh toán tăng 20-22%, tổng khối lượng tiền cung ứng tăng 24-26%, huy động vốn tăng 25-27%, dư nợ cho vay nền kinh tế tăng 20-22%.
Chính sách tiền tệ cũng cần được cụ thể hoá theo hướng tích cực với nguyên tắc nới lỏng, linh hoạt, đồng bộ và hiệu lực. Những cơ chế, qui chế, thể lệ hợp thức hơn, mang đầy đủ hiệu lực pháp lí hơn được áp dụng. Từng bước chuyển nhanh, chuyển mạnh đIều hành chính sách tiền tệ bằng những biện pháp mệnh lệnh hành chính còn khá phổ biến sang sử dụng có hi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0868.doc