MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 3
PHẦN A: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 4
1- Khái niệm về công ty chứng khoán. 4
2. Hình thức tổ chức: 4
3. Chức năng nhiệm vụ của công ty chứng khoán: 9
PHẦN B: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 14
1. Hoạt động môi giới. 14
2. Hoạt động tự doanh. 16
3. Hoạt động bảo lãnh phát hành. 17
4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. 19
4.1 Tư vấn đầu tư chứng khoán. 19
4.2 Tư vấn niêm yết. 19
4.1 Tư vấn khác. 19
5. Các hoạt động khác. 19
PHẦN C: NHẬN XÉT VÀ ĐÁNH GIÁ. 26
KẾT LUẬN 28
TÀI LIỆU THAM KHẢO 29
32 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2442 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tìm hiểu về công ty chứng khoán, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tổ hợp để mua chứng khoán của tổ chức phát hành với giá chiết khấu so với giá chào bán ra công chúng (POP)[1] và bán lại các chứng khoán đó ra công chúng theo giá POP. Chênh lệch giữa giá mua chứng khoán của các tổ chức bảo lãnh và giá chào bán ra công chúng được gọi là hoa hồng chiết khấu.
- Bảo lãnh theo phương thức dự phòng: đây là phương thức thường được áp dụng khi một công ty đại chúng phát hành bổ sung thêm cổ phiếu thường ở các nước phát triển. Trong trường hợp đó, công ty cần phải bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện hữu, và như vậy, công ty phải chào bán cổ phiếu bổ sung cho các cổ đông cũ trước khi chào bán ra công chúng bên ngoài. Dĩ nhiên, sẽ có một số cổ đông không muốn mua thêm cổ phiếu của công ty. Do vậy, công ty cần có một tổ chức bảo lãnh dự phòng sẵn sàng mua những quyền mua không được thực hiện và chuyển thành những cổ phiếu để phân phối ra ngoài công chúng. Có thể nói, bảo lãnh theo phương thức dự phòng là việc tổ chức bảo lãnh cam kết sẽ mua nốt số chứng khoán còn lại chưa được phân phối hết của tổ chức phát hành và bán lại ra công chúng. Tại các nước đang phát triển, khi các tổ chức bảo lãnh còn non trẻ và chưa có tiềm lực lớn thì phương thức bảo lãnh phát hành dự phòng lại là phương thức bảo lãnh thông dụng nhất.
- Bảo lãnh với cố gắng cao nhất: là phương thức bảo lãnh mà theo đó tổ chức bảo lãnh tổ chức bảo lãnh thoả thuận làm đại lý cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo lãnh không cam kết bán toàn bộ số chứng khoán mà cam kết sẽ cố gắng hết sức để bán chứng khoán ra thị trường, nhưng nếu không phân phối hết sẽ trả lại cho tổ chức phát hành phần còn lại.
- Bảo lãnh theo phương thức bán tất cả hoặc không: trong phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán một số lượng chứng khoán nhất định, nếu không phân phối được hết sẽ huỷ toàn bộ đợt phát hành.
- Bảo lãnh theo phương thức tối thiểu - tối đa: là phương thức trung gian giữa phương thức bảo lãnh với cố gắng cao nhất và phương thức bảo lãnh bán tất cả hoặc không. Theo phương thức này, tổ chức phát hành yêu cầu tổ chức bảo lãnh bán tối thiểu một tỷ lệ chứng khoán nhất định (mức sàn). Vượt trên mức ấy, tổ chức bảo lãnh được tự do chào bán chứng khoán đến mức tối đa quy định (mức trần). Nếu lượng chứng khoán bán được đạt tỷ lệ thấp hơn mức yêu cầu thì toàn bộ đợt phát hành sẽ bị huỷ bỏ.
3.4 Chức năng tư vấn đầu tư
a. Khái niệm
Tư vấn đầu tư chứng khoán là đưa ra lời khuyên, phân tích các tình huống hay thực hiện một số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng.
b. Nguyên tắc của hoạt động tư vấn
- Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn họ bỏ ra kinh doanh, nhưng những báo cáo phân tích của họ lại có tác động tâm lý rất lớn đến người được tư vấn và có thề làm cho người được tư vấn hưởng lợi hay bị thiệt hại. Nhà tư vấn phải luôn là những người thận trọng khi đưa ra những lời bình luận về giá trị của các loại chứng khoán, nếu người đầu tư có lợi, kiếm được tiền từ lời tư vấn này thì họ sẽ vui mừng nhưng nếu họ bị thiệt hại thì họ sẽ tìm kiếm các nhà tư vấn để phàn nàn, thậm chí bắt bồi thường. do vậy, khi hành động, nhà tư vấn cần đặt ra và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, tối thiểu như sau:
+ Không bảo đảm chắc chắn về giá trị của chứng khoán.
+ Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần biết rằng nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những lời khuyên đó.
+ Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ cơ sở khách quan là sự phân tích tổng hợp một cách lôgích, khoa học.
3.5 Chức năng quản lý danh mục đầu tư
Đây là một dạng nghiệp vụ tư vấn của công ty chứng khoán nhưng ở mức độ cao hơn vì trong hoạt động này, khách hàng ủy thác cho công ty chứng khoán thay mặt mình quyết định đầu tư theo một chiến lược hay những nguyên tắc đã được khách hàng chấp thuận.
PHẦN B: TÌNH HÌNH HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN.
Thị trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ tháng 7 năn 2000, tính đến nay Ủy Ban Chứng Khoán Nhà nước đã cấp phép hoạt động kinh doanh chứng khoán cho 61 công ty , với tổng vốn điều lệ đạt 6.959 tỷ đồng. Trong đó có 47 công ty được cấp phép 4 nghiệp vụ môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán, tự doanh chứng khoán và bảo lãnh phát hành chứng khoán, ngoài ra các công ty còn thực hiện một số hoạt động kinh doanh khác như : Lưu ký chứng khoán, cầm cố chứng khoán, repo chứng khoán, dịch vụ thị trường vốn, dịch vụ thị trường nợ, quản lý tài sản, tư vấn phát hành trái phiếu doanh nghiệp.
1. Hoạt động môi giới.
Tính đến hết ngày 30/6/2007, số tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK đạt 255.185 tài khoản (tăng 169.001 tài khoản, tương đương 196% so với thời điểm ngày 31/12/2006). Trong đó, đối với những Công ty chứng khoán đã có bề dày hoạt động, đều chiếm tỷ trọng cao về số lượng nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch như: VCBS có 34.490 tài khoản, chiếm 16,52% tổng số tài khoản toàn thị trường; BVSC có 34.395 tài khoản, chiếm 13,48%; CTCK Sài Gòn (SSI) có 26.746 tài khoản, chiếm 10,48%; Công ty chứng khoán Ngân hàng Đầu tư (BSC) có 24.525 tài khoản, chiếm 9,61%. Bên cạnh đó, một số Công ty chứng khoán tuy mới triển khai hoạt động nhưng đã thu hút được khá nhiều nhà đầu tư, như SBS đạt 7.720 tài khoản, chiếm 3,03% thị phần, ABS đạt 6.104 tài khoản, chiếm 2.39% thị phần, Công ty chứng khoán Vndirect đạt 5.195 tài khoản, chiếm 2.04% thị phần...
Tổng giá trị giao dịch chứng khoán của nhà đầu tư trong tháng 6/2007 qua các Công ty chứng khoán đạt 25.196 tỷ đồng. Những Công ty chứng khoán có doanh số môi giới giao dịch lớn đa số là những công ty đã có nhiều năm hoạt động, có nhiều nhà đầu tư mở tài khoản (xem bảng dưới đây).
Đơn vị: tỷ đồng
Công ty chứng khoán
Doanh số giao dịch tháng 6/2007
Thị phần giao dịch tháng 6/2007
VCBS
6.362,5
25,25%
ACBS
3.361
13,34%
SSI
3.253
12,91%
BVSC
2.182
8,66%
BSC
1.313
5,21%
2. Hoạt động tự doanh.
Thời điểm hiện nay các CTCK hoạt động tự doanh vẫn chưa thực sự nổi bật, các CTCK mới chỉ tập trung vào hoạt động môi giới. Điều này có thể được nhìn nhận dưới rất nhiều lý do khác nhau như: tính chất phức tạp của hoạt động tự doanh hay các CTCK chỉ muốn tập trung hoàn thiện nghiệp vụ môi giới trước để từ đó rút kinh nghiệm triển khai các hoạt động có liên quan trong tương lai... Phức tạp bởi vì muốn tự doanh thành công phải trải qua nhiều bước như: xây dựng chiến lược đầu; khai thác và tìm kiếm cơ hội đầu tư; phân tích, đánh giá chất lượng cơ hội đầu tư; thực hiện đầu tư; quản lý đầu tư và thu hồi vốn. Từ năm 2006 đến năm 2007 nghiệp vụ tự doanh đang trên đà phát triển nhanh chóng.
Nghiệp vụ tự doanh của CTCK có thể chia thành 2 lĩnh vực:
Thứ nhất, các CTCK thực hiện việc mua bán chứng khoán niêm yết cho chính công ty mình. Tuy nhiên, hiện nay do số lượng các chứng khoán niêm yết còn ít nên nghiệp vụ này hầu như chưa được triển khai.
Thứ hai, các CTCK thực hiện hoạt động tự doanh bằng hình thức như mua chứng khoán không niêm yết trên OTC. Tuy nhiên hoạt động này phải tuân thủ những hạn mức do pháp luật quy định.
Ngoài ra, một hoạt động tự doanh phổ biến hiện nay của một số CTCK là việc mua chứng khoán niêm yết lô lẻ, sau đó CTCK sẽ gộp lại thành lô chẵn để niêm yết và có thể bán lại trên Trung tâm Giao dịch chứng khoán. Đây là một lĩnh vực có khả năng mang lại lợi nhuận tương đối lớn cho các CTCK. Giá mua lô lẻ được xác định bằng thỏa thuận giữa khách hàng bán với CTCK, do đó các CTCK có điều kiện để đưa ra mức giá phù hợp để thu hút khách hàng, tạo sự chủ động cho các CTCK trong hoạt động kinh doanh của mình.
Năm 2004, cùng với môi giới, nghiệp vụ tự doanh cũng được các công ty chú trọng thực hiện, nhiều công ty tăng vốn điều lệ để được thực hiện nghiệp vụ này như CTCK Sài Gòn tăng vốn 2 lần lên 20 tỷ đồng, CTCK Thăng Long tăng vốn từ 9 tỷ lên 43 tỷ đồng, CTCK Ngân hàng ĐT&PT và CTCK Ngân hàng NN&PTNT tăng vốn lên 100 tỷ để gia tăng tiềm lực tài chính, có điều kiện mở rộng các loại hình kinh doanh chứng khoán. Tổng giá trị giao dịch và doanh thu tự doanh đã tăng mạnh qua các năm mặc dù mức độ có khác nhau ở từng công ty. Hiện đã sự thay đổi về kết cấu danh mục đầu tư chứng khoán tự doanh ở các CTCK. Nếu như 2 năm đầu mới đi vào hoạt động (2000-2002), các công ty tập trung vào tự doanh cổ phiếu chưa niêm yết thì bắt đầu từ nửa cuối năm 2002 đến nay các công ty tập trung vào tự doanh trái phiếu và cổ phiếu niêm yết.
Những CTCK tự doanh nhiều cổ phiếu là CTCK Đệ Nhất, CTCK ACB. Những CTCK tự doanh nhiều trái phiếu là CTCK Ngân hàng NN&PTNT, CTCK Ngân hàng ngoại thương, CTCK Ngân hàng công thương, CTCK ngân hàng ĐT&PT. Sự gia tăng về giá trị trái phiếu tự doanh trong thời gian gần đây đã góp phần kích hoạt thị trường thứ cấp về trái phiếu, điều mà hơn 2 năm trước đây không có được.
Tổng giá trị chứng khoán tự doanh tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 9.667 tỷ đồng (tăng 4.671 tỷ đồng, tương đương 48,31% so với thời điểm 01/01/2007). Đối với 14 CTCK đã hoạt động lâu năm, giá trị chứng khoán tự doanh (2 công ty là SCBS và BSC không báo cáo số liệu này) tính tại thời điểm ngày 30/6/2007 đạt 5.997 tỷ đồng (tăng 1.000 tỷ đồng, tương đương 16,69% so với giá trị ngày 01/1/2007). Một số công ty có giá trị tự doanh cuối kỳ tăng khá nhanh và đạt giá trị cao.
Đối với khối CTCK được cấp phép vào cuối năm 2006, tại thời điểm đầu kỳ, giá trị tự doanh không đáng kể vì công ty chưa triển khai hoạt động thì đến thời điểm 30/6/2007, giá trị chứng khoán tự doanh của khối công ty này đạt 3.345 tỷ đồng (chiếm 35,63% giá trị tự doanh của 59 CTCK). Một số công ty đã đẩy nhanh nghiệp vụ tự doanh mặc dù hoạt động chưa lâu như: CTCK Ngân hàng Sacombank (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 571 tỷ đồng), CTCK Vndirect (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 587 tỷ đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á (giá trị chứng khoán tự doanh đạt 458 tỷ đồng).
3. Hoạt động bảo lãnh phát hành.
Ở Việt Nam, theo qui định tại Thông tư 01/1998/TT-UBCK ngày 13/10/1998 của UBCK Nhà nước hướng dẫn Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng thì bảo lãnh phát hành được thực hiện theo một trong hai phương thức sau:
- Mua toàn bộ số lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu được phép phát hành để bán lại. Đây chính là phương thức cam kết chắc chắn vì tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua toàn bộ lượng cổ phiếu hoặc trái phiếu của đợt phát hành.
- Mua số cổ phiếu hoặc trái phiếu còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết Đây thực chất cũng là một dạng của phương thức cam kết chắc chắn, nhưng tổ chức bảo lãnh phát hành cam kết mua phần chứng khoán còn lại của đợt phát hành chưa được phân phối hết.
Hoạt động bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán vẫn tập trung chủ yếu là bảo lãnh phát hành các loại trái phiếu như trái phiếu chính phủ cho Kho bạc Nhà nước, trái phiếu ngân hành, trái phiếu đô thị.
Trong 6 tháng đầu năm 2007 chỉ có 4 hợp đồng bảo lãnh được thực hiện, xem số liệu sau:
Công ty
Khối lượng bảo lãnh
Giá bảo lãnh (đồng)
Vốn chủ sở hữu của CTCK (tỷ đồng)
Hình thức bảo lãnh
Số hợp đồng bảo lãnh
Giá trị bảo lãnh (triệu đồng)
BVSC
5.314
33.500
150
Chắc chắn
1
178
ACBS
880.000
67.000
250
Chắc chắn
1
58.960
Cty CK
Thăng Long
108.758
451.000
120
Chắc chắn
2
49.050
Số liệu trên cũng cho thấy, trong thời gian gần đây, có rất ít công ty chứng khoán thực hiện việc bảo lãnh phát hành và các công ty chưa chú trọng đầu tư tìm kiếm khách hàng, đào tạo nhân sự, xây dựng quy trình chuẩn để triển khai nghiệp vụ này.
4. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.
4.1 Tư vấn đầu tư chứng khoán.
Mảng hoạt động này nhìn chung đã bắt đầu tiến triển với số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty đạt 55 hợp đồng (tại thời điểm 1/1/2007 chỉ có 6 hợp đồng tư vấn đầu tư). Điều này cho thấy trong sự phát triển, các CTCK đang dần chuyển sang hướng quan tâm, chú trọng hơn đến hoạt động chăm sóc khách hàng. Tuy nhiên, so với khoảng 255.000 tài khoản giao dịch chứng khoán tại các CTCK hiện nay, số hợp đồng trên là không đáng kể và tiềm năng để các CTCK phát triển mảng hoạt động này là không nhỏ. Tuy là CTCK được cấp phép cuối năm 2006 và triển khai hoạt động chưa lâu, CTCK An Bình hiện đang có số hợp đồng tư vấn đầu tư chứng khoán lớn nhất (50 hợp đồng).
4.2 Tư vấn niêm yết.
Tổng số hợp đồng tư vấn niêm yết tại thời điểm hiện nay của các CTCK là 100 hợp đồng, trong đó có 9 hợp đồng được ký trong tháng 6/2007 (so với 67 hợp đồng tại thời điểm 1/1/2007). Như vậy, hoạt động tư vấn niêm yết có những dấu hiệu khả quan hơn so với thời điểm đầu năm. Những CTCK đang thực hiện nhiều hợp đồng tư vấn niêm yết là CTCK Sài Gòn (30 hợp đồng), CTCK Ngân hàng ACB (14 hợp đồng), CTCK Ngân hàng Đông Nam Á.
4.1 Tư vấn khác.
Tổng số hợp đồng tư vấn khác tại ngày 30/6/2007 là 305 hợp đồng, trong đó có 77 hợp đồng được ký, 42 hợp đồng được thanh lý trong tháng 6/2007. Các hợp đồng này chủ yếu là hợp đồng tư vấn cổ phần hóa và bán đấu giá cổ phần. Các công ty có nhiều hợp đồng tại thời điểm này là SSI (42 hợp đồng), ACBS (35 hợp đồng), IBS (32 hợp đồng).
Nhìn chung, hoạt động tư vấn đã có những phát triển đáng kể so với thời gian đầu năm, các CTCK đã chú trọng hơn đến nghiệp vụ tư vấn. Không chỉ những công ty đã hoạt động lâu năm mà những công ty được cấp phép trong năm 2006 cũng đã triển khai hoạt động này khá tốt.
5. Các hoạt động khác.
5.1 Lưu ký chứng khoán
Ngày 27/7/2005, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 189/QĐ-TTg về việc thành lập Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK). Theo Quyết định này, TTLKCK là đơn vị sự nghiệp có thu, thuộc Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước (UBCKNN)- Bộ Tài chính.
Việc ra đời TTLKCK là đòi hỏi tất yếu của thị trường chứng khoán Việt Nam ở giai đoạn phát triển hiện nay; đó cũng là xu hướng và theo thông lệ trên thị trường chứng khoán quốc tế, nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển.
Thông thường ở các nước trên thế giới, các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao dịch trên thị trường chứng khoán do một hoặc một số tổ chức độc lập với Sở Giao dịch Chứng khoán đảm nhận. Các tổ chức này được xây dựng theo một trong hai mô hình sau: (i) TTLKCK thực hiện toàn bộ các dịch vụ đó; hoặc (ii) TTLKCK và một tổ chức bù trừ cùng cung cấp các dịch vụ đó.
Ở Việt Nam, theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị Ban chấp hành Trung ương IX và Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam tới năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự kiến sẽ đưa tổng giá trị giao dịch trên thị trường chứng khoán đến năm 2005 đạt khoảng 2-3% GDP và đến năm 2010 sẽ đạt mức 10-15% GDP. Để đáp ứng được yêu cầu này, Bộ Tài chính, UBCKNN sẽ phải thực hiện đồng thời nhiều giải pháp phát triển thị trường, từ xây dựng Luật Chứng khoán, tạo cung cầu hàng hoá trên thị trường cho tới việc tạo dựng sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng của thị trường chứng khoán. TTLKCK ra đời tại Việt Nam sẽ góp phần tạo dựng lên sự đồng bộ kết cấu hạ tầng này, góp phần thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam.
Quy mô thị trường chứng khoán tập trung của Việt Nam hiện nay chưa lớn: Với gần 300 loại chứng khoán được niêm yết, đăng ký giao dịch tại Trung tâm Giao dịch Chứng khoán (TTGDCK) Tp. Hồ Chí Minh và TTGDCK Hà Nội (trong đó có 30 loại cổ phiếu niêm yết tại TTGDCK Tp. Hồ Chí Minh, 6 loại cổ phiếu đăng ký giao dịch tại TTGDCK Hà Nội; khoảng 260 trái phiếu Chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu công ty; và 1 loại Chứng chỉ Quỹ đầu tư); hơn 24.000 tài khoản giao dịch chứng khoán của các nhà đầu tư tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước mở tại 13 công ty chứng khoán. Số chứng khoán này đã và đang được các nhà đầu tư giao dịch mua/ bán trên thị trường chứng khoán. Điều này có nghĩa là nhu cầu đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán là “có thực” trên thị trường chứng khoán hiện nay.
Hoạt động đăng ký, lưu ký và bù trừ, thanh toán chứng khoán hiện nay
Việc lưu ký chứng khoán hiện nay được thực hiện qua 2 cấp:
Cấp I- Người sở hữu chứng khoán phải lưu ký chứng khoán tại thành viên lưu ký (hiện có 13 công ty chứng khoán, 2 ngân hàng trong nước và 3 ngân hàng nước ngoài là thành viên lưu ký);
Cấp II- Thành viên lưu ký sẽ tái lưu ký chứng khoán đó tại TTGDCK.
Thực tế hiện nay, hoạt động đăng ký, lưu ký và bù trừ, thanh toán chứng khoán (bao gồm cả chứng khoán niêm yết/đăng ký giao dịch và chứng khoán không niêm yết/đăng ký giao dịch trên 2 TTGDCK) được thực hiện thông qua 2 Phòng Đăng ký- Thanh toán bù trừ- Lưu ký chứng khoán của 2 TTGDCK. Chức năng, nhiệm vụ của Phòng Đăng ký- Thanh toán bù trừ- Lưu ký chứng khoán tại TTGDCK là:
(i) Đăng ký chứng khoán: Thực hiện đăng ký lưu ký chứng khoán; ghi nhận quyền sở hữu chứng khoán; thực hiện quyền cho người sở hữu và cấp mã số kinh doanh chứng khoán cho nhà đầu tư nước ngoài;
(ii) Lưu ký chứng khoán: Mở và quản lý tài khoản lưu ký chứng khoán cho các thành viên lưu ký, Ngân hàng Nhà nước, tổ chức tín dụng; lưu giữ an toàn chứng khoán; chuyển giao chứng khoán qua hệ thống bút toán ghi sổ;
(iii) Thanh toán bù trừ: Thực hiện phương thức bù trừ đa phương và thanh toán giao dịch chứng khoán theo chu kỳ T+3; thực hiện nguyên tắc giao chứng khoán đồng thời với thanh toán tiền; quản lý Quỹ hỗ trợ thanh toán.
Trong thời gian tới, cầu về dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ việc hoàn tất giao dịch mua/bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán tập trung và phi tập trung là rất lớn bởi vì:
(i) Chính phủ đang thực hiện quyết liệt cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước, tạo hàng hoá cho thị trường cộng với trên 2.000 doanh nghiệp Nhà nước đã cổ phần hoá và hàng nghìn công ty cổ phần đang hoạt động sẽ tạo lên một khối lượng hàng hoá “khổng lồ” cho thị trường chứng khoán;
(ii) Các loại trái phiếu Chính phủ, trái phiếu Quỹ Hỗ trợ phát triển, cùng với hơn 250 doanh nghiệp trong danh sách các công ty cổ phần thực hiện bán đấu giá cổ phần, niêm yết, đăng ký giao dịch tại các TTGDCK Việt Nam trong năm 2005 theo Quyết định số 528/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, sẽ tạo khối lượng lớn hàng hoá cho thị trường chứng khoán tập trung trong năm nay và những năm tiếp theo.
Trước đòi hỏi thực tế của thị trường chứng khoán Việt Nam và theo thông lệ quốc tế, việc “gộp” 2 bộ phận đăng ký, lưu ký, bù trừ và thanh toán chứng khoán tại 2 TTGDCK để hình thành một TTLKCK độc lập với Sở Giao dịch Chứng khoán/TTGDCK là một “thực tiễn khách quan”, làm cho loại hình dịch vụ này trở lên an toàn hơn và chuyên nghiệp hơn.
TTLKCK đi vào hoạt động ngoài việc tạo sự đồng bộ về kết cấu hạ tầng cho thị trường chứng khoán Việt Nam; cung cấp các dịch vụ đăng ký, lưu ký và thanh toán, bù trừ chứng khoán như đã đề cập ở trên còn mang lại nhiều lợi ích khác như:
i) Giảm rủi ro và chi phí liên quan đến việc thanh toán các giao dịch chứng khoán do giao dịch mua/bán chứng khoán được thực hiện tự động và không thanh toán bằng tiền mặt, trao tay;
ii) Nâng cao hiệu quả cho nghiệp vụ sau thanh toán đối với các thành viên của TTLKCK từ đó sẽ nâng cao tính hiệu quả trong các dịch vụ cung cấp cho nhà đầu tư như chi trả cổ tức;
iii) Tiêu chuẩn hoá giữa các thành viên tham gia thị trường, từ đó tạo ra sự hài hoà, đồng bộ giữa các mặt của thị trường chứng khoán;
iv) Góp phần tạo thuận lợi cho việc thúc đẩy tiến trình phát triển và hội nhập của thị trường chứng khoán Việt Nam vào thị trường tài chính khu vực và thế giới, mà đặc biệt là thực hiện kết nối giữa các thị trường chứng khoán khu vực cũng như việc hình thành thị trường trái phiếu chung của khu vực trong thời gian tới;
v) TTLKCK cung cấp các dịch vụ liên quan tới giao dịch chứng khoán cho người đầu tư nước ngoài thông qua các tổ chức lưu ký toàn cầu hoặc thông qua quan hệ đại lý giữa TTLKCK trong nước và các TTLKCK nước ngoài, tạo thuận lợi cho việc tham gia đầu tư của người đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam.
Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam có thể được hình dung như sau:
Trên thị trường chứng khoán có 3 nhóm thành viên tham gia thị trường: Nhóm thứ nhất là các tổ chức phát hành chứng khoán, nhóm thứ 2 là các nhà đầu tư chứng khoán và nhóm thứ 3 là các tổ chức tài chính trung gian tham gia thị trường. TTLKCK cùng với tổ chức bảo lãnh phát hành, tổ chức kinh doanh dịch vụ chứng khoán và tổ chức định mức tín nhiệm hình thành nên nhóm thứ 3 kể trên.
TTLKCK sẽ được tổ chức theo mô hình thứ nhất như đã đề cập ở phần đầu của bài viết, nghĩa là các dịch vụ đăng ký, lưu ký, bù trừ, thanh toán chứng khoán và các dịch vụ hỗ trợ cho việc hoàn tất giao dịch trên thị trường chứng khoán sẽ do một tổ chức độc lập duy nhất thực hiện là TTLKCK, không cần có thêm tổ chức bù trừ chứng khoán cùng đảm nhận.
5.2 Cầm cố chứng khoán
Các nguyên tắc và phương thức cầm cố CK:
A. Là một nghiệp vụ kinh doanh CK - ít nhất có hai chủ thể tham gia:
a/ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được người đi vay uỷ quyền giao CK cho bên nhận cầm cố;
b/ Bên cầm cố là thành viên lưu ký nhân danh chính mình hoặc được người cho vay uỷ quyền nhận cầm cố CK bên cầm cố.
Việc thực hiện cầm cố CK trên cơ sở hợp đồng pháp lý cầm cố CK của hai chủ thể tham gia, trong đó quy định rõ giá trị CK cầm cố, số tiền vay, lãi suất và thời hạn trả nợ, phương thức xử lý CK cầm cố.
B. TTGDCK sau khi kiểm tra thủ tục, nhất là tính hợp pháp, hợp lý của nó thì trung tâm phải mở tài khoản cầm cố và chuyển CK vào tài khoản cầm cố theo yêu cầu của bên cầm cố.
Trường hợp bên cho vay (hoặc bên vay) không phải là thành viên lưu ký, bên cho vay (hoặc bên vay) phải uỷ quyền việc nhận cầm cố CK (hoặc việc giao CK cầm cố) cho một thành viên lưu ký khác.
C. Tài khoản cầm cố phải tách biệt với tài khoản lưu ký các CK khác của bên cầm cố. Sau khi ghi vào tài khoản cầm cố CK, thì phải đình chỉ việc rút, chuyển khoản hoặc chuyển nhượng các CK trên tài khoản cầm cố trong thời gian cầm cố. TTGDCK gửi thông báo bằng công văn cho bên nhận cầm cố về việc đã thực hiện cầm cố CK.
D. Việc giải toả cầm cố CK được thực hiện theo các nguyên tắc:
- Người giải toả cầm cố CK phải là bên nhận cầm cố CK;
- Có thể giải toả toàn bộ hoặc một phần CK cầm cố bằng hình thức rút chứng chỉ hay chuyển khoản;
- Có văn bản đề nghị giải toả cầm cố CK của bên nhận cầm cố. Trên cơ sở đó, TTGDCK thực hiện huỷ bỏ việc cầm cố CK trong đăng ký người sở hữu CK và thông báo bằng văn bản cho người nhận cầm cố việc huỷ bỏ cầm cố CK và giải toả tài khoản cầm cố sang tài khoản khác.
Nếu bên cầm cố CK thực hiện không đúng theo thoả thuận thì CK cầm cố đó được xử lý do các bên thoả thuận hoặc đưa ra bán đấu giá theo quy định của pháp luật
5.3 Repo chứng khoán
Repo chứng khoán được hiểu là một giao dịch trong đó các chứng khoán được mua ở tỉ lệ giao ngay và được mua lại ở tỉ lệ kì hạn. Về bản chất thì nghiệp vụ repo giống như một khoản vay có đảm bảo bằng các chứng khoán và các tài sản đảm bảo khác. Về hình thức biểu hiện thì repo chứng khoán sử dụng một hợp đồng mua lại ( còn gọi là hợp đồng rp) trong đó quy định các điều khoản mà mỗi bên tham gia phải tôn trọng.
Một hợp đồng repo quy định các điều sau :
+ Tư cách của các bên tham gia : là nhà đầu tư ( người cho vay tiền), nhà buôn ( người đi vay)
+ Quyền hạn và nghĩa vụ của mỗi bên
+ Tài sản đảm bảo
+ Tài sản dùng để repo : như là trái phiếu, cổ phiếu, hay các chúng khoán khác. Trên thế giới sử dụng nhiều nhất là các trái phiếu chínhphủ vì tính an toàn của nó.
+ Cách tính lãi suất repo, thời hạn của hợp đồng, phương pháp định giá lại chứng khoán cơ sở, biên độ giao động, khoản giảm trừ.
+ Các điều khoản xử lý các vấn đề phát sinh trong thời gian thực hiện repo+ Các điều khoản khác
Khi hai bên thực hiện kí một hợp đồng repo thì bên A tức bên Nhà buôn sẽ thực hiện bán số chứng khoán tương đương với một khoản tiền vay nào đó tại một tỉ lệ lãi suất chấp nhận được cho cả hai bên cho bên B ( nhà đầu tư) và cam kết sẽ mua lại vào một thời gian nào đó ( thông thường dưới 1 năm vì hợp đồng repo là công cụ trên thị trường tiền tệ). Giá mua lại chưng khoán là :
Giá mua lại = Giá bán lần 1*( 1 + lãi suất repo/365* số ngày thực sự sở hữu chứng khoán)
Nói chung thì một giao dịch repo có hai giai đoạn là giai đoạn bán chứng khoán và giai đoạn mua lại chứng khoán.
Tham gia chủ yếu vào giao dịch repo là các nhà đầu tư có tổ chức lớn như ngân hàng, công ty chưng skhoán., các quỹ đầu tư..., các nhà buôn, nhà kinh doanh chưng skhoán, ngân hàng trung ương, các tổ chức cung cấp dịch vụ riêng cho hoạt động repo. Hợp đòng repo cũng được coi là một công cụ thực hiện chính sách tiền tệ trong ngắn hạn.
Để hoạt động repo diễn ra suôn sẻ và tránh thiệt hại cho mỗi bên khi giá các chứng khoán repo bị biến động bởi thị trường thì các bên tham gia thường thỏa thuận với nhau một biên độ giao động giá hay một khoản giảm trừ đối với các chứng khoán repo. Vì thế giá của các chứng khoán cơ sở thường thấp hơn so với giá thị trường. Khoản giảm trừ này là tương đối nhỏ đối với các trái phiếu kho bạc và trái phiếu chính phủ và lớn hơn đối với cổ phiếu.
Nghiệp vụ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Tìm hiểu về công ty chứng khoán.doc