Đề tài Tổng quan về Gia Định Báo

Mục lục

Phần I: Khái quát lịch sử ra đời và sự phát triển của Gia Định Báo 1

1. Lịch sử ra đời của Gia Định Báo 1

1.1 Nguyên nhân ra đời 1

1.2 Lịch sử ra đời Gia Định Báo 1

1.3 Ngày phát hành số báo đầu tiên 2

1.4 Gia Định Báo tồn tại trong bao lâu? 2

2. Tiến trình phát triển của Gia Định Báo 3

Phần II: Cơ cấu tổ chức của Gia Định Báo 4

1. Bộ máy quản lý của Gia Định Báo 4

2. Chủ bút và cộng tác của Gia Định Báo 5

2.1 Sơ lược tiểu sử một số cá nhân tiêu biểu của Gia Định Báo 6

Phần III: Nội dung, hình thức và đặc điểm ngôn ngữ của Gia Định Báo 12

1. Nội dung của Gia Định Báo 12

2. Hình thức trình bày của Gia Định Báo 13

3. Đặc điểm ngôn ngữ của Gia Định Báo 14

Phần IV: Ý nghĩa của Gia Định Báo 16

1. Đóng vai trò tiên phong trong tiến trình phát triển báo chí Việt Nam 16

2. Đóng góp một mảng mới vào nội dung của báo chí trong khu vực 16

3. Đóng vai trò to lớn trong việc truyền bá chữ Quốc ngữ 17

4. Gia Định Báo là cơ sở để nghiên cứu lịch sử Việt Nam 17

Phần phụ lục: 18

Thứ vụ - một chuyên mục giá trị của Gia Định Báo (nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Hà) 18

Giá trị của Gia Định Báo 20

Tin tức chiến sự trên Gia Định Báo (Nhà nghiên cứu Đào Ngọc Chương) 20

Tài liệu tham khảo 23

 

 

doc24 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4255 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về Gia Định Báo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iết cho tờ Gia Định báo (tờ báo bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên) do ông Ernest Potteaux làm quản nhiệm. Năm 1866, ông thay thế Linh mục Croc làm Hiệu trưởng Trường Thông ngôn. Ngày 15 tháng 9 năm 1869, ông được Thủy sư đô đốc Pháp là Ohier bổ nhiệm làm chủ bút tờ Gia Định báo và tờ An Nam chính trị và xã hội. Ngày 1 tháng 1 năm 1871, Trường Sư phạm (École normale) được thành lập, Pétrus Ký được cử làm Hiệu trưởng. Ngày 1 tháng 4 năm 1871, Pétrus Ký được Pháp phong hạng nhất huyện (hàm), được cử làm thư ký Hội đồng châu thành Chợ Lớn. Năm 1873, Pétrus Ký được giao nhiệm vụ điều hành trường Tham biện Hậu Bổ (Collège des administrateurs stagiaires), dạy Việt và Hán văn và cũng bắt đầu viết sách. Năm 1876, Thống đốc Nam Kỳ Duperré cử ông ra Bắc Kỳ tìm hiểu tình hình miền Bắc. Năm 1877, ông là hội viên duy nhất và đầu tiên người Nam, được cử làm ủy viên hội đồng cai trị Sài Gòn. Năm 1883, ông được Hàn Lâm Viện Pháp phong hàm Viện sĩ (Officier d'Académie). Năm 1886, Paul Bert (nghị sĩ, hội viên Hàn lâm, bác học gia sinh vật học) được cử sang Đông Dương làm khâm sứ Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Vốn là bạn từ trước, nên Paul Bert mời Trương Vĩnh Ký ra Huế giúp việc. Đến Huế, Pétrus Ký được vua Đồng Khánh cho lãnh chức trong Cơ mật viện Tham tá, sung Hàn lâm viện Thị giảng học sĩ. Ngày 11 tháng 11 năm đó, Paul Bert bất ngờ bị bệnh chết, Trương Vĩnh Ký bị nhóm thực dân không cùng cánh bỏ rơi, bạc đãi; và bản thân Pétrus Ký sau đó cũng bị triều đình Huế nghi kỵ và trù dập nên ông lấy cớ đau phổi xin từ chức về lại Sài Gòn dạy học tại trường Hậu Bổ, trường Thông ngôn và viết sách... Cuối đời Mặc dù đã trở về đời sống của một viên chức, nhưng Trương Vĩnh Ký vẫn bị người khác phe tìm cách hạ bậc lương và làm khó dễ việc vào ngạch giáo sư sinh ngữ Đông Phương của ông. Rồi năm 1888, trường Thông ngôn đóng cửa, Pétrus Ký gần như thất nghiệp. Và khi trước, lúc còn được ưu ái, những sách của Trương Vĩnh Ký đều được nhà cầm quyền Pháp bỏ tiền ra in, để phân phối cho học sinh. Nhưng từ khi bị hất hủi, lui về ẩn dật ở Chợ Quán, ông phải bỏ tiền riêng ra in ấn và tự phát hành. Sách ế ẩm khiến Pétrus Ký phải mắc nhiều nợ. Năm 1887, sau khi đi công tác ở Bangkok để giải quyết vấn đề giữa Thái Lan và Đông Dương, ông nghỉ hưu. Năm 1888, ông xuất bản tạp chí tư nhân Thông Loại Khóa Trình (Miscellanées) được 18 số (1888-1889). Sống trong hoàn cảnh buồn bã, túng quẩn, bệnh hoạn luôn, Pétrus Ký qua đời vào ngày 1 tháng 9 năm 1898. Mộ phần và nhà ở khi xưa của ông (nay là nơi thờ phụng ông), hiện nằm nơi góc đường Trần Hưng Đạo và Trần Bình Trọng thuộc Quận 5, thành phố Hồ Chí Minh. Chức vụ, huân huy chương Không những Trương Vĩnh Ký là một nhà văn tiền phong của nền văn học chữ quốc ngữ mà ông còn là một học giả rất nổi tiếng. Trong quá trình hoạt động, ông đã được nhận các chức việc và huân huy chương: - Nhận huy chương Dũng sĩ cứu thế của Tòa thánh La Mã ngày 1 tháng 10 năm 1863. - Năm 1871, được cử làm hội viên Hội Nhân Văn và Khoa học vùng Tây Nam nước Pháp, Hội nhân chủng học, Hội Giáo dục Á châu. - Năm 1874, được phong giáo sư ngôn ngữ Á Đông, vì Pétrus Ký đã thông hiểu 27 sinh ngữ trên thế giới. - Trong cuộc bầu chọn “ Toàn Cầu Bác Học Danh Gia” vào năm 1874, Pétrus Ký đã được bình chọn đứng hàng thứ 17 trong 18 “ Thế giới Thập Bát Văn Hào”.[4]. - Nhận huy chương Isabelle la Catholique của Tây Ban Nha ngày 27 tháng 6 năm 1886. - Trở thành hội viên Hội chuyên khảo về Văn hóa Á Châu ngày 15 tháng 2 năm 1876. - Trở thành hội viên Hội chuyên học địa dư ở Paris ngày 7 tháng 7 năm 1878. - Nhận huy chương Hàn Lâm Viện đệ nhị đẳng của Pháp ngày 17 tháng 5 năm 1883. - Nhận Tứ đẳng Long Tinh, Ngọc Khánh, Long Khánh của Nam triều ngày 17 tháng 5 năm 1886. - Nhận Bắc Đẩu Bội Tinh đệ ngũ đẳng của Pháp ngày 4 tháng 8 năm 1886. - Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Pháp ngày 3 tháng 6 năm 1887 - Nhận Hàn Lâm Viện đệ nhất đẳng của Hoàng gia Cam Bốt. - Vua Đồng Khánh ban cho ông chức Hàn Lâm viện Thị giảng học sĩ. - Vua Khải Định ban hàm Lễ Bộ Tham Tri. - Vua Bảo Đại ban hàm Lễ Bộ Thượng Thư. - Trước đây, tên của ông được Bộ Giáo Dục Việt Nam Cộng hòa đặt cho một ngôi trường trung học lớn ở Sài Gòn. Sau năm 1975, trường này được đổi tên là trường trung học Lê Hồng Phong. Một số tác phẩm Ông có rất nhiều tác phẩm (118 tác phẩm hoặc 121 tác phẩm), lược kê một số như: -Truyện đời xưa -Abrégé de grammaire annamite (Tóm lược ngữ pháp An Nam) -Kim Vân Kiều (bản phiên âm ra chữ quốc ngữ đầu tiên) -Petit cours de géographie de la Basse-Cochinchine - Cours de langue annamite (Bài giảng ngôn ngữ An Nam) - Voyage au Tonkin en 1876 (Đông Kinh du ký) - Guide de la conversation annamite (Hướng dẫn đàm thoại An Nam) - Phép lịch sự An Nam (Les convenances et les civilités annamites) - Lục súc tranh công .... 2.1.2 Huỳnh Tịnh Của Huỳnh Tịnh Của (1834-1907) hay còn gọi là Paulus Của ("Paulus" ở đây đọc là "Phao-lô"), hiệu Tịnh Trai, quê ở làng Phước Thọ, huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa (nay là huyện Đất Đỏ, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu), là một nhà văn hóa học và ngôn ngữ học có đóng góp xuất sắc trong việc nghiên cứu, phát triển và truyền bá chữ quốc ngữ trong giai đoạn đầu, đặc biệt là ở Nam bộ. Tiểu sử Thời trẻ, Huỳnh Tịnh Của đi du học tại một trường công giáo ở Penang, Malaysia. Sớm tiếp thu tư duy nghiên cứu khoa học phương Tây, ông tinh thông cả tiếng Hán và tiếng Pháp. Năm 1861, Huỳnh Tịnh Của được bổ nhiệm Ðốc phủ sứ, làm Giám đốc ty phiên dịch văn án ở Soái phủ Sài Gòn. Ngoài công việc của một viên chức chính phủ, ông còn lưu tâm giành nhiều thời gian nghiên cứu chữ quốc ngữ. Năm 1865, ông thay Trương Vĩnh Ký làm chủ bút tờ công báo quốc ngữ Gia Ðịnh báo trong một thời gian ngắn. Mặc dù tinh thông cả Pháp văn lẫn Hán văn, tuyệt đại đa số các tác phẩm của ông được viết bằng chữ quốc ngữ, vào thời bấy giờ vẫn chưa được coi trọng và bị đánh giá thấp hơn so với chữ Hán hay chữ Pháp. Huỳnh Tịnh Của từng đề nghị dùng chữ quốc ngữ thay cho chữ Hán và gửi một bản điều trần cho vua Tự Đức, yêu cầu cho xuất bản báo chí quốc ngữ để giáo dục quần chúng, nhưng không được chấp nhận. Tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa phương Tây, Huỳnh Tịnh Của cùng chia sẻ một quan niệm với Trương Vĩnh Ký, theo đó, xã hội Việt Nam có khả năng và cần vận dụng các kiến thức và kinh nghiệm của học thuật phương Tây về các vấn đề khoa học, kỹ nghệ, kinh tế và chính trị, để canh tân, nhưng vẫn giữ gìn, đào sâu và phát triển văn hóa phương Đông cổ truyền để duy trì bản chất và bảo tồn độc lập. Ông là một trong số ít người "Tây học" đầu tiên trước tác bằng chữ quốc ngữ để truyền bá học thuật phương Tây, nhưng vẫn không quên phổ biến văn hóa phương Đông cổ truyền. Sau và cùng với Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của là người có công xây đắp rất nhiều cho nền văn chương quốc ngữ trong những bước đầu, nhất là ở Nam Kỳ. Ông mất năm Đinh Mùi (1907), thọ 73 tuổi, an táng tại Bà Rịa. Tác phẩm Huỳnh Tịnh Của sáng tác cả thảy khoảng 17 tác phẩm. Có thể xếp chúng thành hai loại: loại biên khảo và loại phiên âm. Loại biên khảo có nội dung phổ biến kiến thức hoặc sưu tầm phóng tác các tác phẩm đời trước, bao gồm: 1. Chuyện giải buồn, 2 tập, 112 truyện (in năm 1880 và 1885); 2. Maximes et proverbes (1882); 3. Gia lễ (1886); 4. Bác học sơ giai (1887); 5. Quan chế (1888); 6. Ðại Nam quấc âm tự vị, 2 cuốn (1895 và 1896); 7. Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1897); 8. Câu hát góp (1904); 9. Ca trù thể cách (1907). Loại phiên âm, chuyển sang quốc ngữ những chuyện nôm xưa của các tác gia đời trước, bao gồm: 1. Quan âm diễn ca (in năm 1903); 2. Trần Sanh diễn ca (1905); 3. Chiêu Quân cống Hồ truyện (1906); 4. Bạch Viên Tôn Các truyện (1906); 5. Văn Doanh diễn ca (1906); 6. Thoại Khanh, Châu Tuấn truyện (1906); 7. Thơ mẹ dạy con (1907); 8. Tống Tử Vưu truyện (1907). Đa số các sách trên đều đã thất truyền, chỉ còn tìm lại được ba cuốn là Ðại Nam quốc âm tự vị, Chuyện giải buồn và Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn. 2.1.3. Trương Minh Ký Trương Minh Ký (sinh ngày 23 tháng 10 năm 1855, mất 11 tháng 8 năm 1900),biệt hiệu Thế Tải là học trò của Trương Vĩnh Ký. Ông thông Hán và giỏi Pháp văn, làm thông ngôn cho nhà cầm quyền Pháp, cộng tác với Trương Vĩnh Ký trên tờ Gia Định báo, Thông Loại Khóa Trình cũng như viết sách dạy Pháp văn. Sự nghiệp Ông hành văn cũng bình dân, mộc mạc như Trương Vĩnh Ký và Huỳnh Tịnh Của, chuyên dịch chữ Hán ra quốc ngữ và sử dụng văn vần nhiều hơn văn xuôi. Ông có được trao tặng: - Huy chương Hàn Lâm Viện Pháp quốc (Officier d'académie) - Kim Khánh bội tinh của Nam triều và Hoàng gia Campuchia. Ông mất vào ngày 11-08-1900, mộ ông được chôn cất trong nghĩa trang gia đình, nơi Trương Gia Từ nằm trên đường Lý Thường Kiệt, Gò Vấp, Gia Định ( Gần Tổng Y Viện Công Hòa). Tác phẩm - Phong thần bá áp khảo - Ấu học khải phong - Trị gia cách ngôn - Cổ văn chơn bửu - Pháp học tân lương (Cours gradué de Langue-Francaise) 1895 - Recueil de Brochures sur l"histoire de la littérature Annamite, relié 1891 2.1.4. Diệp Văn Cương Diệp Văn Cương (? - 1929), hiệu Thọ Sơn, bút hiệu Yên Sa, Cuồng Sĩ; là nhà báo, nhà giáo ở đầu thế kỷ 20. Ông được Vương Hồng Sển xem là nhân vật đại diện nhóm trí thức. Thân thế và sự nghiệp Diệp Văn Cương sinh tại Cao Lãnh, tỉnh Sa Đéc (nay thuộc tỉnh Đồng Tháp). Năm sinh của ông không rõ. Nhiều nhà nghiên cứu ghi năm sinh ông khác nhau như R. B. Smith ghi 1876, Nguyên Thăng ghi 1862, Lê Nguyễn thì ước đoán khoảng thập niên 1860. Thuở nhỏ, nhà nghèo nhưng hiếu học, ông được chính quyền thực dân Pháp ở Nam Kỳ cho đi học tại trường Giám mục d'Adran. Nhờ vậy, sau khi tốt nghiệp trung học, ông được chính quyền thực dân cấp học bổng du học ở Alger vào đầu thập niên 1880 và đỗ tú tài ở Pháp cùng với Nguyễn Trọng Quản (1865–1911). Làm thầy vua Thành tài về nước, Diệp Văn Cương được chính quyền thuộc địa cho theo quốc tịch Pháp và đi dạy tại Trường Chasseloup Laubat (tục danh là "Trường Bổn quốc"). Trong thời gian này, ông về cư ngụ tại gia trang riêng ở làng An Nhơn, quận Gò Vấp, hạt Gia Định (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh). Tháng 4 năm 1886, Paul Bert được cử sang làm Tổng công sứ Trung - Bắc Kỳ. Ông được mời ra Huế làm thông ngôn cho tòa Khâm sứ Huế. Cuối năm đó, ông được cử làm thầy dạy tiếng Pháp cho vua Đồng Khánh thay cho Trương Vĩnh Ký. Khoảng tháng 5 năm 1887, triều đình Huế mở trường dạy tiếng Pháp, gọi là Sở Hành Nhơn, ông được cử làm Chưởng giáo (Hiệu trưởng), hàm Kiểm thảo. Ông lập gia đình với Công nữ Thiện Niệm, con của Thoại Thái vương Hồng Y, em vua Dục Đức và là cô ruột của Hoàng tử Nguyễn Phúc Bửu Lân. Giúp Bửu Lân lên ngôi Vua Ðồng Khánh mất, Cơ mật viện không dám chọn vua mới nên phải sang Tòa khâm sứ để hỏi ý kiến. Diệp Văn Cương đang làm việc tại đây (chức vụ Bí thư kiêm thông dịch viên cho Tòa Khâm) lãnh trách nhiệm thông dịch. Tương truyền, ông đã giúp cháu ruột của vợ là Hoàng tử Bửu Lân nối ngôi vua. Sách Nguyễn Phước Tộc Thế Phả (trang 39) chép: Cơ mật viện hỏi: "Hiện nay vua Ðồng Khánh đã thăng hà, theo ý của quí Khâm sứ thì nên chọn ai kế vị?". Diệp Văn Cương dịch câu trên thành: "Nay vua Ðồng Khánh đã thăng hà, lưỡng tôn cung và Cơ mật viện đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân lên nối ngôi, không biết ý kiến của quí Khâm sứ như thế nào?" Nghe vậy quan Khâm sứ đáp: "Nếu lưỡng cung và Cơ mật viện đã đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân thì tôi xin tán thành". Câu này Diệp Văn Cương lại dịch là: "Theo ý tôi thì các quan Cơ mật nên chọn hoàng tử Bửu Lân là hơn cả". Vào ngày 2 tháng 2 năm 1889, Bửu Lân lên ngôi đặt niên hiệu là Thành Thái. Khi đó, vị hoàng tử này mới 10 tuổi. Làm Chủ nhiệm Phan Yên báo Sau khi Thành Thái lên ngôi, ông trở lại Sài Gòn, làm Đầu Phòng phiên dịch cho Soái phủ Nam Kỳ. Vợ ông là bà Thiện Niệm vẫn ở lại Huế. Năm 1894, bà sinh một người con trai, đặt tên là Diệp Văn Kỳ. Khoảng cuối thập niên 1890, ông bước vào nghề báo, cộng tác với Gia Định báo, Thông loại khóa trình, Nhựt trình Nam Kỳ, và làm chủ nhiệm tờ Phan Yên báo. Các tài liệu ghi năm ra đời và năm đình bản của Phan Yên báo không giống nhau. Theo Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam thì đây là tờ báo tiếng Việt thứ hai sau Gia Định báo, ra đời 1898, do Diệp Văn Cương sáng lập và làm chủ nhiệm, xuất bản được 7 - 8 số thì bị nhà cầm quyền Pháp đình bản vì đăng nhiều bài phê phán chủ nghĩa thực dân, đặc biệt là loạt bài "Đòn cân Archimede" ký tên Cuồng Sĩ. Hoạt động chính trị ở Nam Kỳ Phan Yên báo bị đóng cửa, ông không nản chí trong việc tham gia hoạt động chính trị. Ông ra tranh cử và trúng cử chức Ủy viên trong Hội đồng Quản hạt tỉnh Bến Tre, rồi sau đó là Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ (Conseil Colonial de la Cochinchine). Theo Lê Nguyễn, ông cùng 5 nghị viên bản xứ trong Hội đồng Quản hạt Nam Kỳ thường xuyên dùng quyền phủ quyết công khai để bảo vệ quyền lợi cho dân thuộc địa. Điển hình như kiến nghị phản đối một số thừa sai dòng tu Công giáo chiếm đất và yêu cầu nhà cầm quyền đưa ra các biện pháp luật lệ bảo vệ đất đai của dân chúng năm 1907. Năm 1908, ông được bổ nhiệm làm biên tập tờ Gia Định báo, thay thế ông Nguyễn Văn Giàu, theo nghị định ngày 20 tháng 9 năm 1908 của Thống đốc Nam Kỳ Louis Alphonse Bonhoure. Năm 1910, ông giúp đỡ một người bạn đồng liêu cũ ở Huế là Nguyễn Sinh Sắc vào sinh sống ở Nam Kỳ. Khi gần tuổi hưu, ông đến dạy Sử học và Việt văn trường Chasseloup Laubat như trước. Ông mất năm Kỷ Tỵ (1929). Tác phẩm Tác phẩm của Diệp Văn Cương có: - Syllabaire quốc ngữ (sách vần quốc ngữ) (1919) - Recueil de morale annamite (1917) - Báo Phong Hóa (dịch từ chữ Hán ra chữ quốc ngữ). Ngoài ra theo Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam, ông còn có quyển Việt Nam luân lý tập thành. Cũng theo từ điển này, thì đây là quyển sách giáo khoa luân lý đầu tiên ở Việt Nam. + Như trên đã viết, những bài viết trên Gia Định Báo rất ít khi đề tên tác giả, do đó không thể thống kê chính xác được số lượng người đã viết, biên tập cho tờ báo này. Ngoài ra, nhiều tác giả chỉ biết tên mà tiểu sử không được biết đến nên không thể đề cập trong mục này. Phần III: Nội dung, hình thức và đặc điểm ngôn ngữ của Gia Định Báo Nội dung của Gia Định Báo Nội dung chính của Gia Định báo ban đầu gồm 2 phần: Công vụ và Tạp vụ. Phần Công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân; còn phần Tạp vụ gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, tôn giáo, văn hóa - xã hội... Sau khi Trương Vĩnh Ký làm giám đốc, Gia Định báo được thêm các phần khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích... Ông đề ra ba mục đích cho tờ báo: Truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân. Từ đó, báo không chỉ làm một tờ công báo đơn thuần nữa. Nhìn chung, cấu trúc của Gia Định Báo chia làm 4 phần chính: Đó là các phần: Công vụ; Ngoài công vụ; Thứ vụ; Quảng cáo + Công vụ - Tin dây thép Phần công vụ chuyên về các vấn đề chính trị, pháp lý, công quyền, đăng các công văn, nghị định, thông tư, đạo dụ của chính quyền thực dân. Ví dụ: “Quan Khâm mạng kinh cho các quan làm đầu về việc cai trị cùng các quan làm đầu phẩn sở hay giấy hòa ước cùng nhà nước Annam, quan Bộ Langsa là Patenôtre ký tồn tại Huế rối là ngày mồng 6 Juin. Thế cho quan Khâm mạng công xuất Le Géneral Bouet” (Gia Định Báo số 2 năm 22, ngày thứ bảy, 23 janvier 1886) - Trường thông ngôn: Bài vở học trong trường thông ngôn định ra như sau này: - Người Tây – Tiếng Annam Năm đầu: Cắt nghĩa chuyện đời xưa, văn Lục Vân Tiên Năm thứ hai: Cắt nghĩa Kim Vân Kiều, tuồng tập ca ngâm, thème, làm bài tiếng Annam... Ngoài ra còn có các mục như: - Chương trình giáo dục phổ thông: học sử Việt Nam, địa lý Việt Nam, kho học, thi cử - Tổ chức hành chính công vụ - Gọi thầu: Điện nước, ống cống, làm cầu, làm chợ, xe điện, tàu hỏa, tàu thủy - Làm mới địa bạ (sổ đỏ) - Luật mở hàng quán (Com-non Com) - Quy hoạch, phát triển thành phố - Hiệp ước quốc tế nhân danh Việt Nam + Phần ngoài công vụ Bao gồm các tin tức địa phương trên các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, tôn giáo, văn hóa xã hội...ngoài ra còn đăng tải các tin tức chiến sự. Ví dụ: “Các đạo binh Lang-sa đã vào mà lấy đặng Sơn Tây rồi...ngày 16 dé embre, sau khi thơ tôi đã gởi đi lần sau hết ấy Ngày 14, các tàu neo tại trông một chỗ ngã sông, xa thành chừng 1000 thước, mà khởi sự bắn trái phá lên thành...”(Gia Định Báo ngày 12-11-1884) + Phần thứ vụ Đây là một chuyên mục mang những thông tin mềm, phụ vục giải trí và giáo dục (giới thiệu chi tiết trong phần phụ lục, mục: Thứ vụ - một chuyên mục giá trị của Gia Định Báo) +Phần rao vặt và quảng cáo Phần này phục vụ người dân, chính quyền khi có nhu cầu. Ví dụ: + “Đến ngày mồng 1 janvier 1884, tiệm cầm đồ tại Chợ lớn sẽ dời qua đường Paris, số 12, 14, 16, 20. Tiệm cũ thì đóng cửa, công việc cũng y như trước. Về việc người ta nói những đồ cầm trong tiệm cũ, đến mồng 1 janvier tới sẽ phát mãi, thì là không thiệt bởi vì tiệm mới sẽ lấy hết” (Gia Định Báo ngày 5-1-1884) Số báo ngày 20-9-1885 có đăng Lời đa tạ của Đức Giám Mục Sài Gòn như sau: “Tại hạt Chợ lớn có một người bá hộ tên là Hà Minh Châu đã giao trong tay Đức giám mục Samôsát hai ngàn đồng bạc, có ý làm phước giúp mất người bổn đạo Bình Định mắc phải tồi tàn khốn nạn. Có một điều này đáng cho ai nấy làm lạ, càng đáng tặng khen, là vì kẻ đã làm ơn rộng hậu thế ấy chẳng phải là người giữ đạo Thiên Chúa, song là người ngoại giáo, mà đã lấy lòng đại độ, giữ câu ai nhơn như kỷ, thấy kẻ lầm than cơ khát, thì chạnh lòng ra tay thương giúp. Hẳn thật là những bổn đạo Bình Định ngày nay chả dám quên ơn rất trọng làm vậy, song sẽ nhớ cầu khẩn cùng đấng chí tôn xuống ơn chan chưa giúp kẻ đã tư trợ mình trong cơn eo hẹp Isidore Ev. De Samosate” 2. Hình thức trình bày của Gia Định Báo Thời gian đầu, tờ Gia Định Báo chỉ in có 4 trang, khổ giấy 32x25. Trên đầu trang nhất là chữ Gia Định Báo bằng chữ Hán. Bên dưới ghi: “Tờ báo này mỗi tháng tây cứ ngày rằm in ra một lần, ai muốn mua phải trả 6 góc tư” Thời gian không lâu, Gia Định Báo xuất bản mỗi tháng 2 lần. Thời gian tiếp sau đó phát hành mỗi tuần một lần vào thứ 3. Về cách trình bày, ta thấy các bài báo in xen kẽ nhau, bằng những cột dài, không có ngắt đoạn cũng như sang trang hay cột, điều này có thể do kỹ thuật layout thời bấy giờ còn thô sơ, lạc hậu. Thời gian 15 năm đầu, ngoài các phần Công vụ, các bài còn lại đăng ở phần Thứ vụ, thời gian sau tờ báo có 4 phần rõ ràng: Công vụ, Ngoài công vụ, Thứ vụ và Quảng cáo. Năm 1893, cách chia trên không còn tồn tại nữa, Gia Định Báo lúc này có 3 phần Công vụ, Tạp vụ và Quảng cáo. Năm 1898, Gia Định Báo có hai phần Công vụ và Thứ vụ. Nhưng trong phần mục lục báo năm 1909 lại ghi 4 phần: Công vụ, Cấp bằng, Thuyên bổ, Thứ vụ và Lời rao. Như vậy, đến khoảng năm 1880, các phần Ngoài công vụ và Quảng cáo lại tách khỏi Thứ vụ và phần Thứ vụ trở thành một chuyên mục riêng biệt. Gia Định Báo được coi là tờ báo tiếng Việt đầu tiên của nước ta, mặc dù việc trình bày các nội dung trên báo chưa được khoa học, do những nguyên nhân khách quan, nhưng điều này cũng không thể làm giảm những giá trị mà tờ báo này đã mang lại. Trang nhất của Gia Định Báo 3. Đặc điểm ngôn ngữ của Gia Định Báo Không xét đến ngôn ngữ của phần Công vụ + Những đặc điểm về từ ngữ Đặc điểm ngôn ngữ của Gia Định Báo, không xét đến những lỗi chính tả hay gặp liên quan đến những hiện tượng phát âm của người Nam Bộ như những lỗi về thanh điệu, phụ âm đầu và cuối... Đặc thù báo chí phát hành tại Nam Bộ nên sử dụng nhiều phương ngữ, những biến thể phát âm và từ địa phương. Những biến thể phát âm thường gặp nhất là: ai – ơi: thái quá/thới quá; an - ôn: Nhật Bổn; ật - ựt : nhật trình/nhựt trình; iê – ơ: hiệp/hợp; inh – anh: sinh/sanh; ưi – ơi: gửi/gởi; ương – anh: đường/đàng... Những từ địa phương thường gặp là: quạu – cáu, tức giận; xem - coi; nói táp láp – nói lảm nhảm; ngó – nhìn... Những từ và cách nói nay ít dùng: thấp trí, vãi đơn kiện, bay thấy sự hiệp giụm với nhau - mạnh vậy chăng – bay thấy sự hợp tác với nhau mạnh như vậy đó... + Về thuật ngữ: Vì hệ thống thuật ngữ chưa phát triển nên xảy ra ba xu hướng sau: + Để nguyên dạng nước ngoài: nước alcalines; đất kaolin ấy là một giống ngũ kim kêu là feldspath phân ra; savon + Dùng từ thông thường, từ Hán Việt, từ dùng pha cả từ thuần Việt với từ Hán Việt để tạo các thuật ngữ mới, nhưng một số thuật ngữ chưa chuẩn: “Mạch nước nóng, nước ngũ kim cùng nước phấn đá (nước ngũ kim là nước khoáng)” nước thán khí –nước chứa khí CO2 + Dùng thuật ngữ Hán Việt nhưng đôi khi chưa thích hợp, ví dụ : Nước lên quá khí hậu thường, kêu là nước nóng... Về tên riêng: Hoặc dùng theo âm Hán hoặc để nguyên dạng, ví dụ: nước Saxe, thành Sèvres, xứ Limoger, báo Hồng mao... Về từ vựng, có khá nhiều từ khác biệt so với cách dùng ngày nay như: chống chịu vây – kháng cự; làm nhơn dung – mở lòng khoan dung; bẻ từ cây gãy ráo – bẻ từng cây gãy ráo; dầu hết thì ba anh em gỡ xong việc – cuối cùng thì ba anh em cũng gỡ xong việc... Nhiều từ vay mượn từ tiếng Pháp còn lộn xộn, lúc thì dịch ra tiếng Việt, lúc thì để nguyên ngữ. Thậm chí, ngay trong một bài, có từ dùng theo cả hai cách. Chẳng hạn, “Cây chêne với cây cây sậy. Cây chêne bữa kia nói với cỏ roseau rằng...”. Từ roseau có nghĩa là cây sậy. Trước đây dùng nhiều từ đơn tiết. Những từ mà ngày nay là nhiều âm tiết thì trước đây là đơn tiết. Ví dụ: “anh em ở tử tế rất lạ - anh em ăn ở tử tế rất lạ thường”; ba anh em rẻ nhau – ba anh em chia rẽ nhau; bó giáo ấy còn nguyên hiện – bó giáo ấy còn nguyên hiện trường... + Những đặc điểm về ngữ pháp Liên từ và giới từ Trong tiểu loại ngụ ngôn, người ta kể lại câu chuyện một cách tự nhiên, theo đúng cách người nói của người Việt, mỗi sự kiện là một câu đơn phân cách với sự việc khác bằng dấu phẩy mà không cần dùng liên từ: Trật tự giống như thứ tự sự việc mà đã xảy ra. Ngày nay đôi khi không nói như vậy nữa. Ví dụ: có mạch nước vọt lên cho tới ba bốn mươi thước cao – có mạch nước vọt lên cao tới ba bốn mươi thước. Cách dùng liên từ và giới từ thường chưa được phân biệt rạch ròi, có nhiều từ lẫn lộn và dư thừa, đặc biệt là dùng lộn xộn các liên từ thì, và, mà + Ảnh hưởng của tiếng Pháp Tiếng Pháp có ảnh hưởng khá nhiều đến ngữ pháp tiếng Việt, về từ ngữ, khi dịch một danh từ, dấu vết của các quán từ xác định “le; la” còn để lại khá rõ, thường dịch kèm theo “con, cây, cái, đứa”. Ví dụ: Con chồn với con bò (Le Renard et la Cicogne) Nhiều dấu vết từ ngữ và cách diễn đạt trong tiếng Pháp còn để lại trong cách viết, nhất là cách dùng liên từ, giới từ và trợ từ. Ví dụ: Gió chi cho ngươi cũng là dông tố, gió nào cho ta cũng như không (Tout vuos est aqualion, tuot me semble zéphyr). Rõ ràng cấu trúc “tout vous...tout me”(tất cả những gì đối với ngươi...đối với ta) đã dẫn tới cách dùng từ cho để dịch. Tuy được viết cách đây hơn 100 năm và tuy có những nhược điểm nhất định trong cách diễn đạt, nhất là trong cách dùng các hư từ, nhưng có thể kết luận chung là: + Về cơ bản, ngôn ngữ trong Gia Định Báo gọn gàng, sáng sủa, giản dị và rất gần với tiếng Việt hiện đại. + Nhiều yếu tố tiếng Pháp, từ ngữ và cách diễn đạt đã ảnh hưởng tới ngôn ngữ của Gia Định Báo. Tờ báo này là một đầu nối quan trọng giúp tiếng Việt tiếp xúc nhanh với tiếng Pháp và người Việt tiếp xúc với văn hóa Pháp. + Gia Định Báo góp phần to lớn trong phát triển tiếng Việt Phần IV: Ý nghĩa của Gia Định Báo 1. Đóng vai trò tiên phong trong tiến trình phát triển báo chí Việt Nam Gia Định Báo là tờ báo tiếng Việt đầu tiên được xuất bản, nó đã đánh dấu bước khởi đầu cho nền báo chí Việt Nam. Và thực sự nó đã hoàn thành khá xuất sắc bước khởi đầu đó. Sau khi đặt dưới sự lãnh đạo của Trương Vĩnh Ký, thì ngoài chuyên mục công vụ đã có thêm những chuyên mục khác, đăng tải nhiều thể loại manh nha của thể loại báo chí hiện đại. Nghiên cứu Gia Định Báo chúng ta có thể thấy một số phong cách ngôn ngữ hiện đại như phong cách hành chính, phong cách chính luận, phong cách nghệ thuật, phong cách thông tấn báo chí. 2. Đóng góp một mảng mới vào nội dung của báo chí trong khu vực Theo nghiên cứu của giáo sư John A.Lent (ĐH Temple, Mỹ), nội dung của những tờ báo đầu tiên của các nước Đông Nam Á chủ yếu xoay quanh các thông tin từ chính quốc hoặc từ những cường quốc trên thế giới, thông tin phục vụ tầng lớp thực dân tại địa phương, hoặc phục vụ mục tiêu truyền đạo và hầu như không quan tâm đến những sự kiện liên quan trực tiếp đến đời sống của người dân bản xứ. Nhận định này mang tính khái quát, phản ánh xu hướng thông tin phổ biến nhất của báo chí khu vực trong giai đoạn thuộc địa, tuy nhiên, bên cạnh đó cũng có một vài trường hợp đặc biệt. Đó là Gia Định Báo, tờ báo này đã đóng góp một nội dung khác để tạo nên sự đa dạng, theo như thư của Thống đốc chỉ huy trưởng Nam Kỳ G.Roze gửi cho Bộ trưởng Bộ thuộc địa Pháp: “Tờ báo này(tức Gia Định Báo) nhằm phổ biến cho dân bản xứ các tin tức đang cho họ lưu ý và cho họ những vấn đề mới có liên quan đên văn hóa và những tiến bộ canh nông...” Đây là một đặc điểm khá đặc biệt của Gia Định Báo so với những tờ báo khác trong khu vực. Trong số các số báo Gia Định Báo từ 1882 đều đăng tải mục thứ vụ, chủ yếu là những bài viết đối nhân xử thế, những ki

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLịch sử ra đời và sự phát triển của Gia Định Báo.doc