Trong mỗi hệ thống thông tin cách lưu trữ dữ liệu rất riêng biệt, thay đổi từ các file đơn giản đến cơ sở dữ liệu có quan hệ và cấu trúcYêu cầu đặt ra là phải tích hợp các hệ thống lưu trữ đó trong một môi trường mới. Nhưng tích hợp như thế nào và phương thức truy nhập như thế nào?
Microsoft đã giải quyết vấn đề đó bằng chuẩn ODBC (Open Database Connectivity). Phát triển ODBC, Microsoft muốn cung cấp một giao diện lập trình của các ứng dụng (Application Programming Interface - API) duy nhất có thể sử dụng để truy nhập dữ liệu trên nhiều hệ quản lý cơ sở dữ liệu khác nhauODBC có hai ưu điểm tận dụng được là:
· ODBC cung cấp một giao diện duy nhất để truy cập đến nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, nhờ đó giảm bớt thời gian nghiên cứu cơ sở dữ liệu mới cho ác nhà lập trình và phát triển
· ODBC cho phép phát triển ứng dụng Client độc lập với Server
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2050 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tổng quan về thiết kế web, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mô hình Client/Server
1. Các khái niệm
Thuật ngữ Server được dùng cho những chương trình thi hành như một dịch vụ trên toàn mạng. Các chương trình Server này chấp nhận tất cả các yêu cầu hợp lệ đến từ mọi nơi trên mạng, sau đó thi hành dịch vụ trên Server và trả kết quả về máy yêu cầu.
Một chương trình được coi là Client khi nó gửi các yêu cầu tới máy có chương trình Server và chờ đợi câu trả lời từ Server. Chương trình Server và Client nói chuyện với nhau bằng các thông điệp (message) thông qua một cổng truyền thông liên tác IPC (Interprocess Communication). Để một chương trình Server và một chương trình Client có thể giao tiếp được với nhau thì giữa chúng phải có một chuẩn để giao tiếp, chuẩn này được gọi là giao thức (Protocol). Nếu một chương trình Client nào muốn yêu cầu lấy thông tin từ Server thì nó phải tuân theo giao thức Server đưa ra.
Một máy tính chứa chương trình Server được coi là một máy chủ hay máy phục vụ (Server) và máy chứa chương trình Client được coi là máy khách. Mô hình trên mạng mà các máy chủ và máy khách giao tiếp với nhau theo một hoặc nhiều dịch vụ được coi là mô hình Client /Server.
2. Mô hình Client/Server
Thực tế mô hình Client/Server là sự mở rộng tự nhiên và tiện lợi cho việc truyền thông lên tiến trình lên các máy tính cá nhân mô hình này cho phép xây dựng các chương trình Client/Server một cách rễ ràng và sử dụng chúng để liên tác với nhau đạt hiệu quả hơn Mô hình Client/Server như sau:
:
Client
:
Server
Gửi yêu cầu
Trả về trang Web
Đây là mô hình tổng quát nhất, trên thực tế thì một Server có thể được nối tới nhiều Server khác nhằm làm việc hiệu quả hơn và nhanh chóng hơnKhi nhận được một yêu cầu từ Client/Server này thì có thể gửi tiếp yêu cầu vừa nhận được cho một Server khácVí dụ như Database Server vì bản thân nó không thể xử lý yêu cầu này được.
Máy Server có thể thi hành các nhiệm vụ đơn giản hoặc phức tạpVí dụ như một máy chủ trả lời thời gian hiện tại trong ngày khi một máy Client yêu cầu lấy thông tin về thời gian, nó sẽ phải gửi yêu cầu theo một một tiêu chuẩn do một số yêu cầu lấy thông tin về thời gian, nó sẽ phải gửi yêu cầu theo một một tiêu chuẩn do một Server đặt ra, mức yêu cầu được chấp nhận thì máy Server sẽ trả về một thông tin mà Client yêu cầuCó rất nhiều dịch vụ trên mạng nhưng nó hoạt động theo nguyên lý là nhận các yêu cầu từ Client sau đó xử lý và trả lại các yêu cầu cho Client yêu cầu.
Thông thường chương trình Client/ Server được thi hành trên hai máy khác nhau cho dù lúc nào Server cũng ở trạng thái sãn sàngchờ nhận yêu cầu từ Client nhưng trên thực tế một tiến trình liên tục qua lại (interaction) giữa Client với Server lại bắt đầu ở phía Client khi mà Client giữ tín hiệu với Server.
Các chương trình Server thường đều thi hành ở mức ứng dụng (tầng ứng dụng của mạng)Sự thuận lợi của phương pháp này là nó có thể làm việc trên bất cứ một mạng máy tính nào hỗ trợ giao thước truyền thông chuẩn mà cụ thể ở đây là giao thức TCP/IPVới các giao thức chuẩn này cũng giúp cho các nhà sản xuất có thể tích hợp nhiều sản phẩm khác nhau của họ lên mạng mà không gặp khó khăn gìVới các chuẩn này thì các chương trình Server cho một ứng dụng nào đó có thể thi hành trên một hệ thống chia sẻ thời gian với nhiều chương trình và dịch vụ khác hoặc nó có thể chạy trên chính một máy tính cá nhân bình thườngCó thể có nhiều Server cùnh làm một dịch vụ, chúng có thể nằm trên nhiều máy tính hoặc một máy tính.
Với mô hình trên thì mô hình Client/Server chỉ mang đặc điểm của phần mềm không liên quan đến phần cứng mặc dù trên thực tế yêu cầu cho một máy Server là cao hơn rất nhiều so với máy Client Lý do là bởi vì máy Server phải quản lý rất nhiều các yêu cầu từ các Client khác nhau trên mạng máy tính.
4. ứng dụng mô hình Client/Server
WWW (World Wide Web): Có nhiều người đã nghe đến thuật ngữ này nhưng lại không hiểu nó là cái gì, thậm chí có người đã sử dụng nó nhưng cũng không định nghia chính xác được WWW là cái gì ? WWW là tập hợp các văn bản tài liệu (document) có mối liên kết (Link) với nhau trên mạng Internet. Bởi vì WWW đang phát triển rất mạnh mẽ và được quảng bá khắp nơi nên người sử dụng thường nhầm lẫn WWW là Internet nhưng thực tế nó chỉ là một dịch vụ của Internet.
Ngày nay Web là một dich vụ lớn nhất của Internet sử dụng giao thức truyền văn bản siêu liên kết HTTP (Hypertext Transfer Protocol) để hiện thị các siêu văn bản (còn gọi là trang Web) và hình ảnh trên một màn hình đồ hoạ thuật ngữ siêu văn bản được hiểu như việc trình bầy các văn bản bình thườngcó mối liên kết với nhau. Người sử dụng chỉ việc bấn chuột vào một phần của văn bản thì một văn bản khác có mối liên kết đó sẽ hiện lên, có thể thay Web mới này ở một nơi hoàn toàn khác với trang Web liên kết đến nó. Mỗi một mối liên kết đến một trang siêu văn bản được gọi là địa chỉ của trang văn bản đó, địa chỉ này có tên là URL(Uniform Resource Locators) gọi là bộ định danh tài nguyên. Để tạo ra một trang Web người ta sử dụng một ngôn ngữ gọi là ngôn ngữ đánh dấu siêu văn bản HTML (HypertText Makeup Language) vì vậy người ta còn gọi các trang Web là trang HTML.
Như vậy với dịch vụ này trên mạng, người sử dụng máy tính có thể truy cập vào mạng để lấy các thông tin khác nhau dựa trên văn bản, hình ảnh thậm chí cả âm thanh (thông tin đa phương tiện-Multimedia). Giao diện giữa người và máy ngày càng trở nên thân thiện, nhờ các biểu tượng và dùng các thiết bị ngoại vi như chuột, bút quang... Người dùng mạng không cần có trình độ cao về tin học, với một chút vốn tiếng Anh đủ để hiểu những gì máy tính thông báo cũng có thể dùng nó như một công cụ đắc lực.
Công nghệ Web cho phép xử lý các trang dữ liệu đa phương tiện và truy nhập trên mạng diện rộng đặc biệt là Internet. Thực chất Web là hội tụ của Internet. Các phần mềm lớn thi nhau thể hiện bộ duyệt Web như Mosaic, NetCape, Internet Explorer, WinWeb, Midas. WWW rất tiện lợi cho người dùng bình thường, không phải vất vả mới hiểu được các thủ tục của Internet và dễ dàng truy cập vào thông tin trên hàng ngàn máy chủ đặt ở khắp nơi trên thế giới một cách nhanh chóng và hiệu quả. Có công nghệ Web thực chất chúng ta đã bước vào một thập kỷ mà mọi thông tin có thể có ngay trên bàn làm việc của mình.
Như vậy dịch vụ WWW trên mạng có một ứng dụng rất to lớn trong thời đại thông tin như hiện nay.
Web đã thay đổi cách biểu diễn thông thường bằng văn bản toàn kiểu chữ nhàm chán sang kiểu thông tin sinh động có hình ảnh âm thanh. Với một bộ duyệt có trang bị tiện ích đồ hoạ ta dễ dàng xử lý thông tin đa phương tiện khác.
Cho phép tìm kiếm thông tin một cách nhanh chóng, phổ biến các tài liệu khoa học và trao đổi thông tin trên mạng.
Dịch vụ kinh doanh đầu tư trên mạng qua Web. Với sự phát triển vượt bậc của khả năng truyền thông qua mạng và các công nghệ Web tiên tiến, việc ta có thể ung dung ngồi nhà mà du ngoạn từ cửa hàng này sang hàng khác trong không gian ảo không còn là cảnh phim viễn tưởng mà đã trở thành hiện thực. Ngày nay hầu như bất kỳ thứ hàng hoá nào cũng có thể đặt mua qua Internet.
5. Mô hình Web Client/Server
Mô hình Client/Server ứng dụng vào trang Web được gọi là mô hình Web Client/ServerGiao thức chuẩn được sử dụng để giao tiếp giữa Web Server và Web Client là HTTP (HyperText Transfer Protocol).
Web Client (Web Browser): Các trình duyệt có vai trò như là Client trong mô hình Client/Server, khi cần xem một trang Web cụ thể nào thì trình duyệt Web sẽ gửi yêu cầu lên cho Web Server để lấy nội dung trang Web đó.
Web Server: Khi nhận được yêu cầu từ một Client/Server, Web Server sẽ trả về nội dung file cho trình duyệt Web Server cho phép chuyển giao dữ liệu bao gồm văn bản, đồ hoạ và thậm chí cả âm thanh, video tới người sử dụng. Người sử dụng chỉ cần trình duyệt xét Web để liên kết các máy chủ qua mạng IP nội bộ yêu cầu của người sử dụng được đáp ứng bằng cách nhấn chuột vào các chủ đề hoặc minh hoạ mẫu theo khuôn dạng HTML. Những trang dữ liệu theo yêu cầu sẽ được gọi xuống từ máy chủ nào đó theo giao thức HTTP rồi hiển thị trên máy cá nhân.
6. Hoạt động
Tất cả các gói tin nhận và trả lời giữa Web Server và Client đều tuân theo giao thức chuẩn HTTP. Mô hình hoạt động như sau:
Ban đầu trình duyệt trên máy Client có một văn bản HTML và hiển thị lên màn hình với đầy đủ các mối liên kết.
Khi người sử dụng chọn một mối liên kết nào đó trong văn bản trên thì trình duyệt sẽ sử dụng giao thức HTTP gửi một yêu cầu lên mạng cho Web Server để truy cập tới một trang Web mới hay muốn được phục vụ một dịch vụ nào đó được chỉ ra bởi mối liên kết đó.
Sau khi nhận được thông tin từ trình duyệt nó có thể tự xử lý thông tin hoặc gửi cho các bộ phận khác có khả năng xử lý (Database Server, CGI. . . ) rồi chờ kết quả để gửi về cho trình duyệt Client.
Trình duyệt nhận và định dạng dữ liệu theo chuẩn của trang Web để hiển thị lên màn hình.
Quá trình cứ tiếp diễn như vậy được gọi là duyệt Web trên mạng.
Chương 3
Lập trình trên WWW - Ngôn ngữ HTML
(HyperText Makeup Language)
1. Giới thiệu ngôn ngữ HTML
HTML là ngôn ngữ chuẩn để tạo lập các tài liệu cho WWW. HTML được sử dụng trong các chương trình duyệt Web, Ví dụ như MS Internet Explorer, Nescape Navigator. Một tài liệu HTML là một tệp văn bản chứa các phần tử mà các chương trình duyệt sẽ sử dụng để hiện các văn bản, các đối tượng Multimedia, và các siêu liên kết. Người sử dụng có thể dùng chuột để chọn các văn bản được format như một siêu liên kết trong các tài liệu này. Sau khi liên kết này được chọn, tài liệu mà nó trỏ tới sẽ được nạp vào máy và hiện lên màn hình.
Một phần tử là một đơn vị cơ sở của HTML. Nó bao gồm một thẻ khởi đầu (start-tag), một thẻ kết thúc (end-tag), và các ký tự dữ liệu được đặt trong các thẻ này. Một thẻ bắt đầu bằng một dấu nhỏ hơn (). Thẻ kết thúc phải có thêm một dấu sổ chéo (/) ngay trước tên thẻ. Có một số thẻ phẩi luôn luôn kết thúc bằng một thẻ phù hợp, còn một số khác lại cho phép bỏ qua thẻ kết thúc nếu kết quả là rõ ràng và không có sự mập mờ nào cả.
HTML không mô tả trang tài liệu theo như một số ngôn ngữ máy tính khác. Có những ngôn ngữ mô tả từng phần tử đồ hoạ và vị trí của nó trên trang tài liệu, bao gồm font chữ, kích cỡ... Ngược lại HTML lại không đưa ra bất cứ mô tả nào về font, hình ảnh đồ hoạ và chỗ để đặt chúng. HTML chỉ “gán thẻ” cho nội dung tập tin với những thuộc tính nào đó mà sau đó chúng được xác định bởi chương trình duyệt để xem tập tin này. Điều này giống như người đánh dấu bằng tay một số đoạn trên văn bản tài liệu để chỉ cho người thư kí biết những việc cần thiết như: "chỗ này in đậm", "chỗ này in nghiêng"...
Ví dụ: các thẻ về kích thước chữ
các thẻ về kiểu chữ
.
HTML gán thẻ cho kiểu chữ, chèn file ảnh đồ hoạ, âm thanh, video vào văn bản tạo ra mối liên kết và hình thức gọi là siêu văn bản (Hypertext). Siêu văn bản là đặc tính quan trọng nhất của HTML. Điều này có nghiã là một văn bản hay đồ hoạ bất kỳ chỗ nào cũng có thể liên kết với một tài liệu khác.
2. Đặc điểm ngôn ngữ HTML
HTML được thiết kế ra để dùng cho Web : trong phần lớn các chương trình xử lý văn bản khá rắc rối trong một số tiểu tiết -ví dụ như chọn font - HTML, được thiết kế để dùng trên mọi kiểu máy tính. Nó được thiết kế vừa để dễ vận chuyển trên internet, vừa thích hợp với các loại máy tính.
HTML là một chuẩn mở:ngoài các thẻ trong bộ chuẩn, HTML có thể được mở rộng bằng nhiều cách như : Mở rộng thêm các thẻ HTML, sử dụng Javascript, VBScript và các ngôn ngữ lập trình khác. . .
HTML dễ đọc, dễ hiểu, có chứa các liên kết và hỗ trợ Multimedia.
HTML là ngôn ngữ thông dịch : đây được coi là nhược điểm của ngôn ngữ bởi vì nó sẽ làm giảm tốc độ thực hiện các ứng dụng khác trên Web đồng thời nó khó đảm bảo tính an toàn, bảo mật.
3. Phương pháp thiết kế một trang Web
Khi nói đến xây dựng một trang Web cũng đồng nghĩa với việc xây dựng một trang chủ. Theo quan niệm chung, trang chủ là một trang Web chứa liên kết đến một hay nhiều trang khác và thường là trang cung cấp thông tin tổng quát nhất cho người xem. Vì vậy việc thiết kế trang Web không chỉ là thiết kế một trang HTML đơn lẻ, mà còn là thiết kế các mối liên kết tới các tài liệu trong HTML khác ( chưa kể đến việc phải xây dựng nhiều trang Web liên kết với nhau)
Để xây dựng trang Web với các kết nối trước tiên chúng ta nên xác định xem thiết kế nội dung gì, cho ai xem và môi trường thể hiện Web. Thông thường có các bước sau:
• Xác định chủ đề
• Xác định nội dung
• Thiết kế sơ đồ hoạt động (Flow diagram)
• Thiết kế sơ đồ giao diện với người xem của trang chủ.
• Thiết kế và xây dựng chi tiết
Chi tiết các bước:
Xác định chủ đề: Xác định chủ đề trang Web là bước đầu tiên giúp cho việc định hướng cho các thao tác thiết kế và xây dựng sau này không đi chệch mục tiêu. Chủ đề của trang Web tuy quan trọng song cũng dễ xác định bởi vì nó hoàn toàn dựa vào mục đích thiết kế trang Web đó.
Xác định nội dung: Xác định nội dung trang Web là bước quan trọng nhất. Nó cho phép ta hình dung được công việc sẽ phải làm tiếp theo và xây dựng quy mô trang chủ, qua đó quy định khuôn khổ công tác thiết kế giao diện và xây dựng trang HTML. Khi xác định nội dung cần nhận rõ những điểm chính yếu phải giới thiệu trên trang Web. Những thông tin sẽ giới thiệu phải phân loại theo hai tiêu chí: tính kế thừa và mức độ quan trọng. Việc xây dựng nội dung cũng phải được định trước phong cách khác nhau: trang nghiêm hay hài hước cứng rắn hay mềm mại.
Thiết kế sơ đồ hoạt động: Sơ đồ hoạt động là mô hình sắp xếp các nội dung (được xác định ở bước trên) trong bước này ta sẽ sắp xếp các thông tin cần giới thiệu theo thứ tự ưu tiên như đã xác định. Công việc sắp xếp bao gồm thứ tự Trên - Dưới, Trước - Sau, thông tin nào cần được nêu rõ trong một trang Web thành một phần riêng, thông tin nào có thể mô tả ngay trên trang chủ.
+ Thiết kế giao diện với người xem: Sơ đồ giao diện với người xemlà sơ đồ khái quát của những gì mà người đến thăm trang chủ của chúng ta sẽ thấy. Giao diện với người xem được thiết kế theo sơ đồ này. Yêu cầu của giao diện là nêu bật được chủ đề chính, bố trí các liên kết sao cho hợp lý, phân bố mạng thông tin, đồ hoạ sao cho cân đối.
Thiết kế và xây dựng chi tiết : công tác thiết kế và xây dựng chi tiết là phần việc đồ sộ nhất khi xây dựng trang Web. Nó cũng là phần việc đưa ra kết quả cuối cùng, vì vậy có thể nói đây là công tác quan trọng nhất. Trong công tác thiết kế xây dựng chi tiết, việc lựa chọn các hình ảnh(để minh hoạ, để làm liên kết)là quan trọng. Đây chính là cái sẽ gây ấn tượng mạnh nhất đến người xem. Vì vậy thiết kế và lựa chọn hình ảnh cực kỳ quan trọng
4. Lập trình trang Web động
Khi duyệt các trang Web trên máy, chúng ta thấy rằng các trang Web làm việc một cách thực sự sinh động, có thể trao đổi thông tin, dịch vụ mua hàng... với các form nhập dữ liệu và nhận dữ liệu trở về sau khi bấm nút Submit, chúng ta có thể bấm vào từng phần trong một bức tranh với các liên kết khác nhau, các con số hiển thị các lần truy cập vào từng trang Web và đặc biệt hơn còn có dịch vụ để truy cập dữ liệu, tìm kiếm thông tin theo một tiêu chuẩn nào đó. . . Để làm được điều đó người ta xây dựng các CSDL trên Web Server để lấy thông tin đưa tới từ trình duyệt, sau đó xử lý và trả lại kết quả cho trình duyệt. Tuy nhiên do bản thân Web Server lại không có khả năng làm việc với CSDL vì vậy phải có một chương trình thực thi được khả năng xử lý thông tin và làm việc được với Web Server. Chương trình này đóng vai trò như một cổng giao tiếp (gateway) giữa Web Server và trình duyệt
Đặc điểm nổi bật của chương trình này là tính đơn giản, bất cứ một người sử dụng nào cũng có thể tạo ra một chương trình giao tiếp đơn giản mà không cần phải có nhiều kinh nghiệm trong lập trình và khả năng thiết kế. Một chương trình giao tiếp được gọi là kịch bản(Script), chỉ khi nào cần một trang Web động thực sự với các tính năng hoàn hảo thì chúng ta mới phải nắm vững các kỹ thuật lập trình này. Mô hình hoạt động và vai trò của chương trình giao tiếp (gateway) như sau:
Kết quả của chương trình
:
Máy Khách
3
chương trình ứng dụng gateway
:
Máy Chủ
submit form
gọi chương trình gateway
trang kết quả HTML
Ngày nay các chương trình giao tiếp đóng một vai trò rất lớn trong Web Server, các chương trình giao tiếp chạy chung trên một Web Server có thể giao tiếp được với nhau để tăng khả năng hoạt động của chúng. Với mô hình này, Web Server có thể gọi một chương trình giao tiếp trong khi dữ liệu của người sử dụng cũng được đưa trực tiếp cho chương trình, sau khi xử lý xong Web Server sẽ gửi kết quả xử lý của chương trình cho trình duyệt. Chương trình giao tiếp thật đơn giản ở chỗ chỉ có một vài kiểu vào ra đơn giản và một số luật cụ thể cộng với các kỹ thuật đặc trưng của mô hình.
Khi trình duyệt yêu cầu một trang Web sử dụng chương trình giao tiếp trên Web Server, Web Server truyền thông tin vừa nhận được từ gói tin HTTP yêu cầu của trình duyệt cho chương trình giao tiếp xử lý. Chương trình giao tiếp sau khi xử lý thông tin được yêu cầu nó sẽ trả lại kết quả cho Web Server, Server sẽ định khuôn dạng gói tin theo chuẩn HTTP và truyền trực tiếp cho trình duyệt Web mà không phải thông qua Web Server, cách này làm tốc độ tải trang Web sẽ nhanh hơn.
Trước khi gửi dữ liệu cho Web Server, có thể trình duyệt cũng tiền xử lý dữ liệu trước khi gửi dữ liệu nhằm giảm bớt gánh nặng cho Server. Những ngôn ngữ có khả năng chạy trên trình duyệt gọi là front - end (VBScript, JavaScript...) Các ngôn ngữ do Web Server dùng để xử lý dữ liệu gọi là
Back - end (Perl, ASP, HS...)
Chương 4
Cơ sở dữ liệu và cách truy xuất cơ sở dữ liệu
1. Khái niệm
Cơ sở dữ liệu là một lĩnh vực rất quan trọng của công nghệ thông tin mà nếu thiếu nó nhiều vấn đề đặt ra sẽ khó giải quyết được. Cơ sở dữ liệu được định nghĩa là kho thông tin về một chủ đề, được tổ chức hợp lý để dễ dàng quản lý và truy tìm. Bất kỳ kho thông tin nào đáp ứng được yêu cầu này đều có thể coi là một cơ sở dữ liệu.
2. Quản trị cơ sở dữ liệu là gì ?
Chương trình quản trị cơ sở dữ liệu là một chương trình ứng dụng trên máy tính các công cụ để truy tìm, sửa chữa, xoá và chèn thêm dữ liệu. Các chương trình này cũng có thể dùng để tạo lập một cơ sở dữ liệu và tạo ra các báo cáo, thống kê. Các chương trình quản trị cơ sở dữ liệu liên quan khá thông dụng hiện nay tại Việt Nam là Foxpro, Access cho ứng dụng nhỏ, DBL, MSSQL và Oracle cho ứng dụng vừa và lớn.
Quản trị cơ sở dữ liệu quan hệ là một cách quản lý cơ sở dữ liệu trong đó dữ liệu được lưu trữ trong các bảng dữ liệu hai chiều gồm các cột và các hàng, có thể liên quan với nhau nếu các bảng đó có một cột hoặc một trường chung nhau.
Hệ quản trị cơ sở dữ liệu là một quá trình xử lý xoay quanh các vấn đề sau đây:
+ Lưu trữ dữ liệu
+ Truy nhập dữ liệu
+ Bảo đảm tính toàn vẹn của dữ liệu
Ba vấn đề chính ở trên có mối quan hệ mật thiết, phụ thuộc lẫn nhau và chúng được liệt kê theo thứ tự thực hiện mỗi ứng dụng.
Mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ (Relationship Database Management System - RDMS) được xây dựng làm đơn giản hoá quá trình lưu và đọc dữ liệuRDMS cung cấp khả năng giao tiếp tốt với dữ liệu và giúp người lập trình tự do trong lĩnh vực quản lý truy cập cơ sở dữ liệuSau đây là các bước xây dựng một cơ sở dữ liệu theo mô hình cơ sở dữ liệu quan hệ:
+ Tổ chức dữ liệu theo nhóm logic(table)
+ Xác định các mối quan hệ giữa các table
+ Tạo tập tin cơ sở dữ liệu và định nghĩa cấu trúc của các table trong cơ sở dữ liệu.
+ Lưu dữ liệu
Hai bước đầu là hai bước thiết kế cơ sở dữ liệu và đây là hai bước cực kỳ quan trọng. Nếu được thiết kế tốt, các khía cạnh khác sẽ được giải quyết dễ dàng hơn; ngược lại việc khai thác cơ sở dữ liệu sẽ không hiệu quả và chương trình sẽ có những lỗi rất khó phát hiện.
Các bước chính khi tiến hành thiết kế một cơ sở dữ liệu:
Xác định dữ liệu cần trong ứng dụng
Xác định nguồn gốc dữ liệu
Tổ chức dữ liệu thành các nhóm logic
Tiêu chuẩn hoá dữ liệu và các mối quan hệ giữa chúng
Xác định cách sử dụng các bảng
3. Chuẩn ODBC (Open Database Connectivity)
Trong mỗi hệ thống thông tin cách lưu trữ dữ liệu rất riêng biệt, thay đổi từ các file đơn giản đến cơ sở dữ liệu có quan hệ và cấu trúcYêu cầu đặt ra là phải tích hợp các hệ thống lưu trữ đó trong một môi trường mới. Nhưng tích hợp như thế nào và phương thức truy nhập như thế nào?
Microsoft đã giải quyết vấn đề đó bằng chuẩn ODBC (Open Database Connectivity). Phát triển ODBC, Microsoft muốn cung cấp một giao diện lập trình của các ứng dụng (Application Programming Interface - API) duy nhất có thể sử dụng để truy nhập dữ liệu trên nhiều hệ quản lý cơ sở dữ liệu khác nhauODBC có hai ưu điểm tận dụng được là:
ODBC cung cấp một giao diện duy nhất để truy cập đến nhiều cơ sở dữ liệu khác nhau, nhờ đó giảm bớt thời gian nghiên cứu cơ sở dữ liệu mới cho ác nhà lập trình và phát triển
ODBC cho phép phát triển ứng dụng Client độc lập với Server
4. Cấu trúc của ODBC
Cấu trúc của ODBC gồm có bốn thành phần chính sau:
Application
Driver
Driver
Data source
Application (ứng dụng): là giao diện người sử dụnglàm việc với cơ sở dữ liệu. Chúng sử dụng API với ODBC để xây dựng mối liên kết đến cơ sở dữ liệu và ứng dụng các câu lệnh SQL để điều khiển dữ liệu.
Driver Manager(trình quản lý điều khiển): là trung gian giữa ứng dụng và trình điều khiển xác định được cần đến để truy cập từng loại cơ sở dữ liệu. Chúng ta hiểu rằng ứng dụng không đòi hỏi một mối liên kết đến trình điều khiển, thay vì đó nó đòi hỏi truy cập đến một thứ hợp lý hơn được gọi là
Data Source. Trình điều khiển kết nối nó với một trình điều khiển vật lý và cơ sở dữ liệu.
Driver(trình điều khiển): Trình điều khiển thực sự bổ sung ODBC API cho một hệ thống quản lý cơ sở dữ liệu đặc biệt. Nó xây dựng mối liên hệ đến Server, chịu sự điều khiển của các query SQL và trả về tập kết quả hay thông báo lỗi cho ứng dụng.
Data Source( Nguồn dữ liệu ): Nguồn dữ liệu là thành ngữ được Microsoft sử dụng để mô tả sự liên kết của hệ quản trị cơ sở dữ liệu. Hệ điều hành từ xa và mạng được yêu cầu để truy nhập cơ sở dữ liệu riêng nào đó.
5. Cấp độ tương thích
Chuẩn ODBC không cung cấp một chuẩn duy nhất cho các trình điều khiển, nó phân các trình điều khiển tương thích thành hai loại:
+ Loại hỗ trợ cho ODBC API
+ Loại hỗ trợ cho SQL
Chương 5
ASP và việc xây dựng các ứng dụng trên Web
1. Khái niệm ASP (Active Server Page)
ASP là môi trường kịch bản trên máy chủ (Server - Side Scripting Enviroment
ASP ( active server page )
Giới thiệu về ASP: Microsoft Active Server Page là một ứng dụng giúp ta áp dụng các ngôn ngữ Script để tạo những ưngs dụng động, có tính bảo mật cao và làm tăng khả năng giao tiếp của chương trình ứng dụng. Các đoạn chương trình nhỏ được gọi là Script sẽ được nhúng vào các trang của ASP phục vụ cho việc đóng mở và thao tác với dữ liệu cũng như điều khiển các trang Web tương tác với người dùng như thế nào. Một khái niệm sau đây liên quan đến ASP
Script: là một dãy các lệnh đặc tả (Script). Một Sript có thể :
Gán một giá trị cho một biến. Một biến là một tên xác định để lưư giữ dữ liệu, như một giá trị.
Chỉ thị cho Web Server gửi trả lại cho trình duyệt một giá trị nào đó, như giá trị cho một biến. Một chỉ thị trả cho trình duyệt một giá trị là một biểu thức đầu ra( output expression).
Tổ hợp của các lệnh được đặt trong các thủ tục. Một số thủ tục là tên gọi tuần tự của các lệnh và khai báo cho phép hoạt động như một ngôn ngữ( unit)
Ngôn ngữ Script (Script language): là ngôn ngữ trung gian giữa HTML và ngôn ngữ lập trình JAva, C++, Visual Basic. HTML nói chung được sử dụng để tạo và kết nối các trang text. Còn ngôn ngữ lập trình được sử dụng để đưa ra dẫy các lệnh phức tạp cho máy tính. Ngôn ngữ Scripting nằm giữa chúng mặc dù chức năng của nó giống ngôn ngữ lập trình hơn là các trang HTML đơn giản. Sự khác nhau cơ bản giữa ngôn ngữ Scripting và ngôn ngữ lập trình là các nguyên tắc của nó ít cứng nhắc và ít rắc rối khó hiểu hơn. Do vậy, các đoạn chương trình script gọn nhẹ có thể lồng ngay vào các trang Web.
Công cụ đặc tả (Scripting engine): Để chạy được các loại chương trình Script thì phải có máy Script engine. Máy này có nhiệm vụ đọc mã nguồn của chương trình và thực hiện các câu lệnh đó. Mỗi ngôn ngữ Script có một loại máy Script riêng. VD: VBScript engine cho loại chương trình VBScript, JavScript engine cho JavaScript.
Có hai ngôn ngữ Script mà ASP hỗ trợ chính là Visual Basic Script và Java Script. Ngôn ngữ được ASP hỗ trợ mặc định là VBScript nên khi muốn dùng ngôn ngữ Script mặc định là Java Script chẳng hạn thì phải có dòng khai báo sau:
ASP cung cấp một môi trường chình cho các công cụ đặc tả và phân tích các script trong một file.ASP để các công cụ này xử lý. ASP còn cho phép viết hoàn chỉnh các thủ tục để phát triển Web bằng nhiều ngôn ngữ Script mà trình duyệt có thể hiểu được tất cả. Trên thực tế, vài ngôn ngữ Script được sử dụng trong một file và nó được thực hiện bằng cách định nghĩa ngôn ngữ Script trong một trang của HTML tại nơi bắt đầu thủ tục Script.
ASP xây dựng các file ở khắp nơi với phần đuôi mở rộng là .asp. File .asp là một file text và có thể bao gồm các sự kết hợp sau:
Text
Các trang của HTML
Các câu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Thietke Web-29.DOC