Lời cảm ơn
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU
1 Tính cấp thiết của đề tài 4
2 Mục đích nghiên cứu của đề tài 5
3 Bố cục của đề án 5
CHƯƠNG 1 LÍ LUẬN CHUNG VỀ LÃI SUẤT
1.1 Các khái niệm về lãi suất 6
1.2 Các loại lãi suất chủ yếu 7
1.3 Chức năng của lãi suất trong nền kinh tế 9
1.4 Các mục tiêu của lãi suất 9
1.5 Các nhân tố ảnh hưởng đến lãi suất 10
1.6 Các nguyên tắc xác định lãi suất 12
CHƯƠNG 2 TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT
2.1 Khái niệm về tự do hoá lãi suất 13
2.2 Biểu hiện của tự do hoá lãi suất 13
2.3 Tự do hoá lãi suất với các quá trình tự do hoá khác của nền kinh tế 14
2.4 Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế thị trường 15
2.5 Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất thành công. 17
2.6 Kinh nghiệm của một số nước khi tự do hoá lãi suất 18
CHƯƠNG 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP TIẾN TỚI TỰ DO HOÁ LÃI SUẤT Ở VIỆT NAM
3.1 Những thách thức trong điều hành công cụ lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới 24
3.2 Định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới 24
3.3 Việt Nam đã hội tụ đủ các điều kiện để tự do hoá lãi suất hay chưa 25
3.4 Một số giải pháp và các bước đi tiến tới tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam 27
3.5 Một số kiến nghị 34
Kết luận
Danh mục tài liệu tham khảo
38 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1258 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ộc vào cung cầu đầu tư, mức tiết kiệm và thu nhập của nền kinh tế và thông thường, tự do hoá lãi suất thường gắn liền với tự do hoá tỉ giá hối đoái.
2.4. Tính tất yếu của tự do hoá lãi suất trong nền kinh tế thị trường
Trước hết chúng ta đều biết, trong nền kinh tế có 3 loại giá là giá hàng hoá và dịch vụ, giá vốn (lãi suất), và giá ngoại tệ (tỉ giá hối đoái) nên tự do hoá lãi suất (thường gắn với nó là tự do hoá tỉ giá hối đoái) tác động mạnh mẽ tới toàn bộ nền kinh tế quốc dân, quyết định tốc độ và tính chất của tăng trưởng kinh tế.
Trong nền kinh tế thị trường thường thực hiện tự do hoá lãi suất vì như đã nêu trên, tự do hoá lãi suất là hạt nhân của tự do hoá tài chính mà tự do hoá tài chính thành công là bộ phận cấu thành quan trọng trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của mỗi quốc gia.
So sánh giữa tự do hoá lãi suất và kiểm soát lãi suất cho thấy:
Thứ nhất, kinh nghiệm cho thấy trong nền kinh tế thị trường khi tự do hoá lãi suất đúng hướng và theo đúng trình tự sẽ có những ưu việt cơ bản sau đây:
Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo điều kiện trở lại để ổ định kinh tế vĩ mô.
Góp phần làm cho các dòng vốn được tự do luân chuyển đến bất kì đâu tuỳ thuộc theo ý muốn của nhà đầu tư mà không gặp phải bất cứ một sự ngăn cản phi kinh tế nào.
Tăng vốn đầu tư phát triển sản xuất
Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế phát triển mạnh có hiệu quả.
Thâm hụt ngân sách giảm
Lãi suất khi đó tự điều chỉnh linh hoạt và nhạy cảm phản ánh theo đòi hỏi của thị trường, hay nói cách khác, nó phản ánh chính xác gia svốn trên thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư.
Đẩy mạnh quá trình tự do hoá tài chính.
Góp phần làm cho thị trường tài chính chính thức phát triển và thị trường tài chính ngầm không có điều kiện phát triển.
Kích thích cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt sự cạnh tranh của các tổ chức tài chính, cải thiện chất lượng cung ứng các dịch vụ tài chính.
Thứ hai, khi lãi suất bị kiểm soát quá chặt chẽ trong một thời gian dài sẽ gây ra những thiệt hại tổng thể cho nền kinh tế, khuyến khích sự vay mượn lòng vòng, trốn tránh sự kiểm soát, dẫn tới không hiệu quả, cụ thể:
Trong trường hợp các ngân hàng buộc phải cho vay với lãi suất thấp hơn lãi suất thị trường dưới một sức ép nào đó và phải huy động với lãi suất cao thì chênh lệch lãi suất đầu vào và lãi suất đầu ra sẽ không đẩm bảo bù đắp chi phí hoạt động của ngân hàng. Từ đó tính bền vững (đặc biệt bền vững về mặt tài chính) không đảm bảo. Như thế, các ngân hàng sẽ không phát triển. Mặt khác, khi phải cho vay với lãi suất thấp và huy động vốn cho vay với mức lãi suất thấp để đẩm bảo bù đáp chi phí, lãi suất thấp sẽ không khuyến khích được người dân duy trì nguồn vốn tiết kiệm của mình ở trong nước, dễ xảy ra tình trạng Đô La hoá ... và cuối cùng kìm hãm sự tăng trưởng các khoản tiết kiệm và giảm hiệu quả đầu tư.
Kinh nghiệm cho thấy, ở những nước có hệ thống ngân hàng bị kiểm soát một cách chủ quan thì lãi suất cho vay thường tăng nhưng lãi suất tiền gửi lại không tăng và phần chênh lệch lại bị ngay tính kém hiệu quả của hệ thống ngân hàng ngốn hết.
Khi kiểm soát lãi suất quá chặt chẽ sẽ khuyến khích sự hình thành những công cụ tài chính và các trung gian tài chính không chính thức phát triển (và không bị kiểm soát) để cạnh trạnh với các công cụ tài chính và các trung gian tài chính chính thức bị kiểm soát.
Trong trường hợp lãi suất tăng ở mức quá cao, tuy tiết kiệm tăng lên nhưng sẽ làm đầu tư của nền kinh tế giảm xuống, từ đó tổng cầu của nền kinh tế sẽ giảm và lạm phát cũng có thể sẽ giảm nhưng đi liền với nó là công ăn việc làm sẽ giảm và thu nhập cũng giảm theo bởi vì khi lãi suất tăng, ngân hàng sẽ làm tăng chi phí và giảm nhu cầu trong nước trực tiếp, dòng vốn từ bên ngoài đổ vào nhiều do kết quả của việc tăng lãi suất, từ đó làm tăng giá đồng tiền trong nước. Bởi vậy, làm giảm nhu cầu bên ngoài đối với hàng hoá và dịch vụ trong nước và các khu vực bị ảnh hưởng tiêu cực của chính sách này tăng lên.
Ngược lại khi duy trì lãi suất cho vay quá thấp sẽ làm giảm lãi suất tiền gửi (trong đó có tiết kiệm), từ đó không khuyến khích tiết kiệm và kéo theo hạn chế nguồn tài trợ lớn. Như vậy dẫn đến sai lầm trong việc phân bổ nguồn lực, đồng thời tạo nhu cầu lớn về tín dụng, có thể có nhiều dự án không hiệu quả được lựa chọn đầu tư và tạo nên sự đầu tư vào nhiều lĩnh vực phi sản suất.
Nếu lãi suất thấp chỉ dành cho một đối tượng cụ thể nào đó, có thể có hiện tượng cho vay không đúng đối tượng vì khi đó có thể xuất hiện những thông tin sai lệch để được ưu đãi. Trường hợp có quá nhiều đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi thì sẽ không còn sự ưu đãi nữa.
Kinh nghiệm trước đây ở châu Mĩ La Tinh khi duy trì lãi suất quá thấp đã dẫn tới hiện tượng chảy máu vốn, thất thoát vốn vì dòng vốn luôn có xu hướng chảy vào nơi có lãi suất cao hơn.
Nếu xét theo khía cạnh cạnh tranh, một số đối tượng được hưởng lãi suất ưu đãi sẽ có lợi thế, những đối tượng khác bất lợi, từ đó không khuyến khích cạnh tranh và không khuyến khích tăng trưởng kinh tế.
2.5. Các điều kiện để thực hiện tự do hoá lãi suất thành công
Qua đúc kết các kinh nghiệm cho thấy, ở bất cứ đất nước nào, tự do hoá lãi suất chỉ thành công khi có các điều kiện sau đây:
Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô đủ chắc chắn để chịu đựng được các tác động, các cú sốc từ bên ngoài đối với nền kinh tế có thể xảy ra khi tự do hoá hoàn toàn lãi suất.
Thứ hai, sự hiện diện đầy đủ các công cụ của chính sách tiền tệ hữu hiệu, sự hình thành các qui trình nghiệp vụ phù hợp đòi hỏi của nền kinh tế thị trường.
Thứ ba, có môi trường pháp lí và thể chế hoàn thiện, đủ khả năng điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Có qui chế phòng ngừa, bù đắp rủi ro hoàn thiện, hữu hiệu, đảm bảo hạn chế và bù đắp được những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của các trung gian tài chính.
Thứ tư, hệ thống các cơ quan tài chính phát triển lành mạnh, có uy tín. Các cơ quan này đòi hỏi không chỉ có công nghệ hiên đại (máy móc thiết bị) mà còn phải có sự phát triển về bề sâu, có kinh nghiệm lâu dài về quản lí ở nhiều khía cạnh.
Thứ năm, sự thanh tra giám sát chặt chẽ của Ngân Hàng TW đối với các tổ chức tín dụng trong hoạt động kinh doanh nói chung và thực thi chính sách tiền tệ nói riêng.
Thứ sáu, chọn thời điểm bắt dầu, tốc độ và lộ trình (trật tự sử dụng các công cụ) tự do hoá lãi suất phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế. Kinh nghiệm về tự do hoá lãi suất ở một số nước vào những năm 80 cho thấy tự do hoá không đúng thời điểm sẽ làm tăng tính bất ổn định kinh tế vĩ mô thông qua việc làm tăng lạm phát và nợ nước ngoài, giảm sức sản suất trong nước .
Thứ bảy, tự do hoá lãi suất gắn liền với tự do hoá tỉ giá hối đoái.
2.6. Kinh nghiệm của một số nước khi tự do hoá lãi suất
Qua kinh ngiệm của một số nước cho thấy, tự do hoá lãi suất có xu hướng làm bộc lộ những yếu kém về thể chế và cơ cấu trong khu vực tài chính và có thể làm tổn hại đến hệ thống ngân hàng do những cơn sốc vĩ mô xuất phát từ bên ngoài và chính sách vĩ mô không thích hợp. Do vậy, cải cách lãi suất nhanh không gắn liền với việc củng cố qui chế phòng ngừa và khuôn khổ thanh tra thường kéo theo sự chấn động hệ thống tài chính. Cụ thể những yếu kém về thể chế và cơ cấu khu vực tài chính đó như sau:
Các ngân hàng mất khả năng thanh toán, đặc biệt các ngân hàng có vốn tự có thấp bởi vì chế độ lãi suất linh hoạt, do cố gắng bù đắp các khoản thua lỗ, các ngân hàng bị đe doạ về khả năng thanh toán có xu hướng phân bổ tín dụng vào những dự án có lãi suất cao nhưng nhiều rủi ro mà không chú trọng đúng mức tới việc thu hồi vốn, xảy ra sự lựa chọn đối nghịch (đối với cả hệ thống tài chính và người đi vay).
Hệ thống ngân hàng không đủ năng lực, thể chế và kĩ năng trong việc kiểm soát tiền tệ và kiểm soát rủi ro trong môi trường nới lỏng.
Qui chế an toàn và phòng ngừa rủi ro của các ngân hàng không thích hợp, đặc biệt là tỉ lệ vốn tự có trên tài sản có của các ngân hàng thấp.
Hệ thống thông tin, công tác kế toán không rõ ràng và không thích hợp, kiểm toán không được quan tâm đúng mức, việc kiểm soát nội bộ các tổ chức tài chính không đầy đủ, bởi vậy không đáp ứng được yêu cầu công tác thanh tra, giám sát và kiểm soát nội bộ.
Sự đánh giá không đầy đủ của công chúng với rủi ro các loại hình tổ chức tài chính khác nhau.
Khuôn khổ luật pháp không đầy đủ và không đủ sức cưỡng chế việc thực hiện các hợp đồng hay trong việc thực hiện luật phá sản, từ đó ảnh hưởng đến việc chấp hành kỉ luật tài chính của các bên vay.
Thị trường tài chính chưa phat triển và chưa đa dạng hoá, từ đó dẫn đến sự tập trung qua mức vào hệ thống ngân hàng. Mặt khác làm cho người vay chịu những rủi ro lãi suất quá mức , hoặc hạn chế họ tiếp cận với các nguồn vốn của các tổ chức tài chính chính thức.
Hệ thống thanh toán ở trình độ thấp làm cho công tác quản lí tiền tệ kém hiệu quả, từ đó làm giảm chức năng của lãi suất trong viêc phân bổ các nguồn lực.
Điều cần nhấn mạnh là kinh ngiệm quốc tế đã chứng minh rằng ở những nước chú trọng đến môi trường tài chính và thể chế hoạt động của tổ chức ngân hàng kể từ khi bắt đầu quá trình cải cách sẽ đề ra bước đi thích hợp trong cải cách lãi suất và đã đạt được những kết quả tốt hơn và tiến xa hơn rất nhiều so với các nước không làm như vậy.
Theo quan điểm của ngân hàng thế giới, trong vòng hai thập kỉ vừa qua, các nhà kinh tế đã nhấn mạnh vai trò sống còn của chính sách lãi suất trong quá trình phát triển. Kinh ngiệm của các nước đang phát triển cho thấy rằng chính sách này nên đánh giá lại trong bối cảnh các chương trình điều chỉnh kinh tế.
Chính sách lãi suất là một trong các vấn đề gây nhiều tranh cãi nhất trong các chiến lược điều chỉnh kinh tế ở các nước đang phát triển. Trong các chương trình tự do hoá tài chính với mục đích là loại bỏ kiểm soát lãi suất, vẫn chưa có một sự thoả thuận nào về một chiến lược tốt nhất để đạt được mục tiêu này. lãi suất nên tự do hoá từ từ hay trong một khoảng thời gian ngắn ? Điều kiện cần có để tự do hoá lãi suất là gì ? trình tự chính sách cho các nước có mức lạm phát thấp có khác với các nước có mức lạm phát cao hay không ? công tác quản lí, giám sát các ngân hàng quan trọng như thế nào ?
Mặc dù không có một cơ chế cố định hay nói khác là một công thức để đạt được mục tiêu tự do hoá lãi suất, nhưng kinh nghiệm của các nước đang phát triển khi tự do hoá lãi suất cho thấy tầm quan trọng của trạng thái ban đầu của nền kinh tế, và qui chế thận trọng đối với hệ thống tài chính.
Qua kinh nghệm của các nước đang phát triển có thể xác định được 4 chiến lược chính sách, tuỳ thuộc vào môi trường kinh tế vĩ mô ban đầu có ổn định hay không ổn định, và sự giám sát ngân hàng có đầy đủ hay không. Có thể tóm tắt các chiến lược đó như sau:
Chiến lược 1: Trong đó sự bất ổn định kinh tế vĩ mô kết hợp với việc giám sát ngân hàng yếu kém
Chiến lược 2: Trong đó kết giữa bất ổn định kinh tế vĩ mô, sự mạo hiểm của ngân hàng (ngân hàng cho vay với độ rủi ro cao) và sự giám sát của hệ thống ngân hàng có hiệu quả.
Chiến lược 3: Trong đó nền kinh tế vĩ mô ổn định, nhưng tính mạo hiểm của các ngân hàng đã làm nảy sinh rủi ro do sự giám sát không đầy đủ.
Chiến lược 4: Trong đó nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát đầy đủ.
4 chiến lược tự do hoá lãi suất ở các nước đang phát triển theo mô hình kinh tế vĩ mô ban đầu và việc giám sát ngân hàng
Trình tự cải cách
Điều kiện ban đầu trong nước
Sự bất ổn kinh tế vĩ mô kết hợp với giám sát ngân hàng yếu kém
Kết hợp giữa bất ổn định kinh tế vĩ mô và sự giám sát của ngân hàng có hiệu quả
Nền kinh tế vĩ mô ỏn định và hệ thống giám sát ngân hàng không đầy đủ
Nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát đầy đủ
Bước thứ nhất
ổn định nền kinh tế và tăng cường giám sát ngân hàng trong khi điều chỉnh lãi suất
ổn định nền kinh tế và duy trì giám sát bắt đầu dần dần thả nổi lãi suất
Duy trì ổn định kinh tế và tăng cường giám sát, trong khi nâng cao giám sát, tạm thời điều chỉnh lãi suất
Duy trì ổn định kinh tế và giám sát, có thể đồng thời thả nổi lãi suất
Bước thứ hai
Thả nổi lãi suất
Thả nổi lãi suất
Thả nổi lãi suất
Nếu xét về lí thuyết, đối với tất cả 4 trường hợp phải đạt được sự ổn định kinh tế vĩ mô và việc giám sát ngân hàng chặt chẽ trước khi thả nổi lãi suất hoàn toàn. thả nổi hoàn toàn lãi suất và đồng thời chỉ có thể thành công trong một trường hợp duy nhất đó là: nền kinh tế vĩ mô ổn định và hệ thống ngân hàng được giám sát có hiệu quả. Trong 3 trường hợp còn lại, lãi suất được điều chỉnh và quản lí mềm dẻo nhằm đạt được mức lãi suất thực dương phải là qui tắc quan trọng trong việc dự đoán lợi ích đầy đủ từ ổn định kinh tế, cải tiến sự giám sát ngân hàng, hoặc cả từ hai yếu tố.
Vào cuối những năm 70 và đầu những năm 80 ở Achentina, Chilê và Uru goay, kinh nghiệm cho thấy: cả ba nước đều mất cân đối kinh tế vĩ mô trầm trọng khi cải cách lãi suất và tự do hoá tài chính (chiến lược thứ nhất). Tỉ lệ tăng sản lượng, tiết kiệm, đầu tư đều thấp, tỉ lệ lạm phát cao, thâm hụt cán cân vãng lai với nước ngoài lớn so với thu nhập quốc dân. Các nước này bỏ hoàn toàn và đột ngột qui định về lãi suất cho vay tối đa cũng như kiểm soát tín dụng, chính phủ nới lỏng kiểm soát đối với cơ cấu ngân hàng độc quyền ... Kết hợp giữa việc kiểm soát lỏng lẻo và một môi trường vĩ mô không ổn định càng làm tăng thêm tính mạo hiểm trong hệ thống ngân hàng. Chiến lược này làm tăng nhanh ngay lập tức lãi suất thực đối với tiền gửi và tiền vay. Trong thực tế, các ngân hàng đã tăng lãi suất cho vay và chấp nhận nhiều rủi ro hơn.
Lãi suất quá cao đã buộc nhiều người vay đáng tin cậy không giám chấp nhận rủi ro, phải từ bỏ thị trường và chỉ còn lại những khách hàng kém tin cậy hơn (đây là sự lựa chọn đối nghịch) làm cho chất lượng các khoản vay ngân hàng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Hơn nữa, để bù đắp chi phí đi vay cao hơn, khách hàng có thể chấp nhận những dự án nhiều rủi ro (đây là vấn đề rủi ro đạo đức). Các công ti chấp nhận rủi ro phải đương đầu với sự ế ẩm. Kết hợp các yếu tố giám sát không đầy đủ và bất chắc kinh tế vĩ mô đã khến các ngân hàng trở nên quá liều lĩnh, cấp tín dụng cho các công ti ít có khả năng trả nợ. Các khoản vay không có hiệu quả tăng lên nhanh chóng và tất yếu là nhiều công ti bị đẩy đến con đường phá sản. và quá trình tự do hoá kết thúc một cách hỗn độn. Chính phủ Achentina đã phải thiết lập việc kiểm soát lãi suất, và cả ba chính phủ phải đối đầu với hiện tượng các ngân hàng bị phá sản lan rộng.
ở Philipin và Thổ Nhĩ Kì trong những năm 80 cũng tương tự như vậy - bất ổn kinh tế vĩ mô kết hợp với sự liều lĩnh nghiêm trọng. Cả hai nước này đều tự do hoá lãi suất trong khi tình hình tài chính của khối doanh nghiệp rất yếu kém. Sau khi thực hiện tự do hoá tài chính, lợi nhuận của khối tư nhân và hệ thống ngân hàng bị giảm sút nghiêm trọng. Một qui chế quản lí yếu kém đã cho phép các ngân hàng không có khả năng thanh toán tránh phá sản bằng cách mời chào lãi suất tiền gửi quá cao, sử dung vốn mới huy động để thực hiện các khoản cho vay không hiệu quả. Mặt khác, các doanh nghiệp càng làm ăn thua lỗ lại càng tăng tỉ lệ vốn vay của mình dù cho chi phí đi vay đã tăng lên. Chính phủ Thổ Nhĩ Kì đã buộc phải khôi phục việc kiểm soát tỉ lệ lãi suất khi lãi suất thực tăng lên quá cao.
Tình hình ở Malaisia lại hoàn toàn khác (chiến lược thứ tư). Các giai đoạn dài ổn định kinh tế và giám sát ngân hàng chặt chẽ đã tạo điều kiện cho chính phủ tự do hoá lãi suất hoàn toàn. Chỉ trong vòng không đầy 3 năm, ở đất nước này chẳng gặp phải hậu quả tai hại nào khi tự do hoá lãi suất. Lãi suất thực dương đạt được cùng với: lượng tín dụng tăng lên với lãi suất ổn định và danh mục các khoản cho vay có hiệu quả của hệ thống ngân hàng.
Những kinh nghiệm của các nước phát triển trong hai thập kỉ qua cho thấy, nếu môi trường kinh tế vĩ mô không ổn định và nếu ngân hàng giám sát không có hiệu quả, thì việc tự do hoá lãi suất nên tiến hành từ từ trong khi theo đuổi chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, chính phủ cần giám sát chặt chẽ hệ thống ngân hàng để giảm thiểu sự mạo hiểm. ở những nước nào điều kiện kinh tế vĩ mô ổn định hơn và công cuộc cải cách được triển khai dần dần thì không cần tái áp dụng chế độ kiểm soát lãi suất.
Tự do hoá lãi suất cần được thực hiện song song ví cải cách kinh tế vĩ mô, nếu không sẽ xảy ra hiện tượng các dòng vốn không ổn định, tỉ lệ lãi suất cao, các công ti lâm vào cảnh khó khăn.
Chương 3
Một số giải pháp tiến tới tự do hoá lãi suất ở Việt Nam
3.1. Những thách thức trong điều hành công cụ lãi suất ở việt nam thời gian tới:
Quá trình đổi mới nền kinh tế thời gian qua ở Việt Nam chủ yếu phát triển theo chiều rộng. Các công cụ của chính sách kinh tế được sử dụng thời gian qua có thể nói đã phát huy hết tác dụng và sẽ ít phát huy tác dụng trước đòi hỏi phát triển nền kinh tế theo chiều sâu, trong đó công cụ lãi suất, cụ thể:
Cơ chế điều hành lãi suất thời gian qua chỉ thích hợp đối với giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế và hiện nay vẫn còn rất nhiều tồn tại. Khi nền kinh tế phát triển ở trình độ cao hơn, hệ thống tài chính ngày càng được mở rộng, các tổ chức tín dụng đa dạng hoá các hình thức huy động vốn và cho vay, nguồn vốn bên ngoài được huy động nhiều hơn, thị trường tài chính phát triển mạnh hơn, nếu cơ chế điều hành lãi suất vẫn duy trì như hiện nay sẽ không đáp ứng được đòi hỏi của nền kinh tế thị trường trong giai đoạn phát triển mới.
3.2. Định hướng về điều hành lãi suất ở Việt Nam trong thời gian tới
Với những tồn tại về lãi suất thời gian qua và những thách thức hiện nay về điều hành lãi suất ở Việt nam, vấn đề được đặt ra là lãi suất ngân hàng cần tiếp tục cải cách để hoàn thiện như thế nào đẻ phù hợp đòi hỏi nền kinh tế thị trường, góp phần đẩy mạnh qua trình tự do hoá tài chính. Sự lựa chọn tốt nhất và mang tính tất yếu phải qua là cải cách lãi suất theo từng bước phù hợp để tiến tới mục tiêu cuối cùng là tự do hoá lãi suất. Lãi suất cung - cầu, vốn thị trường và sự cạnh tranh của các tổ chức tín dụng mà hình thành nên ...
3.3. Việt Nam hiện tại đã hội tụ đủ các điều kiện để tự do hoá lãi suất hay chưa ?
Ta biết rằng khi thực hiện tự do hoá lãi suất sẽ có những ưu việt như đã nêu trên. Và ở Việt nam, mặc dù với nhận thức mục tiêu cuối cùng kà tự do hoá hoàn toàn lãi suất, đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế thị trường. Tự do hoá lãi suất, khi đó các mức và cơ cấu lãi suất sẽ do thị trường quyết định trên cơ sở cung - cầu về vốn và sự cạnh tranh giữa các tổ chức tài chính.
Tuy nhiên, qua kinh nghiệm của các nước khi tự do hoá lãi suất và căn cứ thực trạng ở Việt Nam thì Việt Nam hiện nay không nên khuyến khích việc tự do hoá hoàn toàn lãi suất ngay trong tương lai trước mắt với các lí do cơ bản sau đây:
Thứ nhất, sự ổn định kinh tế vĩ mô ở Việt Nam tuy đã đạt được những thành tựu quan trong song chưa đủ bền vững và chắc chắn để chịu đựng ngay các tác động của việc tự do hoá lãi suất, chưa đủ sức chịu đựng được các cú sốc từ bên ngoài với nền kinh tế có thể xảy ra khi tự do hoá lãi suất trong thời điểm hiện nay.
Thứ hai, các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ (như lãi suất tái chiết khấu chưa có điều kiện áp dụng, nghiệp vụ thị trường mở chưa hoàn thiện ...) chưa được hoàn thiện để đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế khi tự do hoá lãi suất. điều hành chính sách tiền tệ trong giai đoạn đầu chuyển đổi nền kinh tế, chúng ta vẫn phải sử dụng một số công cụ trực tiếp, chưa thể sử dụng ngay đồng loạt các công cụ gián tiếp của chính sách tiền tệ như các nước phát triển mà phải dần dần từng bước chuyển sang sử dụng các công cụ gián tiếp. Sự chuyển đổi sử dụng các công cụ (từ trực tiếp sang gián tiếp) đòi hỏi phải có thời gian ...
Thứ ba, khuôn khổ pháp lí và qui chế phòng ngừa rủi ro chưa đầy đủ và đồng bộ, nếu tự do hoá lãi suất quá sớm sẽ không kiểm soát được.
Thứ tư, tình hình tài chính và năng lực, thể chế trong đánh giá và kiểm soát rủi ro của các ngân hàng thương mại ở Việt nam chưa đủ vững chắc, nên tự do hoá lãi suất cũng có thể khuyến khích các ngân hàng chấp nhận cả những người đi vay mạo hiểm, từ đó ảnh hưởng tính lành mạnh của các ngân hàng thương mại.
Thứ năm, công tác thanh tra, kiểm soát của ngân hàng trung ương tuy đã trưởng thành một bước đáng kể nhưng chưa đủ mạnh và chưa bao quát hết sự đòi hỏi mới của nền kinh tế. Công tác kế toán, chưa nền nếp và chưa đạt tới các chuẩn mực quốc tế.
Thứ sáu, bối cảnh kinh tế trên thế giới và trong khu vực hiện nay không thật thuận lợi đặc biệt cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực vừa qua có ảnh hưởng rất lớn đến môi trường tài chính trên thế giới và Việt Nam
Từ những lý do nêu trên cho thấy, thời điểm hiện nay ở Việt Nam tự do hoá hoàn toàn lãi suất chưa phải là thời điểm thích hợp, hay nói khác không thể tự do hoá lãi suất một cách đột ngột hay nóng vội. Do vậy, cần duy trì kiểm soát tự do hoá lãi suất với một mức độ nhất định trong giai đoạn quá độ chuyển đổi nền kinh tế hiện nay. Muốn thực hiện thành công mục tiêu tự do hoá lãi suất ở Việt Nam cần chuẩn bị các điều kiện cần thiết, trình tự và các bước đi thích hợp với hoàn cảnh, trình độ phát triển nền kinh tế Việt Nam và bối cảnh nền kinh tế thế giới mới đẳm bảo tự do hoá lãi suất thành công.
Tuy nhiên chúng ta không thể ngồi chờ một cách bị động mà phải tạo ra những điều kiện và tận dụng những cơ hội, đề ra các chiến lược giải pháp để thực hiện thành công mục tiêu này. Và chúng ta có thể nhận thấy hiện nay ở nước ta cũng xuất hiện những thuận lợi ban đầu rất cơ bản để tiến tới hiện thực hoá mục tiêu này trong tương lai, đó là:
Thứ nhất, luật ngân hàng nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã được ban hành và có hiệu lực từ tháng 10/1998. Có thể đây là thuận lợi lớn, từ đây hoạt động ngân hàng nói chung và công tác xây dựng, điều hành các công cụ của chính sách tiền tệ, việc giám sát hoạt đọng của các tổ chức tín dụng ... đã được nâng lên tầm pháp lí cao hơn trong đó luật Ngân Hàng Nhà Nước đã được xác định rõ vai trò, chức năng của Ngân Hàng Nhà Nước là cơ quan quản lí, xây dựng, điều hành chính sách tiền tệ quốc gia bằng những công cụ, công cụ lãi suất điều hành theo lãi suất cơ bản, lãi suất cấp vốn. Các tổ chức tín dụng đã có khung pháp lí khá đầy đủ.
Thứ hai, chúng ta đã thu được những kinh nghiệm quí báu về xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ nói chung và công cụ lãi suất nói riêng trong hơn 10 năm đổi mới hoạt động ngân hàng. Cải cách lãi suất thời kì này là hoàn toàn đúng hướng, thu được những thành quả to lớn và đã hướng dần tới mục tiêu tự do hoá lãi suất. Cải cách lãi suất chúng ta không vấp phải những sai lầm đáng tiếc.
Thứ ba, chúng ta đã có được những bài học kinh nghiệm bổ ích của các nước trên thế giới và trong khu vực đặc biệt là các nước đang phát triển trong quá trình thực hiện tự do hoá tài chính nói chung và tự do hoá lãi suất nói riêng, qua đây học tập được những kinh nghiệm thành công và cũng nhận biết được những vấp váp sai lầm và những cạm bẫy có thể gặp trên con đường tiến tới tự do hoá lãi suất.
Thứ tư, hệ thống ngân hàng thương mại ở Việt Nam đã có sự trưởng thành đáng kể cả về qui mô hoạt động, chất lượng, kinh nghiệm quản lí và bước đầu hoà nhập với cộng đồng tài chính quốc tế.
Thứ năm, trình độ cán bộ hệ thống ngân hàng đã được nâng lên một bước đáng kể so với trước thông qua công tác đào tạo, đào tạo lại và học hỏi kinh ngiệm bên ngoài.
3.4. Một số giải pháp và các bước đi tiến tới tự do hoá lãi suất trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam
Xuất phát từ các cơ sở lí luận và thực tiễn nêu trên, để hiện thực hoá mục tiêu tự do hoá lãi suất ở Việt Nam cần có các giải pháp và bước đi sau:
Trước mắt, ở Việt Nam chưa đủ điều kiện tự do hoá lãi suất hoàn toàn, cần tạm thời duy trì kiểm soát lãi suất với một mức độ nhất định trong giai đoạn quá độ hiện nay, mà cụ thể là duy trì kiểm soát bằng trần lãi suất cho vay giữa các tổ chức tín dụng và ngân hàng là hợp lí hơn cả. Duy trì trần lãi suất sẽ hạn chế các ngân hàng thương mại yếu về tài chính (mà hiện nay ở Việt Nam, số ngân hàng vững mạnh về tài chính chưa nhiều) chấp nhận rủi ro qua mức, tránh cho các ngân hàng lựa chọn sai (lựa chọn đối nghịch) những đối tượng vay chấp nhận lãi suất cho vay cao nhưng chứa đựng nhiều rủi ro và ít khả năng trả nợ làm ảnh hưởng tính bền vững của hệ thống ngân hàng.
Mặt khác trần lãi suất cũng đảm bảo rằng những khách hàng vay có những dự án lợi nhuận thấp nhưng ít rủi ro không bị loại ra khỏi thị trường.
Như vậy, kiểm soát trần lãi suất trong giai đoạn quá độ hạn chế lựa chọn sai cho người vay, đảm bảo tính bền vững của hệ thống ngân hàng đồng thời cũng tạo ra sự linh hoạt nhất định cho các ngân hàng thương mại trong việc định giá các khoản cho vay.
Kinh nghiệm quốc tế cho thấy chỉ nên kiểm soát một trần lãi suất cho vay trung và ngắn hạn. Không nên qui định trần lãi suất cho vay khu vực nông thôn cao hơn trần lãi suất cho vay khu vực thành thị vì khu vực nông thôn có tỉ suất lợi nhuận thấp hơn khu vực thành thị.
Tuy nhiên, để lãi suất được linh hoạt thì trần lãi suất cho vay không nên cứng nhắc mà cần được điều chỉnh thường xuyên bám sát theo diễn biến của tình hình lạm phát, tỉ giá hối đoái và sự biến động của lãi suất trên thị trường quốc tế. Nếu chúng ta tiếp tục sử dụng trần lãi suất cho vay ngoại tệ (về lâu dà
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0867.doc