Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp ; ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và tiếp thu quan điểm Mác- xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 8881 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc thuộc địa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tộc mình”.
Nền độc lập thực sự hoàn toàn, theo Hồ Chí Minh còn phải được thể hiện ở ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân.
Suốt đời Hồ Chí Minh chỉ có một ham muốn tột bậc là “làm sao cho nước ta được hoàn độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Người nói: “Chúng ta đã hy sinh, đã giành được độc lập, dân chỉ thấy giá trị của độc lập khi ăn đủ no, mặc đủ ấm”. Tư tưởng này thể hiện tính nhân văn cao cả và triệt để cách mạng của Hồ Chí Minh.
Độc lập, tự do là mục tiêu chiến đấu là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc Việt Nam trong thế kỷ XX, đồng thời cũng là nguồn động viên lớn đối với các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới, là một tư tưởng lớn trong độc lập giải phóng dân tộc. “ Không có gì quý hơn độc lập tự do” là khẩu hiệu hành động của dân tộc Việt Nam, đồng thời cũng là nguồn cổ vũ các dân tộc bị áp bức trên thế giới đang đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Có thể nói, tinh thần “không có gì quí hơn độc lập tự do” là tư tưởng và lẽ sống của Hồ Chí Minh. Nó là nguồn sức mạnh làm nên chiến thắng không chỉ của dân tộc Việt Nam mà còn của các dân tộc bị áp bức trên thế giới. Vì vậy Người không chỉ được tôn vinh là “Anh hùng giải phóng dân tộc” của Việt Nam mà còn được thừa nhân là “Người khởi xướng cuộc đấu tranh của các dân tộc thuộc địa trong thế kỷ XX”.
Chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước.
Khi chuyển sang giai đoạn chủ nghĩa đế quốc, các cường quốc tư bản phương Tây ra sức tiến hành chiến tranh xâm lược thuộc địa, thiết lập ách thống trị của chủ nghĩa thực dân với những chính sách tàn bạo.
Từ những năm 20 của thế kỷ XX, Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy sứ áp bức, bóc lột của chủ nghĩa đế quốc đối với các dân tộc thuộc địa càng nặng nề, thì phản ứng của dân tộc bị áp bức càng quyết liệt. Theo Hồ Chí Minh do nền kinh tế còn lạc hậu, chưa phát triển nên sự phân hóa giai cấp ở Đông Dương chưa triệt để, vì thế cuộc đấu tranh giai cấp không diển ra như ở phương Tây. Các giai cấp vẫn có sự tương đồng lớn: dù là địa chủ hay nông dân họ đều chịu chung số phận là người nô lệ mất nước.
Cùng với sự kết án chủ nghĩa thực dân và cổ vũ các dân tộc thuộc địa vùng dậy đấu tranh, Hồ Chí Minh khẳng định: Đối với các dân tộc thuộc địa ở phương Đông, “chủ nghĩa dân tộc là một động lực lớn của đất nước”. Vì thế, “người ta sẽ không làm gì được cho người An Nam nếu không dựa trên các động lực vĩ đại, và duy nhất của đời sống xã hội của họ”. Người kiến nghị về cương lĩnh hành động của Quốc tế Cộng sản là: “Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc là chủ nghĩa yêu nước chân chính của các dân tộc thuộc địa. Đó là sức mạnh chiến đấu và thắng lợi trước bất cứ thế lực ngoại xâm nào.
Hồ Chí Minh cho rằng: “Chính do tinh thần yêu nước mà quân đội và nhân dân ta đã mấy năm trường chịu đựng trăm đắng nghìn cay, kiên quyết đánh cho tan bọn thực dân cướp nước và bọn Việt gian phản quốc, kiên quyết xây dựng một nước Việt Nam độc lập, thống nhất, dân chủ, tự do”. Trong tư tưởng của Người, chủ nghĩa dân tộc chân chính “ là một bộ phận của tình thần quốc tế”, khác hẳn với tinh thần “vị quốc” của bọn đế quốc phản động.
Xuất phát từ sự phân tích quan hệ giai cấp trong xã hội thuộc địa, từ truyền thống dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh đã đánh giá cao sức mạnh của chủ nghĩa dân tộc chân chính. Muốn cách mạng thành công thì người cộng sản phải biết nắm lấy và phát huy.Và Người cho đó là “ một chính sách mang tính hiện thực tuyệt vời.”
CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Khẳng định vai trò lịch sử của giai cấp công nhân và quyền lãnh đạo duy nhất của Đảng Cộng sản trong quá trình cách mạng Việt Nam. Giai cấp công nhân lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản Việt Nam, nói tới giai cấp công nhân là giai cấp như một chỉnh thể chứ không phải từng nhóm, từng người. Để có thể lãnh đạo, giai cấp công nhân phải có lực lượng, có tổ chức tiêu biểu cho sự tự giác và bản chất giai cấp của mình. Lực lượng đó là Đảng Cộng sản. Xét về thành phần xuất thân thì nước ta có nhiều đảng viên không phải là công nhân. Nhưng, bất cứ đảng viên nào cũng phải đứng trên lập trường giai cấp công nhân thể hiện ở lý tưởng, ở chủ nghĩa Mác – Lênin và đường lối cách mạng, ở tinh thần kiên quyết cách mạng trong cuộc đấu tranh để thực hiện sứ mệnh của giai cấp công nhân vì lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Điều này được Đảng ta khẳng định rất rõ: “Đảng Cộng sản Viêt Nam là đội tiên phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc”. Đảng của giai cấp công nhân nước ta đã lãnh đạo toàn dân hoàn thành thắng lợi trọn vẹn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và đang tiến hành công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ lịch sử khó khăn, phức tạp nhất. Đồng thời họ là lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, là cơ sở xã hội chủ yếu nhất của Đảng và Nhà nước ta, là hạt nhân vững chắc trong liên minh công nhân – nông dân – trí thức, nền tảng của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chủ trương đại đoàn kết dân tộc rộng rãi trên nền tảng liên minh công nhân, nông dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đại đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược, đảm bảo thành công của cách mạng, nó là truyền thống quý bảo của dân tộc và Người cho rằng: “Muốn giải phóng dân tộc bị áp bức và nhân dân lao động phải tự mình cứu lấy mình bằng đấu tranh vũ trang cách mạng, bằng cách mạng vô sản” vì thế trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng có thể và cần thiết phải điều chỉnh chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng cho phù hợp với những đối tượng khác nhau, nhưng đại đoàn kết dân tộc luôn luôn được Người nhận thức là vấn đề sống còn của cách mạng. Đại đoàn kết dân tộc cần có sự liên kết giữa các giai cấp để tạo nên sức mạnh tổng hợp, đây là then chốt của vấn đề đại đoàn kết dân tộc. Muốn cách mạng thắng lợi phải có lực lượng đủ mạnh, muốn có lực lượng phải quy tụ cả dân tộc thành một khối thống nhất và phải có mối quan hệ chặt chẽ, qui mô và mức độ của thành công,
Sử dụng bạo lực cách mạng của quần chúng để chống lại bạo lực phản cách mạng của kẻ thù. Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng bạo lực bao giời cũng phải dựa vào hai lực lượng: chính trị toàn dân và vũ trang nhân dân, trong đó lực lượng chính trị là cơ sở để xây dựng lực lượng vũ trang. Tư tưởng bạo lực cách mạng bạo lực của Hồ Chí Minh hoàn toàn xa lạ, đối lập với tư tưởng hiếu chiến của kẻ xâm lược, Người tìm mọi cách ngăn chặn các cuộc xung đột vũ trang, đẩy lùi chiến tranh, có khi phải chấp nhận nhân nhượng, có nguyên tắc, bởi vì Người yêu nước thương dân, quý trọng sinh mệnh con người. Ngay cả khi đang kháng chiến, người cũng không bỏ lỡ cơ hội tìm kiếm hoà bình, sớm kết thúc chiến tranh. Nhưng không có cách nào khác để tránh khỏi chiến tranh, kẻ thù độc ác và ngoan cố gây chiến tranh xâm lược, Người kiên quyết kêu gọi toàn dân tộc, toàn quân nhất tề đứng dậy chiến đấu đến thắng lợi hoàn toàn. “Đồng bào tôi và tôi thành thực muốn hoà bình…” . Do chúng ta phải phát động và tiến hành cuộc chiến tranh chính nghĩa chống xâm lược và bạo tàn nên Hồ Chí Minh luôn luôn nhấn mạnh vai trò quyết định của chính trị trong việc vạch ra đường lối chiến lược, phát động và tập hợp quần chúng tham gia kháng chiến, xây dựng và sử dụng lực lượng, củng cố hậu phương, nâng cao trạng thái chính trị - tinh thần của nhân dân và lực lượng vũ trang.
Thiết lập chính quyền nhà nước của nhân dân, do dân và vì dân. Hồ Chí Minh muốn thiết lập một chính quyền kiểu mới, thành quả của Cách mạng Tháng tám, xoá bỏ chế độ áp bức bóc lột hơn 80 năm của thực dân, đế quốc và hàng nghìn năm phong kiến. Kể cả trong điều kiện khó khăn nhất Hồ Chủ tịch vẫn xác định mục tiêu phấn đấu của Nhà nước là:
“1. Làm cho dân có ăn.
2. Làm cho dân có mặc.
3. Làm cho dân có chỗ ở.
4 . Làm cho dân có học hành”.
Người giải thích: “Chúng ta đã hy sinh phấn đấu để dành độc lập. Chúng ta đã tranh được rồi… Chúng ta tranh được tự do, độc lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét, thì tự do độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ”. Là người sáng lập Đảng và Nhà nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đích thân lãnh đạo việc xây dựng bộ máy nhà nước và hệ thống pháp luật Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh về xây nhà nước pháp quyền dựa trên một hệ thống quan điểm rõ ràng, nhất quán và phù hợp với truyền thống dân tộc Việt Nam. Người cho rằng, xây dựng nhà nước pháp quyền là xuất phát từ yêu cầu dân chủ triệt để; với một nhà nước hợp hiến, hợp pháp; có hệ thống pháp luật dân chủ, nhân văn, là công cụ phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ và phát huy quyền con người.
Gắn kết mục tiêu độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, Hồ Chí Minh đã xác định mục tiêu chiến lược của cách mạng Việt Nam là hướng tới xây dựng chủ nghĩa xã hội cộng sản, mà trước hết là tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa. Cách mạng là sự đổi mới toàn diện trên cơ sở phá bỏ tận gốc chế độ xã hội cũ lạc hậu, phản động, cuộc cách mạng nào cũng có tính chất đó. Người đã tiếp thu và chấp nhận tính hiện đại của học thuyết chủ nghĩa xã hội khoa học, bởi Người nhận thức rằng, chỉ có chủ nghĩa này nới có thể giúp các dân tộc thuộc địa tiến hành giành độc lập hoàn toàn và từ đó đưa nhân dân của mình tiến tới tự do, hạnh phúc thực sự. Nguyễn Ái Quốc đã viết: “Cuộc cách mạng vô sản không thể thắng lợi ở các nước nông nghiệp và nửa nông nghiệp nếu như giai cấp vô sản cách mạng không được quần chúng nông dân ủng hộ tích cực, đó là một sự thực hiển nhiên đối với cả hai cuộc cách mạng - cách mạng tư sản dân quyền và cách mạng vô sản”. Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Hồ Chí Minh nói: “Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý gì”. Do đó sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do. Trong thời kỳ cách mạng tư sản dân quyền, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản để thực hiện các khẩu hiệu của mình và chuyển cuộc cách mạng tư sản dân sản dân quyền thành cách mạng vô sản không thể giành được thẳng lợi hoàn toàn nếu không thể giành được thắng lợi hoàn toàn nếu không có khối liên minh cách mạng của giai cấp vô sản và nông dân, nếu không có sự tham gia tích cực của quần chúng nông dân bị áp bức vào việc thực hiện khẩu hiệu cách mạng. Thực tiễn trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô với những thành tựu chói sáng càng thúc giục Hồ Chí Minh phấn đâu chỉ vì mục tiêu cuối cùng la độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Với Chủ tịch Hồ Chí Minh dân tộc là trên hết! Ngay từ khi bước chân lên tàu tìm đường cứu nước năm 1911 chàng trai trẻ Nguyễn Tất Thành đã nói: “ Tự do cho đồng bào tôi, độc lập cho dân tộc tôi, đấy là tất cả những điều tôi muốn; đấy là tất cả những điều tôi hiểu”.
Bác từng nói, hoài bão lớn nhất của Bác là “ dân tộc Việt Nam được độc lập, nhân dân được tự do, mọi người đều có cơm ăn, áo mặc, đều được học hành. Để lái con tàu cách mạng Việt Nam đi đến mục tiêu ấy Bác đã phải vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, hi sinh, mất mát. Cả cuộc đời hoạt động của Người là để giải phóng dân tộc, để dân tộc được độc lập, nhân dân được no ấm hạnh phúc và quyền công dân được đảm bảo. Tư tưởng ấy nhất quán từ khi Người bắt đầu cuộc đời hoạt động cách mạng cho tới khi Người mãi mãi ra đi.
Như chúng ta đã biết Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Sự phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp ; ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác- Lênin và tiếp thu quan điểm Mác- xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác- Lênin mà còn là sự phát triển mang định hướng rất cơ bản. Trong bối cảnh quốc tế hết sức phức tạp lúc bấy giờ và mặc dù chịu rất nhiều sức ép, nhưng bao giờ Hồ Chí Minh cũng nắm vững tư tưởng độc lập, tự chủ trong tư duy chính trị và hành động thực tiễn. Ngay từ năm 1920 Bác đã xác định con đường phải đấu tranh rồi.Tại sao Bác lại phải vào Đảng cộng sản Pháp và sau này khi sang Liên Xô, Bác tán thành nghị quyết Quốc tế cộng sản III. Đó là vì trong các cương lĩnh ấy có nói tới cuộc cách mạng đánh đổ giai cấp thống trị. Để tranh thủ sự ủng hộ của phong trào cộng sản thế giới và nhằm mục đích thực hiện cho kỳ được cuộc cách mạng giải phóng dân tộc Bác đã đề xướng thuyết “ hai cuộc cách mạng”: cách mạng dân tộc và cách mạng vô sản. Bác đã nói với các đồng chí cộng sản Pháp rằng “ Các đồng chí nói thế giới chỉ có một cuộc cách mạng- cuộc cách mạng vô sản. Đấy là cuộc cách mạng ở các nước châu Âu, hay nói đúng hơn là các nước công nhiệp châu Âu, còn chúng tôi là các nước thuộc địa mênh mông như thế này, có phải các đồng chí giải phóng là đã đồng thời giải phóng chúng tôi đâu. Chúng tôi phải tự làm lấy”. Câu nói của Người là bằng chứng hùng hồn cho mục tiêu đặt độc lập dân tộc lên trên hết, trước hết. “ Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận, giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”.
Khác với các con đường cứu nước của ông cha ta, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa phong kiến cuối thế kỉ XIX, hoặc chủ nghĩa tư bản đầu thế kỉ XX con đường cứu nước của Hồ Chí Minh là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Năm 1911 Nguyễn Ái Quốc ra đi tìm đường cứu nước. Người muốn đi tìm chân lí cho dân tộc ngay chính tại quê hương của chủ nghĩa tư bản. Sau những năm ở các nước thuộc địa châu Á, châu Phi, châu Mỹ la tinh, những kết luận được Người rút ra có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong hành trình tìm đường cứu nước cho dân tộc Việt Nam. Nguyễn Ái Quốc cho rằng, chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng tàn ác, vô nhân đạo, là kẻ thù của nhân dân lao động khắp thế giới. Theo Người, con đường cách mạng vô sản là “ con đường giải phóng chúng ta”, do đó muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”, rằng “ chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết, ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người, niềm vui, hòa bình, hạnh phúc…”. Trong quá trình tìm đường cứu nước cứu dân và định hình đường lối chính trị giải phóng, giành độc lập dân tộc, Nguyễn Ái Quốc không chỉ hoạt động ở các nước châu Âu, phương tây tư bản chủ nghĩa mà Người còn hoạt động ở phương Đông, châu Á, tìm hiểu thực tiễn các phong trào đấu tranh ở Trung Quốc và Thái Lan. Những cứ liệu thực tiễn đó giúp Người so sánh, phân tích tìm ra những điểm tương đồng và khác biệt trong các kết cấu kinh tế- xã hội, các mâu thuẫn giai cấp và dân tộc rất khác nhau giữa các nước phương Tây và phương Đông đang còn tồn tại rất nhiều tàn tích phong kiến và đang là đối tượng khai thác , nô dịch của của chủ nghĩa thực dân. Mối quan tâm đặc biệt của Bác là tình hình Đông Dương đặc biệt là Việt Nam- đất nước đã mất độc lập chủ quyền và đang bị chủ nghĩa thực dân đè nén thống trị. Do đó việc nghiên cứu, khảo sát thế giới và khu vực cũng chỉ nhằm hướng tới giải phóng và phát triển dân tộc mình , đặt cách mạng Việt Nam trong phong trào cách mạng thế giới sao cho phù hợ với trào lưu, xu thế chung của lịch sử thế giới và thời đại. Bước ngoặt lớn trong sự hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh là khi Người giác ngộ chủ nghĩa Mác- Lênin và lựa chọn con đường cách mạng vô sản. Sự kiện lịch sử đánh dấu bước ngoặt đó là năm 1920, tại đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp họp ở thành phố Tours Người đã cùng với những đại biểu ưu tú của giai cấp công nhân Pháp tán thành quốc tế III và tham gia thành lập Đảng cộng sản Pháp. Từ một Người yêu nước tiến bộ Bác trở thành người chiến sĩ xã hội chủ nghĩa. Ở Hồ Chí Minh đã có sự gắn bó thống nhất giữa dân tộc và giai cấp, dân tộc quốc tế, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Năm 1923, Nguyễn Ái Quốc đến Liên Xô, thấy rõ sự hình thành của chủ nghĩa xã hội, nhất là những cải cách kinh tế với chính sách kinh tế mới (NEP) do Lênin khởi xướng làm hồi sinh nước Nga. Người có điều kiện nghiên cứu sâu hơn chủ nghĩa Lênin cũng như ảnh hưởng rộng lớn của cách mạng tháng mười, mở ra thời đại mới - quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Những tư tưởng đó đã được Người nghiền ngẫm sâu sắc, đã củng cố và khẳng định niềm tin của Người về cách mạng giải phóng dân tộc. Theo Người lực lượng lãnh đạo cách mạng đó chỉ có thể là giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc. Nhưng để có được độc lập thực sự phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Chính, vì vậy trong “ Chính cương vắn tắt” Người chủ trương tiến hành tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản. Tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng hay là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Người cũng đã xác định hai nội dung cơ bản: độc lập dân chủ và dân chủ nhân dân. Trong đó độc lập dân tộc là nhu cầu bức thiết cần phải tập trung sức lực giải quyết. Bởi mâu thuẫn giữa đế quốc xâm lược với nhân dân ta là mâu thuẫn bao trùm lên tất cả, còn phong kiến chỉ là tay sai và chịu sự chi phối của thực dân đế quốc. Mâu thuẫn này nổi lên sâu sắc, gay gắt, đòi hỏi phải giải quyết. Ngay từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, nhiệm vụ giải phóng dân tộc chống thực dân Pháp và tay sai đã là sự nghiệp đặt lên hàng đầu của nhân dân Việt Nam, cách mạng Việt Nam. Đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giải phóng dân tộc không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề giai cấp, coi nhẹ chủ nghĩa xã hội. Trái lại, Người luôn quan niệm độc lập dân tộc là mục tiêu trước tiên phải giành được để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Tuy trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, nhất là ở giai đoạn đấu tranh giành chính quyền, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là mục tiêu, nhưng nó chỉ rõ phương hướng đi lên của cách mạng Việt Nam- một cuộc cách mạng do giai cấp công nhân thông qua đội tiên phong của nó là Đảng Cộng sản lãnh đạo. Chính vì vậy, sau mỗi bước thắng lợi của cách mạng giải phóng dân tộc, Người luôn quan tâm phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, xây dựng lực lượng cách mạng đi đôi với củng cố chính quyền cách mạng. Đường lối vừa kháng chiến, vừa kiến quốc thực sự đóng vai trò to lớn vào sự nghiệp giải phóng dân tộc và tạo lập chế độ mới trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân.
Năm 1941 Người về nước trực tiếp lãnh đạo cách mạng Việt Nam từ thời điểm này tư tưởng, phương pháp cách mạng đầy sáng tạo của Người mới được khẳng định đầy đủ, nhanh chóng đi vào thực tiễn, đem lại lời giải đúng đắn nhất về lý luận để thúc đẩy cách mạng Việt Nam. Đó chính là chân lí giá trị tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Năm 1960 Người nói: “ Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ”.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội diễn ra trong suốt quá trình cách mạng, ở mỗi giai đoạn cách mạng; thống nhất ở mục tiêu trước mắt cũng như lâu dài. Bởi vì đối với một dân tộc đã phải trải qua một ngàn năm đô hộ của phong kiến phương Bắc và gần một trăm năm dưới gót sắt của chủ nghĩa thực dân thì khát vọng cao nhất và trực tiếp nhất là giành độc lập dân tộc. Nhưng để có được độc lập thực sự phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội; chủ nghĩa xã hội là mục tiêu, lý tưởng là điều kiện đảm bảo cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho nhân dân, là nhân tố đảm bảo vững chắc của nền độc lập dân tộc. Tư tưởng của Hồ Chí Minh sâu sắc ở chỗ, độc lập dân tộc không chỉ là khẩu hiệu mà phải độc lập thực sự, phải gắn liền với thống nhất Tổ quốc. Độc lập bao giờ cũng gắn liền với tự do dân chủ và ấm no hạnh phúc của nhân dân, nhất là đối với một nước thuộc địa nửa phong kiến có trên 90% là nông dân. Dân chủ trước hết lúc này phải giành lại ruộng đất cho dân cày và xác định quyền làm chủ của nông dân trên đồng ruộng của chính họ. Độc lập dân tộc và dân chủ là hai mục tiêu cơ bản, hai nội dung lớn mà cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân phải thực hiện. Như vậy rõ ràng tư tưởng Hồ chí Minh về con đường cách mạng Việt Nam là tư tưởng cách mạng không ngừng, là sự thống nhất giữa độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội. Vì vậy chủ nghĩa xã hội là con đường phát triển tất yếu của cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo, sau khi đã căn bản thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra. Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân việt Nam và của chính thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, là xu thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của thời đại ngày nay.
Xuất phát từ đặc điểm xã hội Việt Nam, một nươc nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội nên trong quan niệm về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa mà là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể, gần gũi với những nhu cầu đời thường của nhân dân lao động. Những quan niệm về chủ nghĩa xã hội được diễn đạt rất dễ hiểu, dễ đi vào lòng người và cổ vũ họ đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ cho nhân dân và hướng tới chủ nghĩa xã hội. Để quần chúng đễ hiểu về chủ nghĩa xã hội, Người giải thích rõ: “ Chủ nghĩa xã hội là làm sao cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc,… Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng, tinh thần ngày càng tốt đó chính là chủ nghĩa xã hội”. Như vậy có thể khẳng định rằng tư tưởng về chủ nghĩa xã hội của Người thể hiện đậm nét sự công bằng xã hội. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, đó là chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng giai cấp, giải phóng con người, vì một xã hội chủ nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh vừa phản ánh quy luật khách quan của sự nghiệp giải phóng dân tộc trong thời đại chủ nghĩa đế quốc, vừa phản ánh mối quan hệ khăng khít giữa mục tiêu giải phóng dân tộc với mục tiêu giải phóng giai cấp và giải phóng con người. Chỉ có xóa bỏ tân gốc tình trạng áp bức bóc lột; thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới bảo đảm cho người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phtas triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. Hồ Chí Minh nói “ Nước được độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”. Do đó sau khi giành độc lập, phải tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được sung sướng tự do. Người khẳng định “ Yêu Tổ quốc, yêu nhân dân phải gắn liền với yêu chủ nghĩa xã hội, vì có tiến lên chủ nghĩa xã hội thì nhân dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh hơn dân mình mỗi ngày một no ấm thêm, Tổ quốc mỗi ngày một giàu mạnh hơn”.
3. Giải phóng dân tộc tạo tiền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tu_tuong_ho_chi_minh_ve_van_de_dan_toc_thuoc_dia_va_y_nghia_cua_tu_tuong_do__5146.docx