Đề tài Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt Nam

MỤC LỤC

Chương I: Những tìm hiểu chung về tri thức khoa học 1

1- Tri thức khoa học 1

1.1- Khái niệm về khoa học 1

1.2- Khái niệm của tri thức khoa học 1

2- Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của XH 2

Chương II: Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt Nam 5

1- Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới 5

1.1- Tính tất yếu của công cuộc đổi mới 5

1.2- Tri thức khoa học là nền tảng và động lực cho sự phát triển của Việt Nam trong công cuộc đổi mới 5

2- Những yếu kém và hạn chế của tri thức khoa học ở Việt Nam 8

Chương III: Những giải pháp cần thiết va cấp bách cho việc phát triển tri thức khoa học ở nước ta hiện nay 10

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

 

 

 

 

doc15 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2216 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giúp ta bước những bước tiến dài trên con đường đổi mới một cách vững chắc và hiệu quả. Chúng ta luôn coi khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Trong bài tiểu luận này em chọn đề tài: "Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt Nam" do thời gian và trình độ còn hạn chế vì vậy bài viết này chắc chắn sẽ không tránh được những thiếu sót rất mong nhận được sự đóng góp chỉ dạy của các thầy cô. Bài viết này một phần nào đấy thể hiện quan điểm cách nhìn của giới trẻ Việt nam về cuộc sống và những biến đổi lớn lao của đất nước mình, đặc biệt là những vấn đề về tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới. Chương I Tìm hiểu chung về tri thức khoa học 1.-Tri thức khoa học 1.1- Khái niệm về khoa học Khoa học có nhiều định nghiã khác nhau. Với tính cách là một lĩnh vực đặc thù của con người khoa học bao gồm hoạt động tinh thần, hoạt động vật chất, hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn xã hội. Với tính cách là một hình thái xã hội, khoa học là một hệ thống tri thức khái quát, được hình thành, phát triển và kiểm nghiệm trên cơ sở thực tiễn. Khoa học phản ánh một cách chân thực các mối liên hệ bản chất, tất nhiên, các quy luật vận động của tự nhiên, xã hội và tư duy con người. Từ đó thấy rằng: Khoa học khác tôn giáo ở chỗ phản ánh một cách chân thực hiện thực, sự hình thành, phát triển của thế giới khách quan và được kiểm nghiệm qua thực tiễn; còn tôn giáo phản ánh hiện thực một cách hư ảo với niềm tin mù quáng xa rời thực tiễn. Sự phản ánh của khoa học khác với các hình thái ý thức xã hội khác ở chỗ phản ánh đúng đắn, chân thực những gì đang diễn ra và đi sâu vào các mối liên hệ bản chất, tất nhiên, các quy luật vận động phát triển của hiện thực. Hình thức biểu hiện chủ yếu của khoa học là các khái niệm, phạm trù, quy luật. Đối tượng nghiên cứu của khoa học bao hàm cả tự nhiên, xã hội và bản thân con người, các lĩnh vực vật chất, tinh thần và cả các hình thái ý thức xã hội. 1.2- Khái niệm về tri thức khoa học: Tri thức khoa học là những kiến thức thu được qua những quá trình học tập một cách công phu. Tri thức khoa học có các đặc trưng sau: Tri thức khoa học là tri thức ở tầm quản lý được cái bản chất, quy luật, nguyên nhân, xu hướng của thế giới khách quan. Tri thức khoa học là tri thức có tính hệ thống về sự vật khách quan. Tri thức khoa học là tri thức chân thực về thế giới khách quan và không ngừng phải được kiểm tra và chứng minh bởi lôgic và thực tiễn. 2- Vai trò của tri thức khoa học đối với sự phát triển của xã hội. Khoa học hình thành và phát triển trên cơ sở sản xuất và hoạt động thực tiễn. Vai trò của khoa học ngày càng tăng lên đối với sự phát triển của xã hội. Ngày nay, khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Vai trò của nó thể hiện ở chỗ khoa học trở thành điểm xuất phát, ra đời, những nghành sản xuất mới, công nghệ mới, nguyên liệu mới. Khoa học trở thành yếu tố tri thức không thể thiếu được của người lao động, biến người lao đọng thành người điều khiển kiểm tra quá trình sản xuất. Đội ngũ các nhà khoa học, kỹ thuật viên trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ngày một đông. Bản thân khoa học cũng trở thành một lĩnh vực hoạt động sản xuất vật chất với quy mô ngày càng lớn. Cùng với khoa học tự nhiên và khoa học kỹ thuật, các khoa học xã hội như kinh tế học, luật học, xã hội học... cũng không ngừng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong đời sống xã hội. Khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn giúp con người có đầu óc tư duy sáng tạo, tầm nhìn sâu rộng. Điều này đặc biệt có ý nghĩa đối với các nhà lãnh đạo vì phải nắm được cơ sở khoa học thực tế thì mới hoạch định được chính sách, đường lối phát triển của một tổ chức hay một quốc gia. Nền kinh thế giới chuyển dần sang cơ cấu phát triển theo chiều sâu, đặc biệt là trong công nghiệp cơ cấu đó chuyển dịch khá nhanh về phía những ngành có hàm lượng khoa học, công nghệ và trí tuệ cao, cơ cấu tiêu thụ giảm theo hướng giảm các sản phẩm dùng nhiều lao động và nguyên liệu. Chính tiến bộ khoa học - kỹ thuật đã làm cho vai trò của năng lượng và lợi thế so sánh của nguyên liệu và sản phẩm sơ cấp trong công nghiệp giảm dần Trước tình hình đó để tránh thua thiệt những nước xuất khẩu nguyên liệu và các sản phẩm sơ cấp - mà ở đây chủ yếu là các nước đang phát triển - phải tìm cách nhanh chóng nâng cao năng lực biến đổi tài nguyên thành sản phẩm tiêu dùng cao cấp, muốn như thế thì không có cách nào khác hơn là phải tìm đến tiến bộ khoa học - kỹ thuật. Như vậy, do tác động của tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà yêu cầu phải đổi mới về mặt kinh tế, từ cơ cấu sản xuất cho đến quan hệ giữa các quốc gia, trở thành một tất yếu không thể cưỡng lại được nếu như quốc gia đó muốn tồn tại và không bị nhấm chìm. Tiến bộ khoa học - kỹ thuật trong giai đoạn hiện nay, một mặt, tạo điều kiện cho sự quản lý sản xuất, quản lý xã hội nhanh nhạy và linh hoạt hơn, mặt khác nó lại cũng đòi hỏi phải có sự quản lý đối với nó nhanh nhạy và linh hoạt như vậy. Vì thế tiến bộ khoa học - kỹ thuật thực tế là mâu thuẫn với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những thay đổi nhanh chóng trong kỹ thuật và trong công nghệ cũng như trong tổ chức sản xuất, trong các mặt hàng, các sản phẩm được làm ra đòi hỏi phải có cách quản lý linh hoạt, mềm dẻo có hiệu quả cao, nghĩa là để chuyển sang chất lượng mới của sự phát triển thì phải có sự đổi mới sâu sắc và căn bản trong cơ chế quản lý. Ngày nay việc quản lý xã hội, trong đó quan trọng quản lý kinh tế, quản lý nhà nước, thành công đến mức nào là tuỳ thuộc vào khả năng xử lý thông tin. Không theo kịp những biến đổi hết sức mới trong lĩnh vực này mà khư khư giữ lấy cách quản lý cũ, lạc hậu thì không tránh khỏi bỏ lỡ thời cơ có thể vươn lên để tiến kịp cùng thời đại và thoát ra sự trì trệ. Cùng với những biến đổi về chất lượng trong lực lượng sản xuất, trong kinh tế và trong quản lý xã hội, tiến bộ khoa học - kỹ thuật còn tạo nên những biến đổi ghê gớm trong lĩnh vực kỹ thuật quân sự, trong việc tạo ra những phương tiện phá hoại và huỷ diệt sự sống, làm gay gắt những vấn đề toàn cầu của thời đại. Nhờ tiến bộ khoa học - kỹ thuật mà càng ngày người ta càng tạo ra được nhiều loại nguyên liệu và vật liệu có thể thay thế những thứ từ trước đến nay chỉ có thể dựa vào sự cung cấp của thiên nhiên. Vì vậy tiến bộ khoa học - kỹ thuật đang làm cho ưu thế dưới dạng tiềm năng về tài nguyên thiên nhiên trở nên tương đối. Tiến bộ khoa học - kỹ thuật một mặt tạo thời cơ thuận lợi cho các nước này thoát ra khỏi sự lạc hậu và trì trệ nếu như biết định hướng đúng, nếu có một tiềm năng nhất định nào đó về nguồn vốn và nguồn nhân lực có trình độ cần thiết để tiếp thu các công nghệ tương đối hiện đại. Khi đã có những kĩ thuật và công nghệ mới, tiến bộ thì vấn đề đặt ra tiếp theo là giải quyết việc làm cho số lao động dôi ra, tìm thị trường tiêu thụ sản phẩm... Nếu giải quyết tốt chúng thì khả năng hội nhập của các nước này với trào lưu chung của thế giới là hiện thực. Song tiến bộ khoa học - kỹ thuật thời đại chúng ta còn có một mặt khác nghiệt ngã là hoàn toàn có khả năng nhấn các nước kém phát triển chìm sâu hơn trong cảnh lạc hậu và phụ thuộc, đồng thời còn tạo nên một khoảng cách còn lớn gấp bội so với khoảng cách đã từng tồn tại trước đây giữa họ và các nước phát triển nếu như họ không tìm ra con đường thích hợp hoặc cố tình duy trì cách làm ăn cũ, thói quen cũ, không thích nghi với những biến đổi của thời đại. Như vậy, trong thế giới hiện đại vừa liên kết hợp tác, vừa chứa đầy mâu thuẫn và cạnh tranh với nhau khốc liệt, mọi quốc gia trong đó có chúng ta, nếu muốn giành cho một vị trí xứng đáng hay ít ra để không bị nhấn chìm, đều không thể cưỡng lại xu thế của thời đại là đổi mới mọi mặt trên cơ sở nhận thức, đánh giá và sử dụng đúng đắn, nhanh chóng các tiến bộ khoa học - kỹ thuật mới nhất được loài người tạo ra, đồng thời biết khai thác và tạo được những điều kiện cho sự khai thác những nguồn lực khác có thể khai thác. Sự tác động hết sức to lớn của tri thức khoa học - công nghệ ngày nay đang dẫn dắt các nền kinh tế của các nước phát triển đến " nền kinh tế tri thức". Đó chính là tiên đoán của C.Mác:"Khoa học ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp". Tóm lại, có khoa học là bạn đồng hành thì xã hội ngày càng văn minh tiến bộ. chương 2 thực trạng tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của việt Nam. 1. Vai trò của tri thức khoa học trong công cuộc đổi mới của Việt Nam. 1.1. Tính tất yếu của công cuộc đổi mới : Hiện nay trên thế giới đang diễn ra những biến đổi xã hội nhanh chóng và sâu sắc. Khoa học- công nghệ đã đạt được những thành tựu rất to lớn. So với các nước trên thế giới Việt Nam tụt hậu rất nhiều. Cụ thể là: - Trình độ công nghệ lạc hậu tụt xa so với các nước. tiềm lực Khoa học Công nghệ yếu cả về nguồn nhân lực Khoa học công nghệ lẫn nguồn vốn cho hoạt đôngj khoa học công nghệ. - Cơ chế quản lí Khoa học công nghệ còn yếu kém. - Khoa học công nghệ ít gắn bó với Sản xuất kinh doanh. do vậy đổi mới chính là đường sống duy nhất của chúng ta.Chỉ có đổi mới mới đưa nước ta ra khỏi nghèo nàn lạc hậu trở thành một nước có nền kinh tế phát triển " Dân giầu , nước mạnh, Xã hội công bằng - văn minh ". 1.2. Tri thức khoa học là nền tảng và động lực cho sự phát triển của việt Nam trong công cuộc đổi mới. Trong công cuộc đổi mới, tri thức khoa học được xem là nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Những cơ sở khoa học cùng những luận cứ khoa học đã giúp Đảng có một sự định hướng đúng đắn về đuường lối chính sách phát triển của đất nước; vạch ra kế hoạch phát triển cho từng lĩnh vực cụ thể: Công nghiệp, Nông nghiệp, du lịch dịch vụ, Khoa học công nghệ...Nói đến vai trò nền tảng và động lực của tri thức Khoa học trong công cuộc đổi mới là nối đến con đường công nghiệp hoá hiện đại hoá dựa trên cơ sở Khoa học và công nghệ, coi khoa học-công nghệ là lực lượng sản xuất trực tiếp và hàng đầu. Quan điểm này cho tấy rõ sự quyết tâm và lựa chọn sáng suốt của đảng ta trong đổi mới tư duy, đổi mới quan niệm và đổi mới phương thức phát triển phù hợp với những đòi hởi phải tiến hành công nghiệp hoá đi đôi với hiện đại hoá với tốc độ nhanh nhưng vẫn đảm bảo tính bền vững trong những thập niên đầu của thế kỷ 21. Nhìn lại thế kỷ 20 đã qua chúng ta thấy có những đổi thay to lớn do khoa học-công nghệ mang lại. Trên thế giới sự xuất hiện các nhóm nước mới công nghiệp hoá( NIC ) sau chiến tranh thế giới tthứ 2 cũng không nằm ngoài ảnh hưởng lan toả của các thành tựu khoa học - công nghệ thông qua quá trình chuyển giao công nghệ tiến bộ bằng các chính sách công nghiệp và nông nghiệp khôn ngoan, các nước NIC đã tận dụng được cơ hội tiếp thu nhanh chóng các công nghệ mới, thay đổi phương thức sản xuất cũ vốn dựa trên lao động thủ công và tài nguyên chủ yếu để chuyển sang aps dụng các kỹ thuật cơ khí hoá, tự động hoá theo hướng tạo ra các giá trị gia tăng cao thúc đẩy sự phát triển, tăng trưởng kinh tế. Nhờ đi theo con đường công nghiệp hoá dự hẳn vào Khoa học-công nghệ mà một số nước đã rút ngán được thời gian cần thỉ\ết để làm tăng gấp đôi thu nhập bình quân đầu người. Trước kia, nước Anh phải mất 58 năm, Mỹ mất 47 năm thì giờ đây Braxin chỉ mất 18 năm, Hàn Quốc 11 năm và Trung quốc chỉ trong vòng 10 năm. Ta có thể so sánh Hàn Quốc và Gana vào những năm 60 và bây giờ. Điểm xuất phát hai nước đều có mức thu nhập bình quân đầu người như nhau, đều là các quốc gia chậm phát triển. Vậy mà ngày nay, thu nhập đầu người của Hàn Quốc đã gấp 6 lần của Gana. vì sao có sự cách biệt lớn lao như vậy? Đó là do Hàn Quốc đã thu nhận và sử dụng trí thức Khoa học sáng tạo và phù hợp với thực tiễn hơn. Thực tiễn trong những năm qua ở Việt Nam cho thấy: ở đâu có sự sáng tạo trong công cuộc đổi mới các giải pháp về Khoa học-công nghệ thì ở đó có sự tiến bộ vượt bậc. Thử hỏi nếu Việt Nam vẫn giữ nền kinh tế tập trung bao cấp chưa chuyển sang nền kinh ế hàng hoá nhiều thành phần thì hiện giờ đất nước chúng ta sẽ ra sao. Về Nông nghiệp sự sáng tạo của Đảng trong chính sách khoán áp dụng trong nông nghiệp những năm 80 là một ví dụ điển hình cho thấy vai trò của chính sách trong việc tạo ra mức tăng trưởng sản lượng kỷ lục về lương thực mà không có một yếu tố sản xuất thông thường nào như: vốn, lao động, vật tư có thể mang lại. Chính sách mới làm cho người lao động làm việc có trách nhiệm và năng nổ sáng tạo hơn. Đảng đẩy mạnh và khuyến khích nông dân đưa khoa học-công nghệ vào sản xuất như: sử dụng các loại giống mới, phân bón, máy móc sản xuất theo công nghệ cao của thế giới; nâng cấp hệ thống thuỷ lợi bằng cách đầu tư, cải tạo, nâng cấp hệ thống sông, đê ngăn chặn nước mặn lên biển. ứng dụng các tiến bộ kỹ thuật và vật liệu mới trong thiết kế và thi công công trình là cho việc thực hiện công trình xảy ra nhanh chóng đáp ứng kịp thời nhu cầu, lợi ích của bà con nông dan. Về công nghiệp qua trình sáng tạo và triển khai chính sách mở cửa thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã dẫn tới sự ra đời của một khu vực kinh tế mới - Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài rất năng động đang góp phần tạo ra trên 10% GDP, 30% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Các công ty, xí nghiệp nhờ đi thẳng vào công nghệ hiện đại mà đã đạt đước những thắng lợi ngoài cả sự mong đợi. Ví dụ điển hình là công ty chế biến sữa Vinamilk từ tình trạng vô cùng khó khăn đã vươn lên sản xuất ra được những sản phẩm cạnh tranh được với hàng nhập ngoại. Trong các ngành, Bưu chính viễn thông, khia thác dầu khí và các ngành nghề khác nhờ những quyết định táo bạo trong đầu tư vào Kỹ thuật công nghệ hiện đại mà đạt được mức tăng trưởng cao trong thời gian dài, ổn đinh. Văn hoá-giáo dục được nâng cấp, đầu tư cơ sở một cách thoả đáng. Thự tế cho thấy sau 15 nam đổi mới dựa vào tiềm năng của đất nước và sự trợ giúp của Khoa học-Công nghệ chúng ta đã đạt được những thành tựu đáng kể. Về kinh tế tổng sản lượng trong nước năm 2000 tăng gấp đôi so với năm 1990. Kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và năng lực sản xuất tăng nhiều. Nền kinh tế từ tình trạng hàng hoá khan hiếm nghiêm trọng nay đã sản xuất đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Nền kinh tế từ cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường định huqướng XHCN. Đời sống của nhân dân dần được cải thiện. Đất nước đã ra khỏi khủng hoanmgr kinh tế-xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hụt hẫng về thị trường. kinh tế tăng trưởng tương đối cao: Tổng sản phẩm trong nước tăng bình quân 7% trong một năm; giá trị nông -lâm-ngư ngiệp tăng bình quân 5,7%/ năm. trong đó: Nông nghiệp tăng 5,6%, lâm nghiệp 0,4% và ngư nghiệp tăng 8,9%. Công nghiệp đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Nhịp độ tăng giá trị sản xuất hàng năm 13,5%. Dầu tư sản xuất ra sản phẩm có triều sâu, đáp ứng được nhu cầu trong nước và xuất khẩu. dịch vụ phát triển vứi giá trị trung bình là 6,8%/ năm. Lạm phát giảm đáng kể: Năm 1986 là 587,2% thì năm 1990 chỉ còn 52,8%. Về chính trị xã hội nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn trong giai đoạn 1996-2000 đã có đóng góp tích cực trong phát triển lí luận và tỏng kết thực tiễn xây dựng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong thế kỷ 20. Nhờ kết quả nghiên cứu đã đóng góp cho quá trình chuẩn bị các văn kiện hội nghị trung ương khoá VIII, xây dựng chiến lược phát triển kinh tế xã hội những năm sau và đonmgs góp cho việc chenr bị văn kiện Đại hội IX vừa qua. Khoa học xã hội còn đóng góp quan trọng và việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, ban hành các văn bản dưới luật, các chính sách và hiệp định quốc tế, trong đó có hiệp định thương mại Việt-Mỹ, khoa học xã hội còn hướng vào giải quyết nhiều vấn đề cụ thể bức xúc trong thực tiễn phát triển kinh tế xã hội như: Vấn đề toàn cầu hoá, quốc tế hoá, công nghiệp hoá-hiện đại hoá... Các vấn đề tôn giáo, phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Do vậy văn hoá phát triển lành mạnh với phương châm " Hoà nhập nhưng không hoà tan ". Bên cạnh việc tiếp thu văn hoá thế giới chúng ta không quên giữ gìn và phát huy nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc Việt Nam. Giáo dục ngày càng được chú trọng. Các quốc gia phát triển đã rút ra một điểm quan trọng là: Giáo dục là con đường ngắn nhất để phát triển để tiến tới nền kinh tế trí thức hay còn gọi là nền kinh tế chất xám. ở Việt Nam từ năm 1997 đến nay, nhân lực Khoa học-Công nghệ cả nước đã tăng 1,5 lần. Cán bộ Khoa học-Công nghệ có trình độ đại học đạt xấp xỉ 1,3 triệu và hàng năm bổ xung thêm khoảng 180 nghìn người. Cán bộ có trình độ tiến sĩ đã tăng lên gần 13 nghìn vào năm 2000. Trình độ, năng lực cán bộ trong một số lĩnh vực như nông nghiệp, xây dựng, giao thông vận tải, công trình điện, bưu chính viễn thông, thăm dò và khai thác dầu khí đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực. Bắt đầu từ năm 2000 chính phủ đã bố trí khoản ngân sách riêng để hàng năm chủ động gửi sinh viên cán bộ Khoa học-Công nghệ có năng lực đi đào tạo dài hạn tại các nước có nền Khoa học tiên tiến. Khoa học-Công nghệ đã có khả năng làm chủ và thích nghi nhiều công nghệ tiên tiến của nước ngoài trong các lĩnh vực như viễn thông, khai thác dầu khí, năng lượng... Nhiều vấn đề cấp bách, có ý nghĩa quan trọng đối với đất nước do thực tiễn đặt ra được các lực lượng Khoa học-Công nghệ nghiên cứu và giải quyết như: Cơ sở khoa học cho các phương án phòng chống thiên tai, các phương pháp sản xuất Vacxin phòng bệnh... Rõ ràng, quan niệm về vai trò nền tảng và động lức phát triển của Khoa học - Công nghệ đối với sự phát triển vừa có cơ sở thực tiễn trong nước vừa hợp với xu thế phát triển chung của thế giới, khi lợi thế tương đối của các yếu tố lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên đang chuyển dần sang các yếu tố tri thức Khoa học - Công nghệ. 2. Những yếu kém và hạn chế của Tri thức Khoa học-Công nghệ ở nước ta hiện nay. Bên cạnh những thành tựu đã đạt được hoạt động Khoa học-Công nghệ ở nước ta cũng còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển kinh tế xã hội trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước và chưa thực sự đóng vai trò động lực- nền tảng cho phát triển. Sau đây là một số biểu hiện: - Tiềm lực Khoa học-Công nghệ vẫn còn ở mức thấp so với thế giới và khu vực chưa đáp ứng được đòi hỏi của nhu câù phát triển. Tỉ lệ cán bộ Khoa học - Công nghệ trên tổng số dân chưa cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, còn thiếu rất nhiều chuyên gia đầu ngành, việc đào tạo và đào tạo lại tiến hành chậm, nguy cơ hụt hẫng trong đội ngũ rất lớn, nhất là trong những ngành mũi nhọn như công nghệ tin học, sinh học, cơ khí, chế tạo máy. Việc xếp loại các cơ quan Khoa học-Công nghệ còn lúng túng, việc sử dụng đội ngũ trí thức còn lãng phí cơ sở vật chất, trang thiết bị cho nghiên cứu khoa học còn thấp xa so với nhu cầu thực tiễn. - Cơ chế quản lí kinh tế chưa thực sự gắn kết các hoạt động Khoa học-Công nghệ với kinh tế xã hội, tạo động lực thực sự và nguồn lực dồi dào cho hoạt động Khoa học-Công nghệ phát triển. - Cơ chế quản lí Khoa học-Công nghệ chậm và chưa được đổi mới một cách căn bản mặc dù tư tưởng đổi mới cơ chế quản lí đã xuất hiện từ rất sớm. Chưa có sự liên thông giữa cơ chế quản lí kinh tế và cơ chế quản lí Khoa học - Công nghệ. Chưa đảm bảo được quyền lợi vật chất và tôn vinh xứng đáng đối với các nhà khoa học có cống hiến lớn. Cơ chế hình thành, quản lí, đánh giá các đề tài Khoa học-Công nghệ vẫn còn nhiều khó khăn để có thể chuyển đổi theo tinh thần đổi mới của luật Khoa học-Công nghệ. - Thị trường Khoa học-Công nghệ còn manh nha chưa phát triển. Mặc dù giá trị các hợp đồng kí kết giữa các cơ quan Khoa học-Công nghệ với các tổ chức kinh tế xã hội, giữa trong nước và nước ngoài đang tăng lên nhưng vẫn chưa xứng đáng với tiềm năng. Chương III Những giải pháp cần thiết và cấp bách cho việc phát triển tri thức khoa học ở nước ta hiện nay Việt Nam là nước đi sau có nhiều khả năng tiếp nhận những thành tự Khoa học-Công nghệ của thế giới. Do đó có thể rút ngắn đước quá trình công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước ở các nước công nghiệp phát triển, kinh tế tri thức đang có những bước phát triển mạnh. Việt Nam không chỉ phải tích cực chuẩn bị cho bước phát triển này, mà cần phải tiếp nhận kinh tế tri thức ở những ngành, lĩnh vực mà ta có khả năng, ưu thế. Hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực vừa đặt ra những thách thức song cũng cho ta nhiều cơ hội để nâng cao trình độ Khoa học - Công nghệ và xây dựng tiềm lực khoa học. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã vạch ra chiến lược: Phát triển đồng bộ các ngành khoa học, gắn nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện để Khoa học-Công nghệ thực sự là động lực phát triển, vừa đảm bảo thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá vừa tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế cao. Đồng thời xây dựng tiềm lực Khoa học-Công nghệ, xây dựng cơ sở để từng bước phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam, cụ thể là một số giải pháp sau: - Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến nghị quyết đại hội IX của Đảng, nâng cao nhận thức toàn dân và các cấp, các ngành về vai trò nền tảng và động lực của Khoa học-Công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. - Hai là, đổi mới mạnh mẽ hơn nữa cơ chế quản lí kinh tế nhằm tạo lập môi trường kinh tế-xã hội theo hướng tạo điều kiện, vừa khuyến khích, vừa ràng buộc các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế đầu tư vào nghiên cứu đổi mới công nghệ, đổi mới và nâng cao tính cạnh tranh thị trường trong nước và nước ngoài. - Ba là, đưa luật Khoa học-Công nghệ vào cuộc sống rộng rãi hơn. Tiến hành tổng kết thực tiễn hoạt động Khoa học-Công nghệ những năm qua và kịp thời thể chế hoá những mô hình tốt, cách làm hay đã được thực tiễn thử thách và chứng minh. Đồng thời tích cực đổi mới về cơ bản cơ chế quản lí Khoa học-Công nghệ theo tinh thần luật Khoa học-Công nghệ để nhanh chongs nâng cao hiệu quả sử dụng các nguồn lực Khoa học-Công nghệ. - Bốn là, tháo gỡ các khó khăn, các ách tắc để mở rộng và phát triển khai thông thị trường Khoa học-Công nghệ. đây là nhiệm vụ hết sức cấp bách, cơ bản và lâu dài, để phát huy hết vai trò động lực của Khoa học-Công nghệ trong sự nghiệp công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước. - Năm là, chú trọng và ưu tiên cho nghiên cứu và thực thi các chính sách sử dụng và đãi ngộ nhân tài tri thức khoa học bên cạnh các biện pháp chăm lo đào tạo nhân lực Khoa học-Công nghệ. - Sáu là, Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng Khoa học-Công nghệ để nhanh chóng hội nhập với thế giới và khu vực, đặc biệt là cơ sở hạ tầng về thông tin Khoa học - Công nghệ, trang thiết bị nghiên cứu cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia. - Bảy là: Đầu tư để phát triển giáo dục, khoa học ít ra với tỷ lệ không thấp hơn tỷ lệ trung bình của thế giới. Bằng mọi cách đẩy nhanh việc xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục từng bước từ thấp đến cao. Gắn khoa học với sản xuất và đời sống, có chính sách chiêu hiền đãi sĩ, trọng dụng nhân tài. Thực hiện tốt chính sách bảo hộ sở hữu trí tuệ, đãi ngộ đặc biệt đối với nhà khoa học có công trình nghiên cứu xuất sắc. - Tám là: Tạo thị trường cho khoa học và công nghệ, đổi mới cơ chế tài chính nhằm khuyến khích sáng tạo và gắn ứng dụng khoa học và công nghệ với sản xuất, kinh doanh, quản lý dịch vụ. Coi trọng việc nghiên cứu cơ bản trong các ngành khoa học. Tăng đầu tư ngân sách và huy động các nguồn lực khác cho khoa học và công nghệ. Cần thực hiện tốt mục tiêu mà đại hội Đảng IX đã đề ra: coi giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu. kết luận Trong suốt 15 năm đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể, tuy coàn nhiều thiếu sót và bất cập cùng với sự phát triển của đất nước, tri thức khoa học ngày càng có vai trò quan trọng. Đứng trước thế kỉ 21 - tthế kỉ có nhiều biến đổi sâu sắc và phổ biến trên tất cả các lĩnh vực của đồi sống xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Đây là thử thách đồng thời là thời cơ nghiệt ngã cho tất cả các quốc gia, dân tộc trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Cả thế giới đang dần tiến tới xây dựng và phát triển nền kinh tế tri thức. Nhờ áp dụng các kỹ thuật Khoa học-Công nghệ của thế giới mà chúng ta có thể đi thẳng tới nền kinh tế tri thức mà không qua kinh tế công nghiệp. Đó là sự lựa chọn hợp lí và đúng đắn. Vấn đề là phải hiểu biết và vận dụng nó để đưa tri thức khoa học vào tất cả các lĩnh vực hoạt động chứ không phải xây dựng nền kinh tế tri thức riêng biệt cho một khu vực nào đó. Kinh tế tri thức theo cách hiểu nào đó là của mọi người, nó phải được thẩm thấu vào trong mọi lĩnh vực hoạt động kinh tế và xã hội. Đất nước Việt Nam đã đi qua chiến tranh thắng lợi rất vẻ vang, vậy tại sao chúng ta không thể chiến thắng trong việc xây dựng và phát triển đất nước? Nhất định chúng ta sẽ làm được và làm tốt bởi mang trong mình sức mạnh đoàn kết dân tộc và bản tính thông minh lao động sáng tạo của con người Việt Nam. Những thắng lợi bước đầu của công cuộc đổi mới đã cho thấy rõ điều đó. Tuy nhiên , bên cạnh những mặt tích cực tri thức khoa học còn gây ra nhiều tiêu cực như: gây ô nhiễm môi trường, gây ra nhiều bệnh tật mới, làm cho xã hội phân hoá giàu nghèo... Nếu biết khắc phục các mặt tiêu cực, phát huy các mặt tích cực thì nước ta sẽ nhanh chóng phát triển, theo kịp các nước trên thế giới . tài

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc60736.doc