Đề tài Vận dụng các phương pháp vào dạy trẻ làm quen với các biểu tượng về kích thước

Mục lục Nội dung Trang

Lý do chọn đề tài

Mục đích nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu

Giả thuyết khoa học

Nhiệm vụ nghiên cứu

Giới hạn phạm vi nghiên cứu

Phương pháp nghên cứu

Kế hoạch nghiên cứu

Chương ICơ sở lý luận của việc vận dụng các phương pháp vào dạy trẻ làm quen với biểu tượng kích thước

Chương IIThực trạng việc dạy trẻ biểu mtượng kích thước ở lớp mẫu giáo bé trường mẫu giáo Quang Trung, Uông Bí

Chương IIIVận dụng các phương pháp vào dạy trẻ làm quen với biểu tượng kích thước cho trẻ 3 - 4 tuổi

Kết luận

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 24266 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Vận dụng các phương pháp vào dạy trẻ làm quen với các biểu tượng về kích thước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à phương pháp chủ đạo để hình thành các biểu tượng sơ đẳng ban đầu về toán cho trẻ mẫu giáo. Thông qua quá trình hoạt động với đồ vật để trẻ lĩnh hội được những tri thức, kỹ năng cần thiết giúp tư duy của trẻ phát triển. Mặt khác trẻ ở độ tuổi này có khái niệm '' học mà chơi, chơi mà học'', đó chính là đặc điểm chủ yếu của trẻ mẫu giáo. Do vậy kết quả nhận thức của trẻ trong quá trình hình thành các biểu tượng toán ban đầu chỉ đạt hiệu quả cao nhất nếu cô giáo sử dụng hợp lý phương pháp hoạt động dưới hìmh thức vui chơi. Đặc điểm cơ bản của phương pháp này là tất cả trẻ đều được tham gia vào quá trình hoạt động với đồ vật thể hiện bằng việc làm, tạo ra sản phẩm. Trong quá trình này, trẻ luôn giữ vai trò là chủ thể của hoạt động, còn cô giáo đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn. Tiến hành hoạt động thông qua việc tạo ra sản phẩm, trong quá trình này trẻ luôn giữ vai trò là chủ thể của hoạt động, còn cô giáo đóng vai trò là người tổ chức hướng dẫn. Tiến hành hoạt động thông qua việc tạo ra sản phẩm, trẻ được làm quen, nhận thức kiến thức mới hay luyện tập thực hành những kiến thức đã học. Việc sự dụng phương pháp cho trẻ làm quen với toán cần đảm bảo các yêu cầu : chọn đối tượng ''đồ vật '' cho trẻ hoạt động phải phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ của bài học, phù hợp với đặc điểm lứa tuổi và trình độ nhận thức của trẻ, đồng thời phải phù hợp với điệu kiện cơ sở vật chất của địa phương. Đặc điểm cơ bản của phương pháp trực quan được thể hiện ở việc hướng dẫn trẻ sử dụng hợp lý các đồ dùng trực quan, ở sự kết hợp đúng đắn giữa việc tri giác trực tiếp các đối tượng, biểu tượng và lời nói, ở việc hướng dẫn trẻ khảo sát sự vật hiện tượng bằng nhiều cách khác nhau nhờ các giác quan. Khi thực hiện tiến hành phương pháp này, giáo viên cần sử dụng hợp lý đồ dùng trực quan trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán. Giáo viên cần lựa chọn một cách thích hợp trong các đối tượng ( vật thật, tranh ảnh) cho trẻ tiến hành hoạt động sao cho đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ của bài học, đồng thời phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất sẵn có ở địa phương. Giáo viên cần chuẩn bị chu đáo đầy đủ về số lượng, hình dạng kích thước của đồ dùng trực quan phải thích hợp với trẻ, hướng dẫn trẻ sử dụng đồ dùng trực quan trong quá trình học tập đúng lúc, đúng chỗ. Việc sử dụng đồ dùng trực quan qúa sớm hoặc quá muộn sẽ làm giảm tác dụng của đồ dùng trực quan hoặc làm phân tán sự chú ý của trẻ. Đồ dùng trực quan cần được phức tạp dần dần theo sự phát triển của trẻ, chẳng hạn đồ dùng trực quan dùng để dạy trẻ nhận biết sự khác biệt rõ nét về chiều dài của hai đối tượng ( dài hơn - ngắn hơn). Lúc đầu nên dùng các đồ vật hấp dẫn như : que tính, dải nơ, về sau có thể dùng thước kẻ, bút chì, bàn ghế...Sử dụng phương pháp trực quan sẽ đạt kết quả cao nhất khi có sự kết hợp đúng đắn việc tri giác trực tiếp đối tượng hoặc hiện tượng với lời nói. Lời nói của cô điều khiển hành động của trẻ, giúp trẻ biết sử dụng đồ dùng trực quan đúng lúc. Lời nói của cô phải tổ chức hướng dẫn trẻ quan sát sự vật hoặc hiện tượng có hiệu quả ( bằng cach sử dụng phối hợp với các giác quan ). Ví dụ : Khi nghe cô nói '' Các con hãy nhìn xem bút chì xanh và bút chì đỏ rồi cho cô biết bút chì nào dài hơn, bút chì nào ngắn hơn'' ? Nếu cháu chưa hiểu thế nào là dài hơn - ngắn hơn cô sẽ hướng dẫn :'' Cháu hãy thử dùng hai bút chì đặt xuống mặt bàn xem thế nào?'' và sau đó trẻ sẽ cảm thấy được thế nào là dài hơn, ngắn hơn giữa hai vật, hoặc khi nghe cô yêu cầu : '' Cháu hãy tìm trong rổ đồ chơi của mình những vật có kích thước dài hơn '' lúc đó trẻ phải nhìn kỹ bằng mắt vào rổ đồ chơi, sau đó dùng tay lựa chọn vật có kích thước dài hơn. Cần sử dụng hợp lý việc trình bày vật mẫu và hành động mẫu của cô giáo trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán. Bởi vì nếu như quá lạm dụng việc trình bày vật mẫu cùng vật mẫu lại đưa ra sau khi trẻ đã hoàn thành bài tập nhằm giúp trẻ kiểm tra lại cách làm của trẻ đã đúng hay chưa bằng cách so sánh cách làm của mình với cách làm của cô. 2.3. Phương pháp dùng lời nói. Gồm phương pháp giải thích hướng dẫn và phương pháp vấn đáp. Phương pháp dùng lời nói có ý nghĩa quan trọng : Hỗ trợ toàn diện các phương pháp khác bồi dưỡng và phát triển cho trẻ về ngôn ngữ. Năng lực chú ý lắng nghe, hiểu được lời nói và khả năng diễn đạt bằng lời, phát triển tính độc lập tư duy rèn luyện các thao tác trí tuệ như : phân tích, so sánh, tổng hợp, khái quát và thúc đẩy ham hiểu biết của trẻ. Đặc điểm cơ bản của phương pháp này là sử dụng hợp lý việc dùng lời nói sao cho đảm bảo sự kết hợp đúng đắn giữa lời giải thích hướng dẫn của cô với việc trẻ quan sát trực tiếp đối tượng hay hành động với đồ dùng trực quan, nhằm làm chính xác hóa hệ thống hóa nhận thức của trẻ, giúp trẻ phân tích, đối chiếu, so sánh, khái quát và đi tới những điều cần lĩnh hội về kiến thức và kỹ năng cần thiết. Khi tiến hành thực hiện phương pháp này, yêu cầu lời hướng dẫn, giải thích của cô phải ngắn gọn, dễ hiểu, lôi cuốn, thu hút sự chú ý của trẻ vào đối tượng quan sát, cô giáo cần phải gợi mở cho trẻ thấy những cái cần nhìn và nhìn như thế nào về đối tượng để đáp ứng yêu cầu giáo dục cần thiết cho trẻ. Hướng cho trẻ quan sát chung rồi mới quan sát riêng tập trung vào những chi tiết cơ bản chủ yếu của đối tượng, không quan sát tràn lan. Sau đó trẻ phải tự nêu nhận xét của mình về đối tượng vừa quan sát và cuối cùng cô sẽ là người làm chính xác hóa, hệ thống hóa những điều trẻ vừa nhận xét. Ví dụ : Khi cô dẫn trẻ đi dạo '' quan sát cây chuối'' bằng lời nói, cô hướng dẫn cho trẻ quan sát ( nhìn ngắm, sờ mó ) xung quanh rồi đưa ra câu hỏi xem trẻ vừa nhìn thấy những gì ? Cô hướng cho trẻ chú ý tới hình dáng, kích thước của chúng, cô đặt câu hỏi :'' Đây là cây gì ?'', ''Những cây này có hình dáng như thế nào?''. Khi đó trẻ sẽ trả lời:''cây chuối có hình dáng thẳng đều, nhẵn và to...''. Cô hỏi trẻ về kích thước ''cây nào cao nhất, cây nào thấp nhất? '' ,'' lá như thế nào, dài hay ngắn ?...'' và chính lúc này cô giáo dùng lời nói để chính xác hóa, hệ thống hóa lại những điều trẻ vừa nhận xét, giúp trẻ hiểu rõ thêm về kích thước và hình dáng của chúng. Giáo viên cần sử dụng hợp lý phương pháp này trong quá trình tổ chức cho trẻ hoạt động với đồ vật, có sự kết hợp đúng đắn giữa lời hướng dẫn, giải thích của cô với từng hành động của trẻ sao cho đáp ứng phù hợp với yêu cầu của từng tình huống cụ thể trong quá trình trẻ tiến hành hoạt động với đồ vật. Khi định hướng hoạt động chung cho trẻ, yêu cầugiáo viên định hướng bằng lời nói ngắn gọn, dễ hiểu, từ ngữ quen thuộc để trẻ nắm được nhiệm vụ sắp làm. Cô có thể gọi một số trẻ nhắc lại nhiệm vụ cần làm nếu trẻ chưa nhớ được nhiệm vụ của mình thì cô nhắc lại cho trẻ nhớ. Khi hướng dẫn trẻ thực hiện tiến hành hoạt động với đồ vật, giáo viên cần phải dùng lời nói chỉ dẫn điều khiển từng thao tác hành động với đồ dùng trực quan của trẻ. Đặc biệt đối với trẻ nhỏ thì lời hướng dẫn của cô đồng thời với việc cô làm mẫu cách sử dụng đồ dùng trực quan. Việc dùng lời hướng dẫn, giải thích dài dòng và khó hiẻu sẽ dễ làm trẻ lơ đãng trong việc quan sát trực tiếp, hay có thể làm cho trẻ hiểu sai cách làm và gây ra cho trẻ hoạt động không chính xác. Giọng nói của cô phải có ngữ điệu, biết nhấn mạnh vào những chỗ quan trọng có nội dung tri thức cần truyền thụ. Ví dụ : Khi dạy trẻ so sánh chiều dài hai băng giấy, cô giáo cần nhấn mạnh vào cách thực hiện thao tác đặt hai băng giấy cạnh nhau và cách diễn đạt mối quan hệ về chiều dài giữa hai băng giấy '' băng giấy xanh dài hơn băng giấy đỏ hay băng giấy đỏ ngắn hơn băng giấy xanh ''. Sử dụng phương pháp vấn đáp là cô giáo tổ chức hướng dẫn trẻ phân tích, so sánh tìm kiếm phát hiện và dẫn dắt trẻ đi tới khái quát những vấn đề cần lĩnh hội dựa trên triến trình và kết quả của quá trình hoạt động với đồ vật mà trẻ vừa được thực hiện. Đây chính là giai đoạn hoạt trí tuệ quan trọng của trẻ vì những hiểu biết và kỹ năng mà trẻ lĩnh hội trong quá trình hoạt động với đối tượng sẽ được phản ánh có hệ thống ở ngôn ngữ và trong tư duy của trẻ. ở giai đoạn này, cô cần phải chú ý tạo điều kiện để trẻ tự nhận xét nêu lên sự nhận thức của mình sau khi đã được quan sát và hoạt động với đồ vật. Cô nắm vai trò chỉ là người gợi mở ở trẻ tính chủ động tích cực trong quá trình nắm tri thức, phát huy vai trò chủ thể của trẻ trong quá trình hoạt động với đối tượng để lĩnh hội kiến thức kỹ năng cần thiết. Muốn vậy, cô giáo cần tạo điều kiện cho trẻ được diễn đạt những gì vừa quan sát được bằng từ, giúp trẻ mô tả lại việc trẻ vừa làm bằng cách nêu câu hỏi đúng lúc. Chẳng hạn cháu vừa nhìn thấy những gì? kích thước của chúng như thế nào ?. Ngoài ra để giúp trẻ biết diễn đạt đúng, cô giáo phải kiên trì dẫn dắt trẻ trả lời những câu ngắn từ 2-3 từ cho đến những câu dài 2- 3 câu. Chẳng hạn, khi so sánh chiều dài của hai băng giấy, lúc đầu trẻ giải thích được '' băng giấy xanh dài hơn băng giấy đỏ vì băng giấy xanh còn thừa ra''. Cô giáo cần đặc biệt chú ý đến phương pháp nêu câu hỏi nhằm đạt hiệu quả cao trong việc sử dụng phương pháp vấn đáp để tổ chức hướng dẫn trẻ phân tích tìm kiếm, phát hiện và dẫn dắt trẻ đi tới khái quát những vấn đề cần lĩnh hội. Phương pháp nêu câu hỏi có những ý nghĩa quan trọng, nó thúc đẩy sự phát triển tư duy và ngôn ngữ của trẻ, khêu gợi cho trẻ thấy cần thiết phải giải quyết những nhiệm vụ trí tuệ đặt ra cho mình. Câu hỏi của cô phải làm tích cực hoá quá trình tri giác, trí nhớ, tư duy đảm bảo hướng vào việc phát hiện thu nhận kiến thức mới và củng cố đào sâu kiến thức đã học. Hệ thống câu hỏi thường được sử dụng bao gồm : + Các câu hỏi sao chép bề ngoài dùng để hỏi việc ghi nhận những đặc điểm bên ngoài của đối tượng, yêu cầu trẻ kể lại ( mô tả lại ) việc trẻ vừa quan sát hay vừa hành động. Ví dụ : Đây là gì ? Nó có màu gì ? Có bao nhiêu cái ? hoặc có đặc điểm như thế nào? Cháu vừa làm thế nào? + Các câu hỏi nhận thức sao chép giúp trẻ đào sâu củng cố những kiến thức đã biết. Ví dụ : Làm thế nào để biết sợi dây này dài hơn sợi dây kia?. + Các câu hỏi nhận thức sáng tạo : yêu cầu trẻ sử dụng tri thức đã có vào việc giải quyết các tình huống khác hoặc giải thích các mối quan hệ phụ thuộc về kích thước giữa các đối tượng hay giải thích sự giống và khác nhau giữa các đối tượng. Ví dụ : Làm thế nào để biết dải nơ xanh dài nhất trong số các dải nơ?. Như vậy hệ thống các câu hỏi trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán bao gồm từ các câu hỏi đơn giản, nhất là các câu hỏi sao chép bề ngoài, rồi đến các câu hỏi nhận thức sao chép dần đến những câu hỏi phức tạp hơn là các câu hỏi nhận thức sáng tạo. Tùy theo các yêu cầu hoàn cảnh cụ thể ở trong mỗi bài học mà cô giáo sẽ lựa chọn các câu hỏi sao cho phù hợp. Mặt khác các câu hỏi cần phải đảm bảo cụ thể, rõ ràng, lôgic, ngắn gọn, dễ hiểu, đối với trẻ đa dạng về hình thức ( cùng một nội dung hỏi nhưng có nhiều câu hỏi khác nhau). Hệ thống câu hỏi phải từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp nhằm giúp trẻ phân tích, so sánh, đối chiếu phát hiện rồi đi đến khái quát, số lượng câu hỏi vừa đủ không nên nhiều quá hoặc ít quá sao cho đạt được mục đích yêu cầu, không nên dùng các câu hỏi để mớm trẻ trả lời. Hệ thống các câu hỏi thường được đưa ra sau khi trẻ thực hiện xong phương pháp hình thức hoạt động nhằm giúp trẻ phân tích, đối chiếu, so sánh phát hiện và dẫn dắt trẻ đi tới khái quát hoá những vấn đề cần lĩnh hội. 2.4. Phương pháp dùng trò chơi. Phương pháp dùng trò chơi trong dạy trẻ làm quen với toán là một loại hình của phương pháp hoạt động thực hành '' học mà chơi, chơi mà học '', là một đặc điểm cơ bản của trẻ nhỏ. Vậy nên trò chơi đóng vai trò là một phương pháp riêng biệt không thể thiếu được trong quá trình hình thành các biểu tượng toán ban đầu cho trẻ mẫu giáo. Việc sử dụng hợp lý phương pháp trò chơi phù hợp với nhu cầu vui chơi của trẻ sẽ có tấc dụng nâng cao hứng thú đối với giờ học và khả năng chú ý có chủ định, phát triển tính tích cực của trẻ trong học tập. Đặc điểm của phương pháp này là đưa các trò chơi hoặc yếu tố trò chơi, thủ thuật chơi làm hình thức tổ chức để dạy trẻ làm quen với toán. Phương pháp này được tiến hành trong mỗi tiến trình hoạt động làm quen với toán đều được thiết kế dưới hình thức một hoạt động mang yếu tố vui chơi, đảm bảo sự kết hợp chặt chẽ giữa chơi và học trong hoạt động tích cực của trẻ dưới sự tổ chức giáo dục của cô. Ví dụ : Thông qua việc tổ chức cho trẻ chơi '' đi đúng đường '' cô phát cho mỗi trẻ một tấm bìa có hình ô tô ( có hai loại ô tô và hai loại đường). Những cháu có tấm bìa vẽ ô tô nhỏ thì đi vào đường hẹp, còn những cháu có tấm bìa vẽ ô tô to thì đi vào đường rộng. Từ đó trẻ sẽ lĩnh hội được kích thước to - nhỏ, rộng- hẹp của hai đối tượng. Các thủ thuật vui chơi được đưa ra nhằm làm xuất hiện các '' tình huống có vấn đề '' để kích thích lôi cuốn trẻ vào hoạt động, tìm tòi cách giải quyết nhiệm vụ học tập. Trong quá trình dạy trẻ làm quen với toán, việc gây tình huống có vấn đề thường vào đầu giờ học hay trước mỗi phần của giờ học, ở các thời điểm cần định hướng nhiệm vụ chung của trẻ. Ví dụ : Khi dạy trẻ nhận biết sự khác biệt về chiều cao giữa hai đối tượng. Chẳng hạn : cô treo một quả bóng lên cao sao cho trẻ không với tới được. Cô cho các cháu lên với quả bóng đó xuống. Sau khi trẻ cố gắng hết sức mà vẫn không lấy được quả bóng thì cô sẽ giúp trẻ, cô gợi ý hỏi trẻ vì sao cô lấy được quả bóng mà các cháu không lấy được? Lúc này tình huống có vấn đề đã được đạt ra với trẻ , buộc trẻ phải suy nghĩ tìm ra cách trả lời. Ví dụ : Dạy trẻ nhận ra sự khác nhau về chiều dài của hai đối tượng. Cô phát cho mỗi trẻ hai dải nơ (dải nơ đỏ dài hơn dải nơ xanh), cô gọi một trẻ lên bảng và dùng hai dải nơ đó để buộc vào cổ tay cháu( làm mẫu cho trẻ xem) cô cho trẻ nhận xét, sau đó cô cho cả lớp cùng làm ( hai cháu buộc vòng cho nhau). Đầu tiên buộc vòng màu đỏ, sau đó buộc vòng màu xanh. Nhưng tất cả trẻ đều không buộc được dải nơ màu xanh vào tay bạn. Sau đó cô hỏi cả lớp xem có buộc được dải nơ xanh vào tay không? Vì sao không buộc được dải nơ xanh vào cổ tay?. Từ đó trẻ nhận ra được sự khác biệt rõ nét về chiều dài của hai đối tượng. Việc sử dụng rộng dãi và đa dạng các trò chơi học tập nhằm củng cố, luyện tập thêm chính xác hóa hệ thống hóa kiến thức kỹ năng đã học. Tất cả các loại trò chơi học tập, xếp hình, lắp ghép, xây dựng, trò chơi với tranh ảnh, trò chơi sử dụng lời nói...đều là các phương tiện có hiệu quả cao trong quá trình hình thành các biểu tượng toán sơ đẳng cho trẻ mầm non. Kết luận : việc sử dụng hợp lý các phương pháp dạy trẻ làm quen với toán có ý nghĩa quan trọng vì đó là con đường chuyển tải tri thức tới trẻ. Mỗi phương pháp không sử dụng độc lập mà chúng cần được sử dụng tổng hợp trong mối quan hệ hỗ trợ lẫn nhau trong một thể thống nhất. 2.5. Phương pháp dạy trẻ mẫu giáo bé làm quen với biểu tượng kích thước. Để chuẩn bị giờ học đạt kết quả cao, giáo viên cần cho trẻ làm quen trước với các đồ vật có kích thước khác nhau trong các hoạt động hàng ngày của trẻ. Chẳng hạn trong quá trình trẻ chơi cô chỉ cho trẻ thấy những đồ vật có kích thước khác nhau. Ví dụ : Búp bê này to hơn, búp bê kia nhỏ hơn hay con gấu này nhỏ hơn con gấu kia to hơn...Hoặc khi cho trẻ đi dạo ngoài trời, cô chỉ cho trẻ thấy cây này cao hơn, cây kia thấp hơn hoặc con đường này rộng hơn, con đường kia hẹp hơn hoặc bạn A cao hơn bạn B...cô cao hơn cháu ...Trong các giờ học dạy trẻ nhận biết bằng trực giác sự khác biệt về kích thước theo từng chiều (dài - rộng - cao ) giữa hai đối tượng, cô giáo cần tạo ra tình huống thực tế, qua đó giúp trẻ nhận ra sự khác biệt về kích thước. Ví dụ : Dạy trẻ nhận biết thế nào là dài hơn, ngắn hơn, cô cho trẻ dùng hai sợi dây để buộc vòng tay, dây màu xanh không thể buộc được. Khi thực hiện nhiệm vụ, cô giáo để trẻ phát hiện ra dây xanh không buộc được vòng tay vì nó ngắn hơn dây đỏ. Sau đó cô chỉ cho trẻ thấy được sự khác biệt về kích thước qua sự so sánh bằng cách đặt cạnh hoặc đặt chồng hai đối tượng theo chiều dài, rộng mà ta cần so sánh. Cô thực hiện để trẻ quan sát, qua đó cô yêu cầu trẻ diễn đạt sự khác biệt về kích thước đó bằng lời, sau đó cô sửa cho trẻ biết dùng đúng từ chỉ sự khác biệt về kích thước như : to hơn- nhỏ hơn, dài hơn - ngắn hơn, rộng hơn - hẹp hơn, cao hơn - thấp hơn. Ngoài giờ học kết hợp các hoạt động khác, cô cho trẻ luyện tập nhận biết sự khác biệt về kích thước và diễn đạt sự khác biệt đó, cô cho trẻ tạo lên những đồ vật có sự khác biệt về kích thước như : xếp nhà cao, nhà thấp, cây cao, cây thấp hoặc vẽ quả bóng to, quả bóng nhỏ. CHƯƠNG II Thực trạng việc dạy biểu tượng kích thước ở lớp mẫu giáo bé trường mẫu giáo Quang trung thị xã Uông bí - Quảng ninh. Qua thực tế em đã được đi dự giờ giáo viên giảng dạy tiết ''dạy trẻ nhận biết về kích thước'' lớp mẫu giáo bé thì tỷ lệ các cháu nắm được bài qua tiết học kích thước như sau : khả năng nhận biết dài hơn - ngắn hơn gọi tên theo yêu cầu của bài đạt từ 75% - 80%. Trẻ đạt được yêu cầu là do trẻ có nhận thức nhanh và đi học đều, số cháu còn lại tiếp thu chậm là do không chú ý, thường xuyên không đi học, lơ là trong quá trình học, vì vậy trẻ thường mắc phải một số khó khăn về việc nhận biết kích thước dài hơn - ngắn hơn. Về phía cô, đôi khi còn chưa bao quát được tất cả trẻ vì lớp học đông 30 -35 cháu nên cô chưa sửa sai hết cho trẻ. Việc chuẩn bị đồ dùng giáo án của cô tương đối đầy đủ, chu đáo song đồ dùng giành cho trẻ còn hạn chế. 1. Đặc điểm của địa phương trường thực tập. Mỗi giáo viên có một cách giảng dạy khác nhau xong làm thế nào để tiết dạy có kết quả cao nhất còn tuỳ thuộc vào các phương pháp giảng dạy sao cho phù hợp, khéo léo của mỗi giáo viên : Giáo viên đó có nắm chắc phương pháp và có chuyên môn nghiệp vụ không ? Trong đợt thực tập tại trường mẫu giáo Quang Trung, em đã tìm hiểu việc giảng dạy bộ môn toán cho trẻ, cụ thể là các bài dạy về kích thước, em nhận thấy giáo viên giảng dạy gặp không ít khó khăn và thuận lợi trong các tiết học. 2. Quá trình dạy học ở trường thực tập. Qua việc dạy trẻ làm quen với biểu tượng kích thước cho em thấy : Đồ dùng dạy học phải đảm yêu cầu về tính giáo dục thẫm mỹ, hợp vệ sinh, mầu sắc phù hợp, kích thước hợp lý, số lượng phải đảm bảo đầy đủ cho mọi trẻ trong lớp. Mỗi trẻ phải có đủ đồ dùng để so sánh độ lớn, so sánh về từng chiều về kích thước, trong đó mỗi loại đều giống nhau về hình dạng chỉ khác nhau về chiều cao cần so sánh. 3. Trình bày giáo án đã dự về nội dung kích thước để có nhận xét. I. Mục đích yêu cầu. - Dạy trẻ biết mục đích đo của phép đo. - Biết đo độ dài của một đường thẳng. - Biết sử dụng đúng từ ngắn hơn - dài hơn. II. Chuẩn bị Mỗi trẻ có : một băng giấy xanh 3 x 40 cm, một băng giấy màu vàng 3 x 35 cm, một băng giấy màu đỏ 3 x 30 cm. Các số 5 đến 10. 22 que tính có chiều dài 5 cm. III. Tiến hành Hoạt động của cô ổn định tổ chức: cô bắt nhịp cho trẻ hát ''Qủa bóng tròn to'' Phần 1. - Các con nhìn thật tinh xem cô có mấy băng giấy? - Thế các con thấy 3 băng giấy này có dài bằng nhau không? - Băng giấy nào dài nhất? Băng giấy nào ngắn nhất? - Bây giờ các con hãy lấy băng giấy trong rổ của các con xem có dài bằng nhau không? - Các con hãy đặt các băng giấy và so sánh xem băng giấy nào dài hơn, băng giấy nào ngắn hơn? - Băng giấy màu xanh và băng giấy màu đỏ, băng giấy nào dài nhất? - Băng giấy màu xanh và băng giấy màu vàng, băng giấy nào ngắn nhất? - Băng giấy màu đỏ và băng giấy màu vàng, băng giấy nào dài hơn? Phần 2 Dạy bài mới - Hôm nay, cô sẽ dạy lớp mình bài ''Mục đích của phép đo'' các con có thích không? - Các con vừa được so sánh các băng giấy và nói đúng băng giấy màu xanh dài hơn băng giấy màu đỏ và băng giấy màu vàng. - Con nào nói được băng giấy màu xanh dài hơn băng giấy màu vàng là bao nhiêu? - Để biết được sự dài hơn, ngắn hơn của các băng giấy là bao nhiêu, chúng mình hãy quan sát cô làm mẫu nhé. - Cô xếp hình chữ nhật theo chiều dài băng giấy xanh để biết băng giấy xanh dài bằng mấy lần chiều dài hình chữ nhật, cô đặt hình chữ nhật sát cạnh băng giấy. - Các con đếm xem có bao nhiêu hình chữ nhật? Hoạt động của trẻ - Có 3 băng giấy - Trẻ nhận xét - Băng giấy màu xanh. - Băng giấy màu đỏ. - Trẻ thực hiện - Trẻ trả lời - Trẻ trả lời - Băng giấy màu vàng - Băng giấy màu vàng - Có ạ - Trẻ phán đoán. - Có 4 hình chữ nhật. - Băng giấy màu xanh có chiều dài là 4 lần chiều dài hình chữ nhật. Vậy các con hãy đặt số 4 cạnh băng giấy màu xanh. - Gìơ cô đặt tiếp các hình chữ nhật cạnh băng giấy màu vàng, cô đặt sao cho đầu bên trái của băng giấy và đầu hình chữ nhật trùng khít nhau. - Các con hãy đếm xem có bao nhiêu hình chữ nhật mầu vàng? - Bây giờ chúng mình hãy lấy hình chữ nhật xếp cạnh băng giấy màu xanh, màu vàng, màu đỏ. - Cô đi xuống quan sát từng trẻ xếp và đặt câu hỏi đàm thoại : - Băng giấy của con dài bằng mấy lần hình chữ nhật ? - Băng giấy màu vàng của con dài bằng mấy lần hình chữ nhật? - Bây giờ chúng mình cùng xếp tiếp các hình chữ nhật theo chiều dài của băng giấy đỏ - Các con xếp được mấy lần chiều dài hình chữ nhật ? - Vậy chúng mình hãy lấy số 2 đặt cạnh băng giấy đỏ nào. - Chúng mình hãy quan sát xem băng giấy nào xếp được nhiều hình chữ nhật nhất? Vì sao ? - Vậy băng giấy màu xanh có mấy hình chữ nhật ? - Băng giấy màu vàng có mấy hình chữ nhật ? - Thế băng giấy xanh dài hơn băng giấy vàng là mấy hình chữ nhật ? - Băng giấy vàng ít hơn băng giấy xanh là mấy hình chữ nhật? - Băng giấy xanh và băng giấy đỏ, băng giấy nào dài hơn? - Dài hơn là mấy hình chữ nhật? - Băng giấy đỏ ngắn hơn là mấy hình chữ nhật? - Cả 3 băng giấy xanh, đỏ, vàng, băng giấy nào dài nhất và băng giấy nào ngắn nhất? Phần 3 : Luyện tập. Cho trẻ so sánh một số đồ vật trong lớp xem đồ vật nào dài hơn, đồ vật nào ngắn hơn? * Cho trẻ chơi trò chơi '' Nhảy qua suối nước ''. Cô vẽ hai đường thẳng song song cách nhau 40 cm và hai đường thẳng cách nhau 20 cm. Cô cho trẻ lần lượt nhảy qua suối nước hẹp hơn, sau đó nhảy qua suối nước rộng hơn. Cô cho trẻ chơi. Khi trẻ chơi cô cổ vũ trẻ. - Trẻ thực hiện. - Có 3 hình chữ nhật. - Trẻ đăt số 3 - Trẻ thực hiện. - Trẻ đếm 4 lần. - 3 lần. - Trẻ thực hiện - 2 lần - Trẻ thực hiện. - Có 4 hình. - Có 3 hình. - Dài hơn là1 - ít hơn là 1 - Băng giấy xanh. - Dài hơn là 2 hình chữ nhật. - Là 2 hình chữ nhật. - Băng giấy xanh dài nhất, băng giấy đỏ ngắn nhất. *Nhận xét sau bài dạy : - Qua bài dạy của cô giáo Hà Thị Hương lớp 3 - 4 tuổi, em thấy chuyên môn của giáo viên tương đối đạt vì chị đã được đào tạo qua trường Cao đẳng sư phạm khoa mầm non. Khả năng nắm bắt các phương pháp tương đối chắc chắn, khả năng truyền đạt kiến thức cho trẻ tương đối cao, lời nói nhẹ nhàng thu hút, lôi cuốn trẻ vào bài dạy. - Qua tiết dạy, em nhận thấy vẫn có những ưu, nhược điểm sau đây : + Ưu điểm : Cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, cho nên sự tập trung chú ý của trẻ vào bài học rất cao. Đồ dùng gây được sự chú ý cho trẻ, khả năng nắm bắt kiến thức của trẻ đạt từ 85 % đến 90%. + Nhược điểm :Vẫn còn một số trẻ chưa chú ý vào bài, hay lơ là nói chuyện trong lớp, không tập trung chú ý vào bài học cho nên đã gây khó khăn cho cô khi truyền đạt kiến thức cho trẻ. Mặt khác do cô không bao quát được cả lớp vì số trẻ quá đông từ 30 35 cháu, do đó đôi khi cô chưa sửa sai hết cho trẻ. Việc chuẩn bị giáo án và đồ dùng của cô tương đối đầy đủ song chưa đảm bảo về thẩm mỹ, do đó trẻ chưa xác định được rõ ràng. 4. Đề xuất biện pháp giải quyết vấn đề. Trên đây là kết quả điều tra về khả năng tiếp thu của trẻ và những thiếu sót của cô trong tiết dạy về kích thước. Trong bất kỳ một tiết dạy nào cũng không tránh khỏi những thiếu sót và những khó khăn nhưng để khắc phục và rút kinh nghiệm cho những tiết dạy sau được tốt hơn thì người giáo viên phải tìm ra được nguyên nhân của sự thiếu sót và khó khăn đó để có biện pháp khắc phục mang lại hiệu quả cao trong tiết dạy về kích thước cho trẻ mẫu giáo bé. * Thực trạng và đề xuất giải quyết. Qua việc thực tập tại trường mẫu giáo Quang Trung em thấy : Nhìn chung các tiết học đã đạt được kết quả tốt, song vẫn còn một số tồn tại cần khắc phục. Trong các tiết dạy thường có những thuận lợi và khó khăn: + Mặt thuận lợi :ở độ tuổi này trẻ rất ham học và rất tò mò, hay bắt chước cô cho nên đã giúp cho việc giảng dạy của cô trong các tiết dạy đạt kết quả cao. + Mặt khó khăn : Do cơ sở vật chất còn thiếu chưa thực sự tâm huyết với nghề bởi vì lương thấp trong khi đó công việc đòi hỏi rất nhiều thời gian và rất mệt. * ý kiến đề xuất phương pháp giảng dạy: Theo em đề xuất cần phải đầu tư thêm cơ sở vật chất và đồ dùng dạy, đồ chơi cho trẻ để tạo hứng thú cho trẻ học tập, lôi cuốn thu hút trẻ chú ý vào bài dạy của cô. Vì môn toán là môn học rất khô khan và trầm do đó cần phải lồng ghép môn toán với các môn học khác và nên dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Ví dụ : Khi kê bàn cô có thể hỏi trẻ có bao nhiêu cái bàn.... Trong giờ âm nhạc cô hỏi có bao nhiêu bạn hát... Đối với giáo viên cần có sự quan tâm hơn nữa, tạo cho người giáo viên có mức thu nhập ổn định để giáo viên tâm huyết với nghề và tận tụy với nghề hơn nữa. * Đưa ra các giáo

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docTrẻ em là một thực thể giáo dục hồn nhiên.doc
Tài liệu liên quan