- Phương pháp giá trị tài sản thuần đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu thành giá trị doanh nghiệp. Có thể nói, giá trị của các tài sản đó là một căn cứ cụ thể có tính pháp lý rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn sẽ nhấn được khi sở hữu doanh nghiệp. Nó nói lên rằng, số tiền mà người mua bỏ ra luôn luôn được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thật.
- Phương pháp xác định giá trị tài sản thuần xác định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán rời tại thời điểm đánh giá. Như vậy nó đã chỉ ra rằng có một khoản thu nhập tối thiều mà người sở hữu sẽ nhận được. Đó cũng lầ một mức giá thấp nhất, là cơ sở đầu tiên để các bên có liên quan đưa ra trong quá trình giao dịch và đàm phán về giá bán của doanh nghiệp.
- Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số lượng tài sản không nhiều, việc định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, giá trị các yếu tố vô hình là không đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không rõ ràng, thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai thì giá trị thuần sẽ trở thành tiêu chuẩn cơ bản và thích hợp nhất để các bên xích lại gần nhau trong quá trình đàm phán.
18 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 7731 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần để định giá doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tăng lên, nghĩa là giá trị của DN tăng lên và ngược lại, cuối cùng nếu chủ sở hữu DN bán toàn bộ tài sản của DN thì đó là lợi ích tính thành tiền mà chủ DN nhận được từ DN hay nói khác đi đó là giá trị DN tại thời điểm bán. Chính vì vậy mà giá trị DN được xác định bằng giá thị trường của toàn bộ tài sản hiện có phục vụ SXKD của DN.
2, Phương pháp xác định.
Tổng giá trị tài sản trong doanh nghiệp thường không chỉ thuộc về người chủ sở hữu của doanh nghiệp mà chúng còn được hình thành trên các trái quyền khác như: các trái chủ cho doanh nghiệp vay vốn, tiền lương chưa đến kỳ hạn trả, thuế chưa đến lỳ hạn nộp, các khoản ứng trước của khách hàng, các khoản bán chịu của nhà cung cấp, các tài sản đi thuê… Do vậy, mặc dù giá trị doanh nghiệp được coi là tổng giá trị các tài sản cấu thành doanh nghiệp, nhưng để thực hiên một giao dịch mua bán doanh nghiệp, người ta phải xác định giá trị tài sản thuần- thuộc chủ sở hữu doanh nghiệp. Thông thường không kể các tài sản phục vụ phúc lợi xã hội, quỹ khen thưởng, trợ cấp cho người lao động và tài sản giữ hộ thì giá trị của tài sản thuộc về các chủ sở hữu doanh nghiệp và chủ nợ của doanh nghiệp. Vì vậy tổng giá trị doanh nghiệp bằng tổng số nợ doanh nghiệp phải trả cộng tổng vốn chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên doanh nghiệp đang hoạt động thì vốn kinh doanh của doanh nghiệp đã được đầu tư, mua sắm và trở thành tài sản, hàng hóa vật chất cụ thể. Vì vậy vốn chủ sở hữu phải được xác định bằng việc tiền tệ hóa tài sản sau đó trả cho chủ nợ, phần còn lại là của chủ sở hữu.
Theo đó, công thức tổng quát được xây dựng như sau:
V0=VT – VN
Trong đó:
V0 : Giá trị tài sản thuần thuộc về chủ sở hữu doanh nghiệp.
VT : Tổng giá trị tài sản mà doanh nghiệp đang sử dụng vào sản xuất kinh doanh.
VN : Giá trị các khoản nợ.
Thông thường chủ sở hữu phải thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo quy định của pháp luật hiện hành, vì vậy chủ sở hữu doanh nghiệp chỉ có thể định đoạt phần vốn mà họ sở hữu. Cần chú ý rằng trên thị trường chứng khoán tổng tài sản của doanh nghiệp được xác định bằng tổng giá thị trường của các công cụ nợ và công cụ vốn doanh nghiệp đã phát hành.
Dựa theo công thức trên, người ta nêu ra hai cách xác định giá trị doanh nghiệp và giá trị vốn chủ sở hữu như sau:
Cách thứ nhất: Dựa vào số liệu về tài sản về tài sản và cơ cấu nguồn vốn phản ánh trên bảng cân đối kế toán tại thời điểm đánh giá để xác định bằng cách: lấy tổng giá trị tài sản phản ánh ở phần tài sản trừ đi các khoản trả bên nguồn vốn.
Đây là một cách tính toán đơn giản, dễ dàng. Nếu như việc ghi chép phản ánh đầy đủ các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, doanh nghiệp chấp hành tốt các quy định của chế độ kế toán thì giá trị tài sản thuần tính toán được sẽ là số liệu có độ tin cậy về số vốn theo sổ sách của chủ sở hữu đang được huy động vào sản xuất kinh doanh. Nó chỉ ra mức độ độc lập về tài chính, khả năng tự chủ trong điều hành SXKD của chủ doanh nghiệp, là căn cứ thích hợp để nhà đầu tư đánh giá vị thế tín dụng của doanh nghiệp.
Mặc dù người ta có thể đánh giá giá trị doanh nghiệp theo nhiều cách khác nhau, song theo cách này nó cũng minh chứng cho các bên liên quan thấy được rằng: đầu tư vào doanh nghiệp luôn luôn được đảm bảo bằng giá trị của các tài sản hiện có trong doanh nghiệp chứ không phải bằng cái “ có thể” như nhiều phương pháp khác.
Tuy nhiên giá trị doanh nghiệp xác định theo phương pháp này cũng chỉ là những thông tin, số liệu mang tính chất lịch sử có tính chất tham khảo trong quá trình vận dụng các phương pháp khách nhằm định ra giá trị doanh nghiệp một cách đúng hơn.
Cách 2: Xác định giá trị tài sản thuần theo giá thị trường.
Ngay cả khi doanh nghiệp thực hiên tốt chế độ kế toán do Nhà nước quy định thì số liệu trên bảng cân đối kế toán được lập vào một thời điểm nào đó cũng không phản ánh đúng giá trị thị trường của toàn bộ số tài sản trong doanh nghiệp, vì các lý do sau:
Toàn bộ giá trị của các tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán là những số liệu được tập hợp từ các sổ kế toán, các bảng kê…. Các số liệu này phản ánh trun g thực các chi phí phát sinh tại thời điểm xảy ra các nghiệp vụ kinh tế trong quá khứ của niên độ kế toán. Đó là những chi phí mang tính lịch sử, không còn phù hợp ở thời điểm định giá doanh nghiệp, ngay cả khi không có lạm phát.
Giá trị còn lại của tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán cao hay thấp phụ thuộc vào việc doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao nào, phụ thuộc vào thời điểm mà doanh nghiệp xác định nguyên giá và sự lựa chọn tuổi thọ kinh tế của tài sản cố định. Vì vậy, giá trị tài sản cố định phản ánh trên sổ kế toán thường không phù hợp với giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
Trị giá hàng hóa, vật tư, công cụ lao động… tồn kho hoặc đang dùng trong sản xuất, một mặt phụ thuộc vào cách sử dụng giá hạch toán là giá mua đầu kỳ, cuối kỳ hay giá thực tế bình quân. Mặt khác, còn phụ thuộc vào sự lựa chọn các tiêu thức phân bổ chi phí khác nhau cho số hàng hóa dự trữ. Do vậy, số liệu kế toán phản ánh giá trị của loại tài sản đó cũng được coi là không có đủ dộ tin cậy ở thời điểm đánh giá doanh nghiệp.
Đó là một số lý do cơ bản, nhưng cũng đủ để giải thích vì sao trị giá tài sản phản ánh trên bảng cân đối kế toán chỉ được coi là tài liệu tham khảo trong quá trình đánh giá lại toàn bộ tài sản theo giá thị trường tại thời điểm xác định giá trị kinh doanh.
Để xác định giá trị tài sản theo giá thị trường, trước hết người ta loại ta khỏi danh mục đánh giá những tài sản không cần thiết và không có khả năng đáp ứng các yêu cầu của SXKD. Sau đó tiến hành đánh giá số tài sản còn lại trên nguyên tắc sử dụng giá thị trường để tính cho từng tài sản hoặc từng loại tài sản cụ thể, như sau:
Đối với TSCĐ và TSLĐ là hiện vật thì đánh giá theo giá thị trường nếu trên thị trường hiện đang có bán những tài sản như vậy. Trong thực tế, thường không tồn tại thị trường TSCĐ cũ, đã qua sử dụng ở nhiều mức độ khác nhau. Khi đó, người ta dựa theo công dụng hay khả năng phục vụ sản xuất của tài sản để áp dụng một tỷ lệ khấu trừ trên giá trị của một TSCĐ mới.
Đối với những TSCĐ không còn tồn tại trên thị trường thì người ta áp dụng một hệ số quy đổi so với những TSCĐ khác loại nhưng có tính năng tương đương.
Các tài sản bằng tiền được xác định bằng cách kiểm quỹ, đối chiếu số dư trên tài khoản. Nếu là ngoại tệ sẽ được quy đổi về đồng nội tệ theo tỷ giá thị trường tại thời điểm đánh giá. Vàng, bạc, kim khí, đá quý…cũng được tính toán như vậy.
Các khoản phải thu: Do khả năng đồi nợ các khoản này có thể ở nhiều mức độ khác nhau, vì vậy, bao giờ người ta cũng bắt đầu từ việc đối chiếu công nợ, xác minh tính pháp lý, đánh giá độ tin cậy của từng khoản phải thu nhằm loại ra những khoản mà doanh nghiệp không có khả năng đòi được hoặc khả năng đòi được quá mong manh.
Đối với các khoản đầu tư ta bên ngoài doanh nghiệp: Về mặt nguyên tắc phải thực hiện đánh giá một cách toàn diện về giá trị đối với các doanh nghiệp hiện đang sử dụng các khoản đầu tư đó. Tuy nhiên nếu các khoản đầu tư này không lớn, người ta thường trực tiếp dựa vào giá thị trường của chúng dưới hình thức chứng khoán hoặc căn cứ vào số liệu của bên đối tác liên doanh để xác định theo cách thứ nhất đã đề cập ở phần trên.
Đối với các tài sản cho thuê và quyền thuê bất động sản: Tính theo phương pháp chiết khấu dòng thu nhập trong tương lai.
Các tài sản vô hình: Theo phương pháp này người ta chỉ thừa nhận giá trị của các tài sản vô hình đã được xác định trên sổ kế toán và thường không tính đến các lợi thế thương mại của doanh nghiệp.
Sau cùng, giá trị tài sản thuần được tính bằng cách lấy tổng giá trị của các tài sản đã được xác định trừ đi các khoản nợ phản ánh ở bên nguồn vốn của bảng cân đối kế toán và khoản tiền thuế tính trên giá trị tăng thêm của số tài sản được đánh giá lại tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp.
3, Hạn chế và khả năng áp dụng phương pháp tài sản thuần trong thực tiễn định giá.
a, Những hạn chế.
Theo phương pháp này người ta quan niệm doanh nghiệp như một tập hợp các loại tài sản vào với nhau. Việc bán doanh nghiệp cũng giống như việc bán các tài sản riêng rẽ. Phương pháp vận dụng cũng giống như kỹ thuật định giá tài sản thông thường: chi phí thay thế, so sánh thị trường. Giá trị doanh nghiệp chỉ đơn giản được tính bằng tổng giá thị trường của số tài sản trong doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. Giá trị doanh nghiệp được cố định ở giá trị của các tài sản. Điều đó có nghĩa là, nó đánh giá doanh nghiệp trong một trạng thái tĩnh. Doanh nghiệp không được coi như một thực thể, một tổ chức đang tồn tại và còn có thể hoàn chỉnh và phát triển trong tương lai. Vì vậy, mà nó không phù hợp với một tầm nhìn chiến lược về doanh nghiệp. Bởi, động cơ của người mua doanh nghiệp là nhằm sở hữu các khoản thu nhập trong tương lai, chứ không phải để bán lại ngay những tài sản hiện thời.
Phương pháp giá trị tài sản thuần đã không cung cấp và xây dựng được những cơ sở thông tin cần thiết để các bên có liên quan đánh giá về triển vọng sinh lời của doanh nghiệp. Đó cũng là lý do mà khi sẻ dụng phương pháp này,người ta khó có thể giải thích vì sao cùng một giá trị tái sản thuần như nhau, nhưng doanh nghiệp này lại có giá bán cao hơn doanh nghiệp kia, ngay cả khi không có sự tác động của yếu tố cạnh tranh.
Phương pháp giá trị tài sản thuần đã bỏ qua phần lớn các yếu tố phi vật chất nhưng lại có giá trị thực sự và nhiều khi lại chiếm tỷ trọng rất lớn trong giá trị doanh nghiệp, như: Trình độ quản lý, trình độ công nhân, uy tín, thị phần…của doanh nghiệp. Đó có thể là những doanh nghiệp có tài sản không đáng kể nhưng triển vọng sinh lợi lại rất cao.
Trong nhiều trường hợp, xác định giá trị tái sản thuần lại trở nên quá phức tạp. Chẳng hạn, xác định giá trị của một tập đoàn có nhiều chi nhánh, có các chứng khoán đầu tư ở nhiều doanh nghiệp khác nhau. Mỗi chi nhánh lại có một số lượng rất lớn các tài sản đặc biệt, đã qua sử dụng, thậm chí không còn bán trên thị trường. Khi đó, đòi hổi phải tổng kiểm kê đánh giá lại một cách chi tiết mọi tài sản ở các chi nhánh. Từ đó, kéo theo những khoản chi phí đánh giá rất tốn kém, thời gian cần thiết cho một cuộc đánh giá có thể kéo dài, kết quả đánh giá phụ thuộc rất lớn vào các thông số kỹ thuật của tài sản mà các nhà kỹ thuật chuyên ngành đưa ra. Như vậy, sai số đánh giá có thể sẽ rất cao.
b, Khả năng ứng dụng của phương pháp giá trị tài sản thuần.
Phương pháp giá trị tài sản thuần đã chỉ ra giá trị của những tài sản cụ thể cấu thành giá trị doanh nghiệp. Có thể nói, giá trị của các tài sản đó là một căn cứ cụ thể có tính pháp lý rõ ràng nhất về khoản thu nhập mà người mua chắc chắn sẽ nhấn được khi sở hữu doanh nghiệp. Nó nói lên rằng, số tiền mà người mua bỏ ra luôn luôn được đảm bảo bằng một lượng tài sản có thật.
Phương pháp xác định giá trị tài sản thuần xác định giá trị thị trường của số tài sản có thể bán rời tại thời điểm đánh giá. Như vậy nó đã chỉ ra rằng có một khoản thu nhập tối thiều mà người sở hữu sẽ nhận được. Đó cũng lầ một mức giá thấp nhất, là cơ sở đầu tiên để các bên có liên quan đưa ra trong quá trình giao dịch và đàm phán về giá bán của doanh nghiệp.
Đối với những doanh nghiệp nhỏ mà số lượng tài sản không nhiều, việc định giá tài sản không đòi hỏi những kỹ thuật phức tạp, giá trị các yếu tố vô hình là không đáng kể, các doanh nghiệp có chiến lược kinh doanh không rõ ràng, thiếu căn cứ xác định các khoản thu nhập trong tương lai thì giá trị thuần sẽ trở thành tiêu chuẩn cơ bản và thích hợp nhất để các bên xích lại gần nhau trong quá trình đàm phán.
Chương 2. Thực tiễn vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần vào định giá doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần hóa.
I, Thực trạng định giá doanh nghiệp ở nước ta và việc vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần để định giá doanh nghiệp Nhà nước cổ phần hóa.
Trên thế giới có nhiều phương pháp xác định giá trị DN, nhưng thực tế hiện tại ở VN có 2 phương pháp chủ yếu thường được các tổ chức định giá sử dụng là: phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp theo giá trị tài sản (Phương pháp tài sản) và phương pháp xác định giá trị doanh nghiệptheo dòng tiền chiết khấu (Phương pháp dòng tiền chiết khấu).
Thực chất đây là 2 phương pháp do Chính phủ ban hành dùng để xác định giá trị doanh nghiệp đối với các doanh nghiệp nhà nước khi chuyển sang hình thức Cty cổ phần. Tuy nhiên, khi định giá các hình thức DN khác cũng thường được nhiều người vận dụng..
Đối với cả 2 phương pháp xác định giá trị doanh nghiệp nêu trên thì khi áp dụng, yếu tố cơ sở để thực hiện trước tiên phải là hồ sơ pháp lý của DN, các văn bản liên quan đến công tác chuyển đổi hình thức DN và số liệu trên báo cáo tài chính, sổ kế toán của DN. Nhìn chung, hầu hết các DN sử dụng phương pháp tài sản. Song, do thiếu thông tin về thị trường để xác định giá trị còn lại của nhà xưởng, máy móc, chưa có tiêu chuẩn cụ thể để định giá thương hiệu, uy tín, mẫu mã nên chưa thể tính hết được giá trị tiềm năng của DN. Theo phương pháp tài sản thì giá trị DN được xác định dựa trên cơ sở đánh giá giá trị thực tế toàn bộ tài sản hiện có của DN tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp (ngoại trừ các tài sản không cần dùng, chờ thanh lý, tài sản thuê mượn, công nợ không có khả năng thu hồi...). Theo đó khi đánh giá, cơ sở quan trọng của phương pháp này là dựa vào số lượng và chất lượng tài sản theo kiểm kê và phân loại thực tế, tính năng kỹ thuật của tài sản, nhu cầu sử dụng và giá trị thực tế trên thị trường của tài sản, ngoài ra còn tính đến giá trị quyền sử dụng đất hoặc khả năng sinh lời của DN (nếu có)
Tính đến cuối năm 2006, cả nước đã cổ phần hoá được khoảng 3.000 doanh nghiệp nhà nước và bộ phận doanh nghiệp Nhà nước. Với lộ trình cổ phần hóa từ năm 2007 đến 2010, theo Quyết định số 1729/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ sẽ có 71 tập đoàn, tổng công ty Nhà nước được tiếp tục cổ phần hóa với giá trị tài sản lên tới hàng trăm nghìn tỉ đồng.
Những thành tựu bước đầu về cổ phần hóa là rõ ràng và cần được khẳng định: Tạo ra các loại hình DN đa sở hữu năng động thích nghi với nền kinh tế thị trường, thu hút được một lượng vốn lớn đầu tư cho sản xuất kinh doanh, buộc các doanh nghiệp Nhà nước phải tích cực chủ động đổi mới phương thức quản trị kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh...
Nhưng thẳng thắn để nhận biết, chúng ta cũng thấy việc cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước những năm qua cũng bộc lộ nhiều bất cập và những lỗ hổng. Đặc biệt trong việc định giá tài sản Nhà nước. Lỗ hổng lớn nhất trong cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước vừa qua chính là việc xác định chất lượng còn lại của tài sản tại thời điểm tiến hành cổ phần hóa chưa chính xác, thiếu nhiều chuẩn mực đã dẫn tới hậu quả tất yếu là giá trị tài sản DN của nhiều DN thấp hơn rất nhiều so với giá trị thực tế tài sản đang phát huy tác dụng trong sản xuất kinh doanh của DN, làm Nhà nước bị thất thoát giá trị tài sản rất lớn khi cổ phần hóa.
Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một vẫn đề có ý nghĩa trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước, đó là một trong những yếu tố quyết định thành công của quá trình cổ phần hoá. Một mặt nó đảm bảo lợi ích thiết thực của nhà nước và lợi ích của người mua doanh nghiệp hay các thành viên trong công ty cổ phần khi tiến hành cổ phần hoá doanh nghịêp nhà nước. Mặt khác nó còn có yếu tố tâm lý cho các thành viên tham gia mua cổ phiếu của doanh nghiệp Nhà nước. Tạo tâm lý ổn định, tin tưởng của các cá nhân tổ chức khi tham gia quá trình cổ phần hoá, thực hiện tốt mục tiêu kế hoạch Nhà nước đề ra, nhanh chóng chuyển đổi một số doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần, giải quyết được những vướng mắc, những bất hợp lý trong quá trình cổ phần hoá. Việc xác định giá trị doanh nghiệp là một vấn đề nan giải gây ra nhiều tranh cãi và cấp thiết trong quá trình cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vì vậy việc xác định giá trị doanh nghiệp là hết sức quan trọng trong kế hoạch của nhà nước ta.
Ngoài ra, một số quy định khác về cổ phần hóa có thể gây cản trở cho việc định giá. Rất nhiều DNNN phàn nàn rằng các quy định về xác định giá trị các khoản phải thu khó đòi của Bộ Tài chính là quá cứng nhắc, ví dụ như chỉ được phép xoá nợ khi chứng minh được con nợ đã chết hoặc phá sản. Do vậy, có những DNNN buộc phải tính các khoản phải thu hầu như không có khả năng thu hồi vào giá trị tài sản của doanh nghiệp để cổ phần hoá. Trong khi đó, các ngân hàng thương mại quốc doanh cũng không xóa các khoản nợ đã bị quá hạn hoặc treo cho những DNNN này. Kết quả là những DNNN đó có thể bị định giá quá cao nên gặp rất nhiều khó khăn trong việc huy động cổ đông.
Phương pháp định giá theo tài sản thường được sử dụng hiện nay là phương pháp giá trị tài sản thuần. Theo phương pháp này, giá trị của doanh nghiệp bằng với giá thị trường của toàn bộ tài sản trừ đi cho giá thị trường của tất cả các khoản nợ của doanh nghiệp. Phương pháp này thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp bất động sản, các ngành nghề đòi hỏi đầu tư nhiều cho máy móc trang thiết bị như sản xuất, khai thác mỏ, vận tải, kho vận, các dịch vụ công cộng, bán sỉ và phân phối...
Phương pháp này cũng không đưa ra hướng dẫn cụ thể cho việc định giá các tài sản vô hình như danh tiếng, uy tín trên thị trường, nhãn hiệu hàng hóa, sở hữu trí tuệ... do đó việc xác định giá trị của tài sản vô hình sẽ phụ thuộc rất nhiều vào chủ quan của người định giá dẫn đến việc giá trị của chúng có thể được định giá quá cao hoặc quá thấp so với giá trị hợp lý. Ví dụ như việc đánh đồng một thương hiệu hàng hóa đã nổi tiếng như cà phê Trung Nguyên với một thương hiệu cà phê nào đó có có thể sẽ đánh giá quá cao giá trị của thương hiệu cà phê này. Việc định giá sở hữu trí tuệ nếu không tính đến đặc thù của các ngành công nghiệp dựa trên khoa học kỹ thuật cũng như các công ty tập trung đầu tư cho nghiên cứu và phát triển có thể sẽ đánh giá quá thấp sở hữu trí tuệ của doanh nghiệp.
Vì giá trị doanh nghiệp chỉ là giá thị trường của tồng tài sản thuần của doanh nghiệp tại thời điểm định giá nên tiềm năng tăng trưởng trong tương lai của doanh nghiệp không được tính đến trong phương pháp định giá này. Giá trị doanh nghiệp do phương pháp định giá giá trị tài sản thuần không phải là giá trị tương lai mà doanh nghiệp sẽ tạo ra. Nếu áp dụng phương pháp này để định giá một doanh nghiệp có tiềm năng tăng trưởng cao trong tương lai, giá trị của doanh nghiệp có thể được đánh giá quá thấp vì khả năng tăng trưởng cao trong tương lai của các doanh nghiệp này không được tính đến. Theo thống kê, tỷ lệ tăng trưởng chung của sản lượng công nghiệp năm 2002 khá cao là 14% trong đó sản lượng công nghiệp của bộ phận doanh nghiệp tư nhân tăng 19.5%, bộ phận doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 14% và bộ phận doanh nghiệp nhà nước tăng 12%.
Phương pháp định giá giá trị tài sản thuần có thể áp dụng cho doanh nghiệp "có vấn đề" đang trong giai đoạn thua lỗ có dòng tiền tương lai âm vì đối với các doanh nghiệp này việc dự đoán dòng tiền tương lai sẽ rất khó khăn vì doanh nghiệp có khả năng bị phá sản. Đối với doanh nghiệp dự kiến sẽ bị phá sản, phương pháp phân tích chiết khấu dòng tiền thường không áp dụng vì phương pháp này xem doanh nghiệp là một sự đầu tư luôn tiếp diễn và tạo ra dòng tiền dương cho nhà đầu tư. Ngay cả đối với các doanh nghiệp đang thua lỗ nhưng còn có thể tồn tại được, sẽ rất khó khăn khi áp dụng phương pháp chiết khấu dòng tiền vì dòng tiền sẽ phải được dự báo cho đến khi đạt được dòng tiền dương bởi việc chiết khấu về hiện tại một dòng tiền âm sẽ cho ra kết quả giá trị doanh nghiệp âm.
Phương pháp này cũng có thể được sử dụng khi phương pháp chiết khấu dòng tiền cho ra kết quả giá trị doanh nghiệp thấp hơn giá trị của tài sản hữu hình của doanh nghiệp vì trong trường hợp này giá trị của doanh nghiệp (chẳng hạn như công ty đầu tư kinh doanh bất động sản) có thể phần lớn phụ thuộc vào giá trị tài sản mà nó nắm giữ.
Trong hồ sơ xác định giá trị DN cổ phần hóa của nhiều DN được duyệt đã có sự "vênh" rất lớn giữa đánh giá phần trăm chất lượng kỹ thuật còn lại với giá trị thực còn tốt của tài sản, phần tốt này đã bị "mất" đi một cách tuyệt đối qua số tương đối là tỉ lệ phần trăm chất lượng tài sản bị đánh tụt xuống.
Nếu chúng ta biết nguyên giá một đối tượng tài sản cố định như một trụ sở làm việc, một tổ lò máy phát điện, một đường dây truyền tải điện, một con tàu đánh cá, một máy xúc... có giá trị tới hàng chục, hàng trăm tỉ đồng, thì mỗi phần trăm chất lượng giảm đi Nhà nước mất bao nhiêu tỉ đồng. Mà mỗi DN có tới hàng chục, hàng trăm, hàng nghìn tài sản khác nhau cần đánh giá.
Thực tế, khi xác định giá trị tài sản là hiện vật, các công ty tư vấn xác định giá trị doanh nghiệp thường không thực hiện theo đúng nguyên tắc “giá thị trường”. Nhiều nơi viện lý do: thị trường không có tài sản tương đương nhưng thường, các đơn vị đó lại không thực hiện đầy đủ quá trình định giá. Người ta thường dùng số liệu kế toán cũ, lạc hậu làm căn cứ nên giá trị tài sản của doanh nghiệp đưa vào CPH thường bị đánh giá thấp hơn giá trị thực tế. Có tình trạng chung là các hội đồng xác định giá trị tài sản doanh nghiệp cố ý hiểu khác đi quy định về cách xác định chất lượng tài sản trong thông tư hướng dẫn (của bộ Tài chính) để hạ thấp chất lượng nhiều tài sản xuống 20% kể cả nhà cửa, phương tiện giao thông... đang sử dụng. Thậm chí có nơi, như ở Cần Thơ, trung tâm Dịch vụ và thẩm định giá tài sản của nhà nước còn sử dụng cả cán bộ chưa hề qua đào tạo, không có chuyên môn thẩm định tham gia vào việc xác định giá trị doanh nghiệp. Bởi những nguyên nhân trên, nên có tình trạng: ở công ty cổ phần Bia Hà Nội – Hải Phòng, người ta đã hạ thấp tỷ lệ chất lượng còn lại của tài sản tại doanh nghiệp này hơn 4 tỉ đồng; ở công ty cổ phần cấp nước Sơn La, giá trị tài sản cũng bị giảm thấp đi 1,8 tỉ đồng… Hàng loạt doanh nghiệp khác, qua thanh tra, đã được kết luận là xác định sai, tính thiếu, làm thấp giá trị tài sản... trị giá hàng chục tỉ đồng như : công ty cổ phần đúc đồng Hải Phòng (1,94 tỉ đồng), công ty thương mại du lịch Bắc Ninh (2,92 tỉ đồng), công ty cổ phần dịch vụ Minh Hải (không làm hồ sơ quyết toán để xác định giá trị tài sản số tiền trên 4 tỉ đồng); nhà máy Thiết bị bưu điện (VNPT) khi CPH đã xác định thiếu giá trị lợi thế kinh doanh 3 tỉ đồng…
II, Vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần vào việc định giá công ty tấm lợp VLXD Đồng Nai trong quá trình cổ phần hóa
1, Giới thiệu về công ty tấm lợp, VLXD Đồng Nai.
Tiền thân là hãng Eternit của Pháp hoạt động từ năm 1966. Sau khi thống nhất đất nước, công ty được đổi tên thành Nhà máy Amiăng Ximăng Đồng Nai và sau đó là Công ty Tấm lợp VLXD Đồng Nai trực thuộc Tổng công ty xi măng Việt Nam.
Năm 1993, Bộ xây dựng có quyết định đổi tên Nhà máy Amiăng xi măng Đồng Nai thành Công ty tấm lợp VLXD Đồng Nai trực thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam, có nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Fibro ximăng và các VLXD khác. Năm 2000, Thủ tướng chính phủ có quyết định số 73/2000/QĐ-TTg ngày 21 tháng 6 năm 2000 về việc chuyển Công ty tấm lợp VLXD Đồng Nai ( thuộc Tổng Công ty Xi măng Việt Nam) sang Công ty cổ phần. Công ty hoạt động theo Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh số 4703000010 ngày 22 tháng 9 năm 2000 do Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Đồng Nai cấp.
2, Định giá bằng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần trong cổ phần hóa công ty tấm lợp, VLXD Đồng Nai.
Sau khi có quyết định của thủ tướng chính phủ, công ty tấm lợp, VLXD Đồng Nai đã có những bước để chuyển đổi thành công ty cổ phần. Trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp phải tiến hành định giá doanh nghiệp để phục vụ quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp mình.
Bảng cân đối kế toán tại thời điểm định giá của công ty cổ phần tấm lợp VLXD Đồng Nai.
Đơn vị: triệu đồng
Tài sản.
Số tiền
Nguồn vốn.
Số tiền.
A. TSCĐ và đầu tư ngắn hạn.
300000
A. Nợ phải trả.
200000
1. Tiền.
25000
1. Nợ ngắn hạn.
50000
2. Đầu tư ngắn hạn.
4000
2. Các khoản phải trả.
25000
3. Các khoản phải thu.
166000
3. Vay dài hạn.
125000
4. Hàng tồn kho.
56500
5. TS ngắn hạn khác.
48500
B.TSCĐ và đầu tư dài hạn.
390500
B. Nguồn vốn CSH.
490500
1. TSCĐ hữu hình.
30200
1. Vốn chủ sở hữu.
300000
2. TSCĐ thuê tài chính.
270
2. Nguồn kinh phí và quỹ khác.
190500
3. Chi phí XDCB dở dang.
178000
4. Đầu tư vào công ty con.
30000
5. Đầu tư dài hạn khác.
60400
6. TSDH khác.
91630
Tổng tài sản.
690500
Tổng nguồn vốn.
690500
Việc đánh giá lại toàn bộ tài sản của doanh nghiệp cho thấy có những thay đổi như sau:
1, Một số khoản phải thu không có khả năng đòi được là 66000 trđ.
2, Hàng tồn kho kém phẩm chất, theo kết quả đánh giá lại giảm 6500trđ.
3, TSCĐ hữu hình đánh giá lại theo giá thị trường tăng 1800 trđ
4, Doanh nghiệp phải trả tiền thuê TSCĐ trong 10 năm, mỗi năm 27trđ. Muốn thuê TSCĐ với những điều kiện tương tự như vậy tại thời điểm hiện hành thường phải trả 30trđ mỗi năm.
5, Chi phí xây dựng cơ bản dở dang theo đánh giá lại giảm 8000trđ.
6, Số vốn đầu tư vào công ty con tăng 5000trđ.
Tỷ suất lợi nhuận vốn trung bình trên thị trường là 20%
Ước lượng giá trị doanh nghiệp theo phương pháp giá trị tài sản thuần.
Bài làm
G
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Vận dụng phương pháp xác định giá trị tài sản thuần để định giá doanh nghiệp.doc