Đề tài Xây dựng tiêu chuẩn niêm yết cho thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010-2020

MỤC LỤC

MỤC LỤC . . . . i

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT . . . iv

DANH MỤC CÁC BẢNG VÀ HÌNH . . vi

LỜI MỞ ĐẦU . . . . 1

CHƯƠNG 1: TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA MỘT SỐ TTCK TRÊN THẾ

GIỚI . . . . 2

1.1. NIÊM YẾT TRÊN TTCK SINGAPORE . . 2

1.1.1. GIỚI THIỆU VỀ TTCK SINGAPORE . . 2

1.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT . . . 4

1.1.2.1. NIÊM YẾT TRÊN SGX . . . 4

1.1.2.2. NIÊM YẾT TRÊN CATALIST . . 7

1.2. NIÊM YẾT TRÊN TTCK HONG KONG . . 8

1.1.1. GIỚI THIỆU VỀ TTCK HONG KONG . . 8

1.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT . . . 9

1.1.2.1. NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG CHÍNH HONG KONG. 9

1.1.2.2. NIÊM YẾT TRÊN THỊ TRƯỜNG DOANH NGHIỆP ĐANG TĂNG

TRƯỞNG . . . . 12

KẾT LUẬN CHƯƠNG 1 . . . 15

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT TRÊN TTCK VIỆT NAM

HIỆN NAY . . . . 16

2.1. TTCK VIỆT NAM . . . 16

2.1.1. THỊ TRƯỜNG NIÊM YẾT . . . 16

2.1.2. THỊ TRƯỜNG OTC VÀ CÁC ĐỢT IPO TRONG THỜI GIAN QUA. 26

2.2. PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU TRÊN SỞ GDCK

TP.HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY . . . 30

2.2.1. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỔ PHIẾU. . 30

2.2.2. PHÂN TÍCH TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ

MINH . . . . 31

2.2.2.1. CHỈ TIÊU VỐN ĐIỀU LỆ . . . 31

2.2.2.2. CHỈ TIÊU VỀ LỢI NHUẬN . . 32

2.2.2.3. CHỈ TIÊU VỀ CÁC KHOẢN NỢ . . 33

2.2.2.4. CHỈ TIÊU VỀ TÍNH ĐẠI CHÚNG CỦA DOANH NGHIỆP . 33

2.2.3. MỘT SỐ ĐÁNH GIÁ, NHẬN XÉT KHÁC . . 34

2.2.3.1. ĐÁNH GIÁ VỀ XẾP HẠNG TÍN DỤNG DOANH NGHIỆP . 34

2.2.3.2. VẤN ĐỀ CÔNG BỐ THÔNG TIN . . 37

2.2.3.3. ĐÁNH GIÁ VỀ CHẤT LƯỢNG CỦA KẾ TOÁN, KIỂM TOÁN VIỆT

NAM . . . . 39

KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 . . . 41

CHƯƠNG 3: XÂY DỰNG TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO TTCK VIỆT NAM

GIAI ĐOẠN 2010-2020 . . . 42

3.1. NÂNG CAO TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CHO SỞ GDCK TP.HỒ CHÍ

MINH . . . . 42

3.1.1. NHỮNG CƠ SỞ PHÂN TÍCH ĐỂ ĐƯA RA TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT43

3.1.2. TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT . . . 43

3.1.2.1. TIÊU CHUẨN QUY MÔ VỐN ĐIỀU LỆ . . 44

3.2.2.2. LỊCH SỬ HOẠT ĐỘNG, KHẢ NĂNG SINH LỜI V À TIỀM NĂNG

TƯƠNG LAI . . . . 45

3.1.2.3. BAN QUẢN LÝ CÔNG TY . . . 46

3.1.2.4. TỶ LỆ PHÂN BỔ CHO CỔ ĐÔNG . . 46

3.1.2.5. THỜI HẠN RÀNG BUỘC CHUYỂN NHƯỢNG . 46

3.1.2.6. CHUẨN MỰC KIỂM TOÁN . . 46

3.1.2.7. CÔNG BỐ THÔNG TIN CỔ PHẦN . . 46

3.1.2.8. NHỮNG ĐIỀU KIỆN KHÁC . . 46

KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 . . . 47

KẾT LUẬN. . . . 48

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO . . vii

PHỤ LỤC . . . . viii

PHỤ LỤC 1: GIỚI THIỆU THÊM VỀ TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT CỦA MỘT

SỐ TTCK TRÊN THẾ GIỚI . . . 49

PHỤ LỤC 2: TIÊU CHUẨN NIÊM YẾT DÀNH CHO CÁC DOANH NGHIỆP

VIỆT NAM CỦA TTCK MALAYSIA VÀ THÁI LAN . . 54

PHỤ LỤC 3: HỆ THỐNG XẾP HẠNG TÍN DỤNG . . 57

PHỤ LỤC 4: GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG KẾ TOÁN, KIỂM

TOÁN VIỆT NAM VÀ XÂY DỰNG BẢN BÁO CÁO TÀI CHÍNH THEO TIÊU

CHUẨN QUỐC TẾ . . . 58

PHỤ LỤC 5: KẾT NỐI GIỮA SÀN CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM VỚI CÁC

SÀN TRONG KHU VỰC . . . 65

PHỤ LỤC 6: TRÍCH LƯỢC NGHỊ ĐỊNH 14 VỀ THI HÀNH LUẬT CHỨNG

KHOÁN . . . . 72

PHỤ LỤC 7: THÔNG TIN VỀ VỐN, LỢI NHUẬN CÁC DOANH NGHIỆP

NIÊM YẾT TRÊN HOSE . . . 81

pdf59 trang | Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 2532 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xây dựng tiêu chuẩn niêm yết cho thị trường chứng khoán Việt Nam giai đoạn 2010-2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp ban hành ngày 22/12/2003, Chính phủ đã đưa kiến nghị xếp hoạt động kinh doanh chứng khoán vào danh mục ngành nghề, lĩnh vực được hưởng ưu đãi đầu tư vào. Lý do chính nhất có thể là do các doanh nghiệp chưa nhận thức được những lợi ích mang lại từ việc cổ phần hóa doanh nghiệp và niêm yết cổ phiếu trên TTCK, đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước (còn tồn tại quá nhiều lợi ích, ưu đãi dành cho các doanh nghiệp Nhà nước). Đến năm 2004, hàng loạt các chính sách pháp lý liên quan đến chứng khoán và TTCK được ban hành, như: hệ thống các Thông tư hướng dẫn Nghị định 144/2003/NĐ-CP; Nghị định 161/2004/NĐ-CP (thay thế Nghị định 22/2000/NĐ- CP) về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK; Nghị định 187/2004/NĐ-CP (thay thế Nghị định 64/2002/NĐ-CP) về việc chuyển công ty Nhà nước thành công ty cổ phần; Quy chế niêm yết và phát hành cổ phiếu ra công chúng đối với cổ phiếu của các ngân hàng thương mại cổ phần… đã tạo được sự gắn kết trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán. Mặc dù có những biến động lớn của giá cả trong nước và kinh tế toàn cầu, giá vàng, giá dầu tăng kỷ lục, nhưng hầu hết các công ty niêm yết đều hoàn thành tốt kế hoạch năm 2004, sản xuất kinh doanh đều có lãi, khắc phục được những thiếu sót của năm trước và các công ty niêm yết như GMD, HAP, HAS, KHA, TMS, TRI… thông qua việc phát hành thêm cổ phiếu để huy động vốn, để trả cổ tức bằng cổ phiếu, hay làm cổ phiếu thưởng đã huy động được 77,5 tỷ đồng để đầu tư phát triển, cho thấy TTCK đã và sẽ trở thành một kênh huy động vốn cho các doanh nghiệp tham gia niêm yết. Hình 2.1:Tốc độ tăng trưởng số lượng tài khoản giao dịch Nguồn: bsc.com.vn Năm 2005, hoạt động của TTCK Việt Nam có sự khởi sắc, quy mô thị trường được mở rộng, tăng khoảng 55% giá trị chứng khoán niêm yết, số lượng nhà đầu tư tăng 35%. Lòng tin của nhà đầu tư đối với thị trường được nâng lên do tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp niêm yết có sự tăng trưởng cao cả về vốn, doanh thu, lợi nhuận, tính công khai và quản trị công ty theo điều lệ mẫu được tăng cường. Chính phủ mới ban hành Quyết định 238/2005/QĐ-TTg ngày 29/9/2005 về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam, theo đó nâng tỷ lệ nắm giữ cổ phần của các nhà đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp niêm yết từ 30% lên 49%, cho phép các tập đoàn bảo hiểm như Prudential, Manulife và một số tổ chức liên doanh thành lập công ty quản lý quỹ ở Việt Nam, cấp phép lưu ký cho Tập đoàn CitiGroup, cho phép chuyển các xí nghiệp liên doanh thành công ty cổ phần. Đây là động thái tích cực để thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài vào thị trường chứng khoán. Đối với các doanh nghiệp tốt, làm ăn có hiệu quả, nhà đầu tư nước ngoài được phép nắm giữ tỷ lệ cao hơn, vì thế, giao dịch các loại chứng khoán này trên thị trường thứ cấp trở nên sôi động hơn. Hệ thống thể chế TTCK từng bước hoàn thiện và phát triển: - TTGDCK Thành phố Hồ Chí Minh đưa vào hoạt động từ tháng 7/2000 đang từng bước được nâng cấp, mở rộng, đáp ứng yêu cầu giao dịch cổ phiếu niêm yết của các công ty lớn. - TTGDCK Hà Nội bắt đầu hoạt động từ tháng 3/2005 đã đóng góp tích cực vào hoạt động đấu giá cổ phần hoá và giao dịch chứng khoán các doanh nghiệp chưa niêm yết. - Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (TTLKCK) đã đi vào hoạt động từ tháng 5/2006 trên cơ sở tiếp nhận nhiệm vụ đăng ký, lưu ký và bù trừ thanh toán chứng khoán từ các TTGDCK. Đến nay, TTLKCK đã có 23 tổ chức tham gia hoạt động lưu ký CK, trong đó có 20 tổ chức lưu ký, 2 tổ chức tài chính và Sở giao dịch Ngân hàng Nhà nước đăng ký mở tài khoản trực tiếp. TTLKCK đã nhận lưu ký cho trên 400 triệu cổ phiếu của các công ty cổ phần, hơn 550 triệu trái phiếu và gần 50 triệu chứng chỉ quỹ. Hoạt động lưu ký thông suốt, ổn định đảm bảo thanh toán kịp thời chính xác các giao dịch chứng khoán. Qua 5 năm hoạt động và phát triển của TTCK Việt Nam, không chỉ các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng của việc cổ phần hoá doanh nghiệp và niêm yết chứng khoán mà còn có không ít nhà đầu tư trong và ngoài nước cũng bị hấp dẫn bởi thị trường này. Đây là lý do khiến cho năm 2006 trở thành năm mà TTCK Việt Nam phát triển bùng nổ về khối lượng giao dịch, số lượng nhà đầu tư cũng như số lượng các công ty niêm yết, đăng ký giao dịch và các tổ chức trung gian (công ty chứng khoán, quỹ đầu tư). Thực hiện Nghị định 187/2004/NĐ-CP về cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước thông qua đấu giá cổ phần hóa trên TTCK, tính đến hết tháng 11/2006, các TTGDCK đã tổ chức được 177 phiên đấu giá với tổng vốn điều lệ của các doanh nghiệp tham gia đấu giá là 26.391 tỷ đồng; tổng số cổ phiếu chào bán là hơn 768 triệu cổ phiếu; tổng số cổ phiếu bán được là hơn 645 triệu cổ phiếu, đạt 84% so với tổng số lượng chào bán, tổng giá trị thu được là hơn 12.880 tỷ đồng. Hình 2.2: Tốc độ tăng trưởng của các thị trường (tính trung bình 5 năm gần nhất) Nguồn: Bloomberg – Standard & Poors (10/2007) Tính đến tháng 12/2006, số tài khoản giao dịch của các nhà đầu tư là 95.000 (tăng hơn 3 lần so với cuối năm 2005 và trên 30 lần so với năm đầu tiên mở thị trường); nhà đầu tư nước ngoài có khoảng 1.700 tài khoản và hiện đang nắm giữ khoảng 25-30% số lượng cổ phiếu của các công ty niêm yết, trong đó có một số tên tuổi của các nhà đầu tư chứng khoán quốc tế như JP Morgan, Merryll Lynch, Citigroup... Trong khi đến cuối năm 2007 đầu 2008 số lượng tài khoản giao dịch của nhà đầu tư hiện hơn 300.000 tài khoản. TTCK bước đầu khẳng định vị trí của mình như một kênh dẫn vốn dài hạn cho nền kinh tế. Ngày càng có thêm nhiều doanh nghiệp huy động vốn thành công qua TTCK, chỉ tính riêng 11 tháng năm 2006 đã có trên 27 doanh nghiệp niêm yết, huy động và tăng vốn qua TTCK với tổng giá trị cổ phần và trái phiếu trên 1.300 tỷ đồng (Ví dụ: REE, khi cổ phần hoá vốn điều lệ là 16 tỷ đồng và khi niêm yết năm 2000 vốn là 150 tỷ đồng, đến nay đã đạt mức vốn chủ sở hữu là 512 tỷ đồng; SACOM khi niêm yết có vốn điều lệ là 120 tỷ đồng đến nay vốn chủ sở hữu đã tăng lên 625 tỷ đồng). Nhìn chung, các công ty niêm yết đều có mức tăng trưởng khá cả về doanh thu và lợi nhuận, trình độ quản lý, trình độ quản trị công ty được nâng cao, tính công khai, minh bạch ngày càng được tăng cường, do đó càng thuận lợi trong huy động vốn. Hình 2.3: Việc Quốc hội Mỹ thông qua Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam cùng với thành công của Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương (APEC) tháng 11/2006 được tổ chức thành công và sự kiện Việt Nam chính thức gia nhập vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) hứa hẹn một năm 2007 với nhiều thuận lợi cho nền kinh tế - xã hội Việt Nam nói chung và thị trường chứng khoán Việt Nam nói riêng. Thế nhưng thực tế lại không hoàn toàn đúng như dự đoán khi năm 2007 lại là năm thị trường chứng khoán có nhiều biến động nhất. Ở giai đoạn đầu (từ 02/01/2007 đến 12/03/2007) là giai đoạn tăng trưởng ấn tượng nhất, có thể xem như nhờ dư âm của thời gian cuối năm 2006. Cả giai đoạn tăng 429.4 điểm, tương đương 36.68% qua 44 phiên giao dịch. Phiên cuối giai đoạn này xác lập kỷ lục cho VN-Index đạt mức 1.170,67 vào ngày 12/03, mức cao nhất trong lịch sử VN-Index suốt 7 năm của TTCK Việt Nam. Hình 2.4: Biểu đồ phát triển của TTCK Việt Nam qua các năm Sau đợt tăng quá nóng này, “tâm lý bầy đàn” của nhà đầu tư đã thể hiện rất rõ khi họ ồ ạt bán cổ phiếu ra (vì họ nghĩ rằng giá cổ phiếu đã lên tới đỉnh, sẽ rơi xuống trong tương lai và họ đã quá lời trong ngắn hạn sau giai đoạn đỉnh điểm vừa rồi; ngoài ra, việc các doanh nghiệp cung cấp thông tin bất nhất, phát hành cổ phiếu không công bằng giữa các cổ đông khiến nhà đầu tư bất bình) làm cho cung lớn hơn cầu khiến cho giá cổ phiếu sụt giảm mạnh, VN-Index giảm xuống còn 905,53 điểm, tức giảm 21,82% chỉ sau 31 phiên giao dịch. Giai đoạn tiếp theo, nhờ tâm lý đón đầu kết quả kinh doanh tốt đẹp của quý 2 của nhà đầu tư khiến cho việc mua vào được thúc đẩy mạnh hơn, kéo VN-Index vượt ngưỡng 1.000 điểm. Thế nhưng tâm lý này không thể duy trì lâu sau 2 sự kiện: Đánh thuế thu nhập từ chứng khoán: Chiều 23/05, Chính phủ trình Ủy Ban Thường vụ Quốc hội Dự Luật thuế thu nhập cá nhân. Theo đó, lợi tức cổ phần, cổ phiếu thường, chênh lệch chuyển nhượng chứng khoán được xếp vào nhóm đối tượng chịu thuế. Ngay khi thông tin được công bố, các nhà đầu tư phản ứng khá mạnh và kết quả phiên giao dịch sáng 24/05 VN-Index giảm 2.5%. Đối với một thị trường còn non trẻ như Việt Nam thì đây quả là “cú đánh tâm lý” khá nặng nề và có thể nói bên cạnh sự điều chỉnh giảm tự nhiên sau đợt tăng khá nhiều thì Dự Luật thuế thu nhập cá nhân là nguyên nhân mở màn cho đợt giảm giá mạnh kéo dài hơn 1 năm qua (từ 24/05/2007 đến nay). Khống chế mức cho vay đầu tư chứng khoán: Lo ngại trước nguy cơ bùng nổ của quả bóng thị trường, Chính phủ ban hành Chỉ thị 03 để khống chế mức cho vay đầu tư chứng khoán vào ngày 28/05/2007. Theo đó, các Ngân Hàng Thương Mại không được phép cho vay với mục đích đầu tư chứng khoán vượt quá 3% trên tổng dư nợ của mình. Với thị trường còn chứa đựng tâm lý đám đông và niềm tin là chủ yếu thì Chỉ thị 03 như chặn đứng dòng lưu thông tiền tệ của họ, các nhà đầu tư hoang mang và phản ứng mạnh mẽ. Tâm trạng lo lắng và thất vọng khiến họ bán ra mạnh cổ phần đang nắm giữ. Hậu quả của 2 sự kiện trên là VN-Index giảm xuống đáy với 883.9 điểm (giảm 201,4 điểm, tương đương 18,56%). Sau đó, VN-Index còn có một đợt tăng lên 1.106,6 điểm vào ngày 03/10/2007 trước khi kết thúc năm ở 927,02 điểm. Tháng 09/2007, sự kiện FED cắt giảm lãi suất 0.5% đã không chỉ thúc đẩy chứng khoán thế giới mà có cả Việt Nam. Niềm tin vào thị trường được củng cố, tâm lý nhà đầu tư lạc quan hơn cùng với những dự báo khả quan cũng như tín hiệu đẩy mạnh mua vào của khối nhà đầu tư nước ngoài khiến các nhà đầu tư trong nước yên tâm hơn trong giao dịch và xuất hiện hiện tượng tranh mua để đón đầu xu hướng. Nổi bật nhất và gây chấn động đầu tiên phải kể đến sự thăng hoa của hàng loạt cổ phiếu ngành ngân hàng sau khi có những báo cáo tốt về triển vọng ngành ngân hàng. Nhưng cổ phiếu ngành ngân hàng mới chỉ là ngòi nổ, cơn địa chấn lần này được tạo ra với sự góp sức của những cổ phiếu mới niêm yết. Biểu hiện rõ nét nhất là sự xuất hiện nhiều hàng hóa mới có sức hấp dẫn cao đối với các nhà đầu tư như Vincom (VIC), Petrosetco (PET) ở sản HOSE hay Xi măng Sài Sơn (SCJ) ở sàn Hà Nội, ... Điệp khúc “lên sàn – tăng giá” lặp đi lặp lại nhiều lần khiến cho cả thị trường đổ xô đi săn lùng các nhóm cổ phiếu này. Các phiên phục hồi mạnh mẽ vào tháng 10 không cầm cự được lâu và yếu dần qua thời gian, chứng tỏ nhà đầu tư (đặc biệt là đầu tư ngắn hạn) có tâm lý lo ngại về khả năng giảm giá của cổ phiếu trên sàn trong thời gian tới. Trong khi lượng cầu cổ phiếu bị ảnh hưởng bởi án treo 03 đang đến gần thì các doanh nghiệp lại đua nhau tăng cung khiến chênh lệch cung cầu ngày càng lớn. Mặc dù việc tăng cung là phù hợp với từng giai đoạn nhưng sẽ có tác dụng ngược trong giai đoạn điều chỉnh như hiện nay, khi mà các nhà đầu tư đã trở nên “ngán ngẩm” và có cảm giác “khó tiêu” với lượng cung quá lớn. Bỏ qua các giai đoạn thăng trầm của thị trường thì nhìn chung năm 2007, thị trường chứng khoán Việt Nam cũng đạt được khá nhiều thành tựu:  Nhà đầu tư nước ngoài hiện đang nắm giữ từ 25% – 30% cổ phần của các doanh nghiệp niêm yết, và chiếm khoảng 18% giao dịch toàn thị trường. Giá trị danh mục đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chính thức ước đạt 7,6 tỷ USD tăng gấp 3 lần so với năm 2006. Bảng 2.5: Quy mô niêm yết tại HOSE Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ quỹ Trái phiếu Tổng số CK niêm yết 528,00 150,00 3,00 375,00 Tỉ trọng (%) 100,00 28,41 0,57 71,02 KL niêm yết (ngàn CK) 5.110.319,44 4.477.359,56 71.409,63 561.550,25 Tỉ trọng (%) 100,00 87,61 1,40 10,99 GT niêm yết (triệu đồng) 101.345.715,88 44.773.595,58 714.095,30 55.858.025,00 Tỉ trọng (%) 100,00 44,18 0,70 55,12  Kết thúc năm 2007 có 849 công ty đại chúng, 59 công ty được cấp phép niêm yết và đăng ký giao dịch, trong đó trên sở GDCK TP.HCM là 32 công ty và 1 chứng chỉ quỹ, trên trung tâm GDCK Hà Nội là 27 công ty, đưa tổng số công ty trên sàn lên 253. Ngành nghề hoạt động của các công ty tương đối đa dạng, tuy nhiên tỷ trọng lớn vẫn chủ yếu ở các lĩnh vực sản xuất nói chung, xây dựng – bất động sản, thương mại, vận tải – kho bãi. Ngành dịch vụ nhìn chung còn rất mờ nhạt trên sán chứng khoán.  UBCK Nhà nước đã chấp thuận đăng ký chào bán ra công chúng hơn 2.68 tỷ cổ phiếu của 192 công ty, tương ứng khoảng 50 nghìn tỷ đồng; 3.968 triệu trái phiếu qương ứng với 4.250 tỷ đồng cho 4 Ngân hàng thương mại cổ phần; 35 triệu chứng chỉ quỹ tương ứng với 350 tỷ đồng cho Quỹ tăng trưởng Manulife, Quỹ VF4. Tính chung cả hoạt động phát hành, đấu giá trên thị trường chính thức đạt gần 100.000 tỷ đồng (gấp 3 lần so với năm 2006). Còn đối với hoạt động đấu thầu trái phiếu, trong năm qua TTGDCK Hà Nội đã thực hiện 44 đợt với tổng số tiền thanh toán là trên 18.000 tỷ đồng. Hình 2.6: Hình 2.7:  Khung pháp lý cho cổ phần hóa được cải thiện rõ rệt trong năm 2007 với cột mốc quan trọng là Nghị định 109 ban hành ngày 26/06/2007 của Chính phủ về chuyển đổi doanh nghiệp Nhà nước thành công ty cổ phần. Nghị định này đã khơi thông nhiều vấn đề tồn tại của Nghị định 187 về cổ phần hóa. Điểm quan trọng thứ 2 là Thông tư 134 quy định cổ phần hóa được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh từ doanh nghiệp ngày 21/03/2007 sẽ không được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp. Quyết định này có thể là một cú sốc với các doanh nghiệp vốn đã quen với việc được nâng đỡ nhưng về lâu dài sẽ giúp các doanh nghiệp tự chủ hơn trong kinh doanh. Đây là hai thay đổi lớn trong chính sách cổ phần hóa của Nhà nước và được dự báo sẽ có tác động đáng kể đến tiến trình cải cách doanh nghiệp Nhà nước. Nhận xét:  Điểm nổi bật của thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua chính là tâm lý của nhà đầu tư. Chính tâm lý bầy đàn này là lực tác động mạnh nhất vào thị trường, nó có thể đưa VN-Index đạt đỉnh nhưng cũng có thể kéo VN- Index xuống đáy.  Quy mô TTCK của Việt Nam vẫn còn nhỏ so với các nước, chỉ chiếm 31% GDP (cập nhật đến ngày 01/10/2007), trong khi mức bình quân của các quốc gia trong khu vực khoảng 40% GDP.  Hệ thống các tổ chức trung gian và hỗ trợ thị trường còn nhiều hạn chế về năng lực tài chính. Mặc dù các Công ty chứng khoán đã phát hành thêm cổ phiếu, trái phiếu để tăng quy mô vốn hoạt động hoặc tăng vốn điều lệ từ các chủ sở hữu vốn (đối với Công ty chứng khoán trực thuộc các Ngân hàng thương mại) nhưng nhìn chung, mức vốn điều lệ vẫn rất thấp so với các nước trong khu vực, điều này làm ảnh hưởng đến khả năng tham gia thị trường của các công ty trong vai trò tạo lập thị trường, hoặc hạn chế năng lực khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành.  Số lượng tài khoản đầu tư gia tăng nhanh, nhưng phần lớn tập trung vào tài khoản cá nhân, mua bán cổ phiếu ngắn hạn và bị chi phối rất lớn từ các nhà đầu tư lớn trên thị trường do thiếu kỹ năng phân tích đầu tư. Một số loại hình tổ chức như công ty quản lý quỹ, quỹ đầu tư đã hình thành nhưng chưa nhiều, tỷ trọng tham gia đầu tư của các tổ chức đầu tư chuyên nghiệp (ngân hàng, bảo hiểm, quỹ đầu tư) còn hạn chế, chiếm khoảng 20% thị phần. Một số nhà đầu tư lớn nước ngoài mở tài khoản giao dịch nhưng chưa tham gia vào đầu tư (JP Morgan, Merryll Lynch…), các quỹ đầu tư nước ngoài tham gia thị trường trong nước thông qua các tài khoản uỷ thác cá nhân và đầu tư tập trung vào cổ phiếu của các doanh nghiệp cổ phần hóa, chưa tham gia đầu tư nhiều trên TTGDCK và Sở GDCK.  Công tác quản lý, giám sát các hoạt động và tuân thủ pháp luật trên TTCK bước đầu đã đi vào nề nếp, nhưng vẫn còn nhiều bất cập. Đặc biệt, trước những diễn biến mới của thị trường, đòi hỏi công tác quản lý, giám sát phải chuyên sâu và có phương tiện giám sát hiện đại (phần mềm giám sát) chứ không thuần tuý giám sát thông qua báo cáo để nắm tình hình, thông tin. 2.1.2. Thị trường OTC và các đợt IPO trong thời gian vừa qua: Nhìn lại toàn cảnh thị trường OTC quí I/2008 trên cơ sở phân tích TTCK niêm yết, từ đó khuyến nghị cần có quy hoạch lại thị trường OTC để có thể giảm thiểu rủi ro không đáng có cho nhà đầu tư, để thị trường phát triển lành mạnh, trở thành kênh thu hút vốn tích cực cho các công ty và nền kinh tế. Đề án thành lập thị trường giao dịch những cổ phiếu chưa niêm yết (OTC) của sàn Hà Nội vừa được Uỷ ban Chứng khoán thông qua và đang được Bộ Tài chính xem xét và xin ý kiến của Thủ tướng Chính phủ. Dự kiến, tháng 6/2008 sẽ chính thức đưa 40 cổ phiếu của các công ty cổ phiếu đại chúng thuộc ngành tài chính, ngân hàng, bảo hiểm lên giao dịch. Theo đề án, tiêu chuẩn niêm yết tại thị trường OTC (còn gọi là thị trường đăng ký giao dịch) rất đơn giản, chỉ cần có dịch vụ quản lý số cổ đông tốt, nắm được tình hình cổ đông, đưa vào lưu ký nhanh và đưa vào hệ thống để sẵn sàng giao dịch. Biên độ điều chỉnh giá lên xuống sẽ là 20% và vẫn tuân thủ quy định T+3. Điểm khác biệt nhất so với thị trường niêm yết là các doanh nghiệp ở thị trường đăng ký giao dịch không cần gửi báo cáo tài chính quý mà chỉ cần gửi báo cáo tài chính năm được kiểm toán bởi công ty kiểm toán độc lập. Ảnh hưởng của Thị trường niêm yết tới Thị trường OTC Thị trường niêm yết giảm mạnh khiến thị trường OTC cũng lao dốc không biên độ, 60% các mã cổ phiếu OTC đóng băng hoàn toàn. Các mã cổ phiếu còn lại giao dịch rất ít nhưng giá rất thấp. Vào thời điểm cuối tháng 2, đầu tháng 3/2008, đã diễn ra một cuộc tháo chạy cổ phiếu OTC của các nhà đầu tư nhưng họ đã không thành công vì lượng dư bán gấp nhiều lần dư mua khiến cho hầu hết các giao dịch không thành công. Ngoài ra, việc IPO của những công ty lớn ào ạt diễn ra như: VCB, SABECO, HABECO, đã khiến thị trường OTC mất cân đối, cung vượt cầu trong khi lượng tiền mặt thì ngày càng khan hiếm và nhà đầu tư có các lựa chọn hấp dẫn khác: Vàng, bất động sản, ngoại tệ… làm cho thị trường OTC càng thê thảm. Một số mã cổ phiếu ngân hàng như: MB, ABB, MSB, VPB… vào cuối năm 2006, đầu năm 2007 được “thổi lên” và được đánh giá là các cổ phiếu có tiềm năng, hơn cả cổ phiếu niêm yết vì cứ đầu tư là có lãi đến vài chục phần trăm ngay, nhưng giờ đây sắp trở về với mệnh giá, giá mua bán hiện chỉ là 1x và 2x. Các mã cổ phiếu khác về bất động sản và khoáng sản thì báo cáo tài chính đầu năm 2008 còn tốt hơn năm 2007 nhưng không hiểu tại sao mà giá trị cổ phiếu lại giảm xuống chưa bằng ½ giá trị năm 2007. Bảng 2.8: Phân loại và thống kê một số ngành trên thị trường OTC tính đến 4/2008 Ngành Số lượng công ty Bất động sản 98 Bưu chính viễn thông 25 Chế biến – Đồ uống 63 Chế tạo – Luyện kim 34 Chứng khoán 41 Cơ khí – Lắp máy 60 Công nghệ 38 Dầu mỏ - khai khoáng 55 Đầu tư 49 Dệt may – da giầy 76 Dịch vụ - cung ứng 42 Điện – điện tử - điện lạnh 41 Du lịch – Khách sạn 51 Dược Phẩm – Mỹ phẩm 51 Gạch – Gốm sứ 51 Giáo dục – đào tạo 33 Giao thông – Vận tải 34 Giấy – Bao bì 63 Theo thống kê của sàn OTC, tính đến 14/4/2008, sàn này có tổng cộng 1626 công ty (được phân loại hơn 42 ngành), cho thấy đây là lượng cung rất lớn cho TTCK Việt Nam. Nhìn lại trước đó, theo kết quả điều tra của Tổng cục Thống kê về thực trạng doanh nghiệp, tính đến cuối năm 2002, cả nước có 2.829 công ty cổ phần. Trong đó 557 công ty nhà nước được cổ phần hoá, 2.272 công ty cổ phần không có vốn nhà nước. Tổng vốn tự có của các doanh nghiệp này là 20.937 tỷ đồng, gấp 20 lần tổng vốn điều lệ và 10 lần vốn hoá của các công ty niên yết tại thời điểm đó. Tính đến thời điểm tháng 6 năm 2005, cả nước có gần 2.000 doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá và trên 3000 công ty cổ phần. Tổng vốn điều lệ của các công ty này cao hơn rất nhiều lần khối lượng vốn hoá trên thị trường chính thức. Đây chính là nguồn cung của thị trường OTC, nói theo cách của một số người thì: thị trường OTC ở Việt Nam rất tiềm năng. Một lượng lớn các công ty đang trong quá trình cổ phần hóa, đồng thời rất nhiều doanh nghiệp đang chờ niêm yết có tiềm lực tài chính lớn và kinh doanh hiệu quả. Do đó, việc so sánh với tiêu chuẩn niêm yết như hiện nay là khá thấp khiến cho việc nâng cao tiêu chuẩn niêm yết càng trở nên quan trọng hơn (đặc biệt cho sàn HOSE) để nâng cao uy tín, thương hiệu cho TTCK Việt Nam. Khi một TTCK phát triển, có uy tín sẽ tạo được lòng tin và thu hút được lượng vốn đầu tư lớn trong nước và nước ngoài. Tuy nhiên, các công ty đang niêm yết trên TTCK Việt Nam cũng chưa phải là những công ty hàng đầu trong nền kinh tế, chưa có mức đóng góp quan trọng cho nền kinh tế nên chất lượng của TTCK Việt Nam được đánh giá chưa cao so với một số nước trong khu vực và thế giới. IPO và đánh giá: Theo thống kê của Ủy ban chứng khoán nhà nước (UBCKNN), năm 2007 đã có đến 179 công ty được cấp phép chào bán cổ phiếu, 3 ngân hàng phát hành trái phiếu, 1 chứng chỉ quỹ của Manulife. Tổng giá trị huy động được khoảng 90.000 tỷ đồng. Nhìn vào con số này quả thật là một sự thành công cho các doanh nghiệp Việt Nam trong vấn đề huy động vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư. Trong năm 2007 có khoảng 56 công ty mới niêm yết (trong đó 24 công ty niêm yết ở HASTC và 32 công ty niêm yết ở HOSE), cũng có nghĩa là có đến 56 hồ sơ cáo bạch được đệ trình lên hội đồng xét duyệt. Tính trung bình thì khoảng 2 ngày phê duyệt một hồ sơ phát hành và 1,5 ngày cho một hồ sơ phát hành và niêm yết. Một hồ sơ phát hành phải công bố ra thị trường trước 20 ngày để các nhà đầu tư nghiên cứu trong khi đó chỉ có 2 ngày cho hội đồng xét duyệt đọc và thẩm tra. Ở đây chúng ta chưa nói đến một thời gian dài trong năm thị trường ảm đạm rất ít doanh nghiệp phát hành và niêm yết. Việc phát hành và niêm yết thường dồn dập vào những thời điểm khởi sắc của thị trường, nên những lúc cao điểm thì số ngày đọc hồ sơ cũng chưa đến 2 ngày. Điều này cho thấy một “nỗ lực” trong việc quản lý và điều hành TTCK của UBCK. Có thể nói, năm 2007 là năm quản lý tất bật của UBCKNN nên họ không đủ thời gian để hoạch định chiến lược phát triển bền vững TTCK trong tương lai là điều hiển nhiên. Theo điều 12 Luật chứng khoán quy định về điều kiện bán chứng khoán ra công chúng của các tổ chức phát hành đều phải có phương án phát hành, phương án đầu tư (đối với quỹ đầu tư) phương án sử dụng và trả nợ vốn thu được (đối với việc phát hành trái phiếu). Nếu điều kiện 2 năm liền trước năm phát hành có lợi nhuận và không có lỗ lũy kế đến năm phát hành là điều kiện mà một doanh nghiệp nào muốn tham gia thì tự mình vượt qua rào cản này. Còn điều kiện về phương án phát hành và sử dụng vốn quả thật là một tiêu chuẩn khó vượt qua trong vấn đề xét duyệt. Bởi lẽ nó không có một tiêu chuẩn nào trong việc xét duyệt. Khó có sự đồng thuận trong việc xác định thế nào là phương án phát hành tối ưu, phương án sử dụng vốn có hiệu quả giữa tổ chức phát hành và UBCKNN. Thêm nữa, việc xét duyệt còn khó khăn hơn đối với mức giá tham chiếu cho việc phát hành và niêm yết lần đầu. Trong điều kiện “bận rộn” như trên, liệu rằng có sự “xuề xòa” trong việc xét duyệt các tiêu chuẩn trên hay không? Quả thật đây là một câu hỏi còn bỏ ngỏ trong việc thẩm tra chất lượng xét duyệt và hoạch định chiến lược phát triển thị trường của UBCKNN. Những ai tham gia thị trường đều canh cánh bên mình những hoài nghi. Tiếp bước năm 2007, năm 2008 dự kiến hoạt động IPO của các đại gia trong nền kinh tế được đẩy mạnh. Khi thị trường sẽ có nhiều hàng hóa hơn. Điều đó cũng có nghĩa là thị trường sẽ tràn ngập các cơ hội đầu tư trong khi việc đẩy mạnh thu hút dòng vốn vào thị trường lại chưa được đẩy mạnh. Kinh nghiệm từ Trung Quốc cho thấy, chính sự ăn nên làm ra của các quỹ đầu tư là lý do chính cho việc thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài. Vậy liệu rằng trong năm 2007 trước tình hình thị trường không thuận lợi cho những nhà đầu cơ thì việc ăn nên làm ra của các quỹ có khởi sắc không? Điều này cho thấy, nếu không có các giải pháp mạnh trong việc thu hút dòng vốn gián tiếp thì khó có thể nói TTCK Việt Nam năm 2008 sẽ khởi sắc. Trước tình hình lạm phát leo thang, chính sách tiền tệ thắt chặt, khả năng nới lỏng chỉ thị 03 khó thực thi thì việc tăng cung càng đẩy thị trường trong năm mới chẳng gì mới hơn năm cũ. Việc đẩy mạnh thu hút dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài sẽ đẩy lượng tiền trong lưu thông trở nên nhiều hơn, áp lực lạm phát sẽ gia tăng nếu không có một chính sách tỷ giá linh hoạt. Lạm phát gia tăng, chính sách tiền tệ tiếp tục thắt chặt điều này được chỉ ra trong lý thuyết “bộ ba bất khả thi” của Robert Mundel, do đó các nhà đầu tư trong nước tiếp tục gánh lấy thất bại trong đầu tư. Vậy, liệu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfBai hoan chinh.pdf
  • pdfphu luc.pdf
Tài liệu liên quan