Lời mở đầu 3
Nội dung 4
Chương I: Xuất khẩu dệt may sang Mỹ, vừa làm vừa đếm! 4
I. Các rào cản Hoa Kỳ áp dụng nhằm hạn chế xuất khẩu đối với hàng dệt may Việt Nam 4
1.Hạn ngạch và thuế quan nhập khẩu 4
2. Các quy định cuả hải quan Hoa Kỳ 4
2.1> Những quy định về các sản phẩm dệt 4
2.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền 4
3.Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier) 5
4.Sự giám sát chặt chẽ trong việc chống bán phá giá hàng dệt may của chính phủ Hoa Kỳ 5
II. Ảnh hưởng của các rào cản này tới tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ 5
Chương II: Phân tích tình huống 7
I. Cơ sở lý luận của hoạt động xuất khẩu 7
II. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời
gian qua dưới sức ép của những rào cản 8
1. Đặc điểm và vai trò của ngành dệt may Việt Nam 8
1.1>Đặc điểm của ngành dệt may Việt Nam 8
1.2>Vai trò của ngành dệt may Việt Nam 8
2.Phân tích các rào cản của Hoa Kỳ áp dụng đối với hoạt động xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam 8
2.1>Hạn ngạch nhập khẩu 8
2.2>Các quy định của hải quan Mỹ 10
2.3>Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier) 12
2.4>Sự giám sát chặt chẽ chống bán phá giá hàng dệt may của chính phủ Hoa Kỳ 17
3. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua 18
3.1>Giới thiệu sơ bộ về thị trường Mỹ 18
2.2>Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua 19
Chương III: Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ 24
I. Về phía nhà nước 24
1. Chính sách bảo hộ sản xuất trong nước 24
2. Điều chỉnh chính sách thuế 24
3. Thành lập các tổ chức tư vấn về các lĩnh vực có liên quan đến xuất khẩu dệt may Việt Nam 25
4. Chính sách hỗ trợ về vốn 25
5. Chính sách pháp luật 25
6. Một số chính sách khác 25
II. Về phía doanh nghiệp 26
1. Xây dựng thương hiệu mạnh 26
2. Marketing 26
3. Tìm kiếm và phát triển thị trường 26
4. Nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ 27
5. Thực hiện chính sách liên doanh với nước ngoài 27
6. Chính sách giá hợp lý 27
7. Giảm tính chất gia công trong sản xuất dệt may 27
8. Một số chính sách khác 28
Kết Luận 29
Tài liệu tham khảo 30
34 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3990 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Hoa Kỳ - Những rào cản thương mại khó tránh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à do,các doanh nghiệp dệt may vừa và nhỏ của Việt Nam có lượng vốn thấp,ít kinh nghiệm cạnh tranh trên thị trường quốc tế,nên chưa kịp thu lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ thì đã bị những khó khăn về thuế nhập khẩu quá cao,hạn ngạch nhập khẩu thì quá chặt chẽ đánh gục.
2.2>Các quy định của hải quan Mỹ
2.2.1>Những quy định về những sản phẩm là hàng dệt
Các sản phẩm sợi dệt nhập khẩu phi có tem, mark, mã theo quy định tại "Texxtile Fiber Products Identification Act", trừ khi được miễn trừ theo như điều khoản 12 của luật này:
- Tên và tỷ lệ trọng lượng của các thành phần sợi lớn hơn 5% trong sản phẩm, các thành phần sợi nhỏ hơn 5% được ghi là "các sợi khác".
- Tên hãng sản xuất và tên hoặc số đăng ký do Federal Trade Commission (FTC) cấp, của một hoặc nhiều người bán các sản phẩm sợi này. Tên nhãn hiệu đã được đăng ký tại Mỹ có thể được ghi trên nhãn mark, nếu nhãn mark này được gửi đến FTC.
- Tên của nước nơi đã gia công hoặc sản xuất.
Chính vì những quy định khắt khe này nên các doanh nghiệp Việt Nam đôi khi vì thiếu hiểu biết,hay ít cập nhật thông tin,hoặc do đơn đặt hàng của các đối tác Hoa Kỳ không yêu cầu rõ ràng về mẫu mã,bao gói của sản phẩm,dẫn đến hàng loạt các sản phẩm dệt may của Việt Nam bị hải quan Mỹ trả về.Và người chịu mọi thiệt thòi ở đây không ai khác chính là các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Đây cũng là những hiện tượng thường thấy,khi các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu các sản phẩm nói chung và hàng dệt may nói riêng sang thị trường Hoa Kỳ.
2.2.2>Quy định về thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền
Hàng hoá mang nhãn hiệu giả hoặc sao chép, bắt chước một nhãn hiệu đã đăng ký bản quyền của một công ty Mỹ hoặc nước ngoài, sẽ bị cấm nhập khẩu vào Mỹ. Một bản sao đăng ký nhãn hiệu ở Mỹ sẽ phảii nộp cho Uỷ ban Hải quan và được lưu giữ theo quy định.
Cục Hải quan Mỹ cũng có những quy định tương tự đối với các chuyến hàng mang các tên thương mại trái phép. Các thương hiệu phải được đăng ký tại Hải quan theo quy định.
Việc nhập khẩu hàng hoá có nhãn hiệu thương mại gốc thuộc sở hữu của một công dân hoặc một công ty Mỹ bị coi là trái phép nếu không được sự đồng ý của người chủ sở hữu nhãn hiệu đó. Hoặc không phải là công ty chính hay chi nhánh của công ty đó, hoặc có chung quyền sở hữu nhãn hiệu đó, tuy nhiên nhãn hiệu này, phải được đăng ký với Hải quan.
"Nhãn hiệu giả" là một nhãn hiệu giống hệt hoặc gần giống hệt với một nhãn hiệu đã đăng ký. Hàng nhập khẩu có nhãn hiệu giả sẽ bị tịch thu sung công quỹ liên bang hoặc chính quyền địa phương, hoặc chuyển cho các cơ quan từ thiện, hoặc bán đấu giá nếu trong vòng một năm không có cơ quan nào cần sử dụng. Tuy nhiên, luật pháp cũng châm chước cho một số mặt hàng nhất định đi theo người vào Mỹ là hàng cá nhân sử dụng, không phải hàng để bán.
Phần 602 (a) thuộc Copyright Act năm 1976 quy định rằng nhập khẩu vào Mỹ các bản sao chép từ nước ngoài mà không được phép của người có bản quyền và vi phạm luật bản quyền sẽ bị bắt giữ và tịch thu,các bản sao sẽ bị huỷ.Tuy nhiên các hàng hoá này có thể được trả lại nước xuất khẩu nếu chứng minh thích đáng cho cơ quan hải quan là hàng không phải cố tình vi phạm. Các chủ sở hữu bản quyền muốn được cơ quan hải quan Mỹ (US Custom Service) bảo vệ quyền phải tới văn phòng bản quyền (US copyright Offfice) và đăng ký với hải quan theo các quy định hiện hành.
Hiện nay,khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của WTO thì những vấn đề liên quan đến thương hiệu,nhãn hiệu và bản quyền mới được các doanh nghiệp quan tâm đến một cách nghiêm túc.
Tuy nhiên,sự chú ý này chỉ thường diễn ra ở các doanh nghiệp lớn có thị trường xuất khẩu rộng.Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam những hiểu biết về thương hiệu,về bản quyền vẫn còn là một khái niệm khó hiểu và vẫn còn rất xa vời.Chính những nhận thức sai lệch,chủ quan đó mà các doanh nghiệp dệt may Việt Nam vẫn thường xuyên phải gánh chịu những thiệt thòi không đáng có.
Rất nhiều các sản phẩm dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ dưới một cái tên rất Việt Nam.Nhưng khi các sản phẩm ấy được bày bán trên thị trường lại dưới một cái tên khác hoàn toàn.Như vậy trong trường hợp này phía Việt Nam sẽ đương nhiên phải chấp nhận cái danh là nhà gia công,chứ không còn là người sản xuất và cung ứng chính thức của mặt hàng này.
Nếu các doanh nghiệp Việt Nam muốn lấy lại thương hiệu đó thì trước hết phải được sự chấp nhận của phía doanh nghiệp Mỹ.Đương nhiên,sau đó phải kèm sẽ theo là một khoản tiền không nhỏ.Những cái mất không đáng mất ấy đôi khi cũng khiến nhiều doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải nhiều phen khốn đốn.
2.3>Tiêu chuẩn xanh - sạch (Greentrade Barrier)
Bất kỳ một quá trình sản xuất công nghiệp nào đều phát sinh chất thải và gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng tới sức khoẻ cộng đồng. Mức độ phát thải, về lượng cũng như mức độ ô nhiễm của một quá trình sản xuất phụ thuộc vào nhiều yếu tố như chất lượng nguyên liệu đầu vào, quản lý sản xuất, công nghệ, thiết bị, mức độ tận dụng và tái sử dụng chất thải…
Từ trước những năm 1980, cách tiếp cận và ứng phó với các vấn đề ô nhiễm theo hướng chính “kiểm soát ô nhiễm" hay còn gọi là “phản ứng và xử lý”. Trên thực tế mọi giải pháp xử lý chất thải trên được thực hiện sau khi đã có chất thải, là hình thức chuyển trạng thái ô nhiễm từ dạng này sang dạng khác sao cho giảm về lượng cũng như mức độ ô nhiễm và độc hại. Các công nghệ kiểm soát ô nhiễm (các nhà máy xử lý nước thải, thiết bị xử lý khí thải như lọc ướt, cyclon lọc bụi, lò đốt, bãi chôn lấp) được triển khai ở các nhà máy.
Trong vòng những năm 80 trở lại đây, “sản xuất sạch hơn” được áp dụng rộng rãi ở các nước trên thế giới với mục đích giảm phát thải vào môi trường tại nguồn trong các quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn là cách tiếp cận chủ động, theo hướng “dự đoán và phòng ngừa” ô nhiễm từ chất thải phát sinh trong các hoạt động sản xuất công nghiệp.
Ở nước ta, sản xuất sạch hơn được đưa vào áp dụng từ năm 1996 và triển khai từ năm 1998 tập trung ở một số ngành công nghiệp như giấy, dệt - nhuộm, thực phẩm (chế biến thuỷ sản và bia), vật liệu xây dựng và gia công kim loại với trên 130 doanh nghiệp thuộc 28 tỉnh và thành phố và bước đầu mang lại những lợi ích kinh tế và môi trường thông qua tiết kiệm nguyên liệu, năng lượng, hoá chất, nước, giảm thiểu chất thải trong sản xuất
Thực chất, tiêu chuẩn Greentrade Barrier - tiêu chuẩn thương mại “xanh”, cũng chính là một rào cản thương mại xanh. Rào cản thương mại xanh được áp dụng đối với hàng may mặc là đòi hỏi các sản phẩm phải đáp ứng được các tiêu chuẩn sinh thái quy định, an toàn về sức khỏe đối với người sử dụng, không gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, bắt buộc các nhà xuất khẩu phải tuân thủ. Một liên hệ thực tế, tình trạng trên đã xảy ra đối với hàng dệt may của Trung Quốc, thì tất yếu sẽ xảy ra đối với ngành Dệt May của Việt Nam và các nước châu Á khác. Như vậy là, trong cuộc cạnh tranh quyết liệt sau khi hạn ngạch dệt may được rỡ bỏ và một số tiêu chuẩn được các thị trường EU, Mỹ, Nhật... áp dụng, thì rào cản thương mại “xanh” là một thách thức, trở ngại lớn đối với tất cả các nước xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường nói trên.
Đối với quá trình sản xuất, sản xuất sạch hơn bao gồm giảm tiêu thụ nguyên liệu, năng lượng cho 1 đơn vị sản phẩm, loại bỏ tối đa các vật liệu độc hại, giảm lượng và mức độ độc hại của tất cả các dòng thải trước khi ra khỏi quá trình. Đối với sản phẩm, sản xuất sạch hơn tập trung làm giảm các tác động tới môi trường trong suốt vòng đời của sản phẩm kể từ khi khai thác nguyên liệu thô đến khi thải bỏ cuối cùng. sản xuất sạch hơn yêu cầu từng bước cải tiến công nghệ hiện có và dần thay thế bằng những công nghệ tốt và công nghệ sạch.
Có thể nói con số 130 doanh nghiệp triển khai sản xuất sạch hơn là quá nhỏ so với số doanh nghiệp hiện có trong cả nước.Trong khi ấy, tiềm năng sản xuất sạch hơn trong công nghiệp Việt Nam là rất lớn và tiềm năng giảm lượng chất thải và chất ô nhiễm môi trường cũng rất cao: tiết kiệm điện năng 20 – 50%, tiết kiệm nước 40 – 70%, giảm hiệu ứng nhà kính 20 – 25%, giảm các chất độc hại tạo thành chất thải nguy hiểm 50 – 100%…
Một thực tế đặt ra đối với ngành Dệt May Việt Nam là cho đến nay, việc sản xuất các sản phẩm “xanh” chưa được quan tâm áp dụng đúng mức. Một số nhà quản lý, điều hành doanh nghiệp còn chưa được trang bị kiến thức hoặc hiểu biết còn hạn chế về những yêu cầu “xanh” đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Ngoài ra, phần lớn các công ty, xí nghiệp trong dây chuyền nhuộm-hoàn tất vẫn còn sử dụng một số hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm và các hóa chất gây ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, sức khỏe người lao động và thậm chí đến cả người sử dụng sản phẩm. Có thể nêu lên vài ví dụ nổi bật sau. Trong hồ sợi, ngày càng sử dụng nhiều hóa chất độc hại đến nguồn nước, làm tăng tải lượng COD (nhu cầu oxy hóa học) trong nước thải khó xử lý vi sinh. Nước thải rũ hồ thông thường chứa 4000-8000 mg/l COD. Kỹ thuật “giảm trọng” polieste bông kiềm được áp dụng phổ biến làm sản sinh một lượng lớn terephtalat và glycol trong nước thải sau sử dụng 5-6 lần, đưa COD có thể lên tới 80.000 mg/l. Trong thành phần nước thải của các công ty, nhà máy dệt-nhuộm hiện nay, có khoảng 300-400 mg/l COD (đã vượt tiêu chuẩn nước thải loại B 3-4 lần) dự đoán sẽ tăng lên mức 700-800 mg/l và có thể còn tăng hơn nữa trong tương lai.
Để giải quyết được tình trạng trên, đòi hỏi trước tiên vẫn là ý thức của nhà sản xuất trong việc thực hiện các tiêu chuẩn về vệ sinh xanh sạch trong sản xuất. Các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu cần rà soát một cách kỹ lưỡng, cẩn thận những hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm đang sử dụng (bao gồm cả hàng nhập khẩu và sản xuất trong nước), phải biết rõ nguồn gốc, xuất xứ của chúng và cần có “hồ sơ” của từng loại hóa chất, chất trợ, từng mẫu thuốc nhuộm. Đó là “Phiếu các số liệu an toàn” (safety data sheets) mà các hãng sản xuất hóa chất, thuốc nhuộm đều có. Thay thế vào đó là những hóa chất , chất phụ trợ thân thiện với môi trường, các thuốc nhuộm biết rõ nguồn gốc xuất xứ, chất lượng tốt, loại mới, không độc hại và ít ô nhiễm môi trường. Song song với hóa chất, chất phụ trợ, thuốc nhuộm (dùng cả trong nhuộm và in hoa) là công nghệ áp dụng và máy móc thiết bị tương ứng.
Mặc dù, trong một vài năm gần đây, trong chiến lược tăng tốc, nâng cao chất lượng hàng dệt may, tạo vị thế cạnh tranh trên thị trường quốc tế, ngành dệt may nước ta đã chú trọng đáng kể đầu tư vào khâu nhuộm-hoàn tất. Nhiều loại máy móc, thiết bị tốt, mới, hiện đại đã được đầu tư có chiều sâu, như các máy văng sấy Monforts, máy nhuộm liên tục Monforts ở Công ty Dệt Việt Thắng; các máy in lưới quay Stork, máy in lưới phẳng Buser ở hai Công ty Dệt May Thắng Lợi và Dệt 8/3; các máy nhuộm khí động lực” (Air-Jet) do được chế tạo ở Dệt kim Đông Xuân và Dệt 8/3; máy làm bóng trục mới của Công ty Dệt Nam Định, hệ thống máy xử lý trước - xử lý hoàn tất vải pha len của Công ty Dệt lụa Nam Định và Công ty 28 (Bộ Quốc phòng).
Song nhìn một cách tổng thể, phần lớn ngành nhuộm-in hoa-xử lý hoàn tất của các sản phẩm dệt may Việt Nam vẫn còn đang áp dụng các công nghệ và máy móc thiết bị cũ, lạc hậu, theo lối thủ công -“truyền thống”. Do đó, năng suất chưa cao, chất lượng chưa thật tốt và sử dụng nhiều hóa chất, thuốc nhuộm, tốn nhiều nước và năng lượng, giá thành cao đã làm giảm tính cạnh tranh trên thương trường. Đồng thời, còn để lại hậu quả là lượng nước thải nhiều và bị ô nhiễm nặng nề đến môi trường, gây rất tốn kém về tiền của khi phải xử lý nước thải.
Để phát triển bền vững, tăng trưởng mạnh, tạo sức mạnh cạnh tranh với các nước xuất khẩu hàng dệt may trên thị trường rộng lớn và “khó tính” như: Mỹ,đã đến lúc ngành dệt may Việt Nam cần chuyển mạnh từ các công nghệ và thiết bị truyền thống sang loại hình sản xuất “thân thiện với môi trường”, sản xuất sạch hơn, sử dụng hợp lý, tiết kiệm và đạt hiệu quả cao các hóa chất – chất phụ trợ, thuốc nhuộm, hơi, điện, nước với các máy móc thiết bị phù hợp, nhất là các loại mới tiên tiến, hiện đại...
Ngoài ra, các vấn đề tiêu chuẩn hàng hóa và môi trường cũng cần được ưu tiên lên hàng đầu trong chiến lược phát triển sản xuất kinh doanh không chỉ của doanh nghiệp mà phải phát động ra toàn ngành, trong tất cả các công đoạn của quá trình sản xuất. Căn cứ vào các tiêu chuẩn và các yêu cầu sinh thái của hàng dệt may nhập khẩu vào các thị trường EU, Nhật Bản và Bắc Mỹ, ngành Dệt May Việt Nam cần xây dựng ngay những tiêu chuẩn cấp nhà nước, cấp Bộ, cấp ngành để làm cơ sở phấn đấu cho các doanh nghiệp xuất khẩu, để nâng cao uy tín và sức cạnh tranh của hàng hóa. Những tiêu chuẩn như thế sẽ tạo ra những sức ép “bên trong” nhằm tạo ra các sản phẩm “xanh” phù hợp. Việc làm này, nước láng giềng Trung Quốc bắt đầu đặc biệt quan tâm đến đầu tư chuyển hướng sản xuất gắn với bảo vệ môi trường sau hàng loạt các đơn hàng bị từ chối và phải bồi thường gây tốn kém.
Đối với ngành Dệt May Việt Nam, cho đến nay vấn đề này vẫn còn coi nhẹ, các doanh nghiệp vẫn còn thờ ơ với các tiêu chuẩn mà đối tác nhập khẩu đặt ra. Vấn đề chất thải gây ô nhiễm môi trường, ảnh hưởng đến sức khỏe cộng đồng và người tiêu dùng dường như không phải là công việc của các nhà sản xuất mà là của cơ quan môi trường. Theo phân tích của các chuyên gia, nhiều chất thải hóa học độc hại ngành Dệt-Nhuộm thải ra môi trường loại nước thải có những đặc tính riêng mà trong tiêu chuẩn về nước thải công nghiệp nói chung nước ta không đề cập đến...
2.4>Sự giám sát chặt chẽ chống bán phá giá hàng dệt may của chính phủ Hoa Kỳ
Trong những ngày gần đây, các doanh nghiệp và cơ quan quản lý đang đau đầu trước quyết định mới của phía Mỹ về việc sẽ theo dõi lượng hàng dệt may nhập khẩu từ VN và tiến hành điều tra nếu thấy có dấu hiệu bán phá giá.
Động thái này nhằm dỡ bỏ đề nghị ngừng đưa ra dự luật về Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với VN ra xem xét của hai Thượng Nghị sỹ Mỹ Elizabeth Dole và Lindsey Graham.Theo bình luận của Hiệp hội Dệt may thì “quy định này còn tệ hơn là áp dụng hạn ngạch”.
Nhưng theo ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội dệt may Việt Nam (VITAS) cho biết: Số liệu 6 tháng do phía Hoa Kỳ ghi nhận cho thấy, hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ không có đột biến về số lượng và giá bán. Đây là cơ sở để khẳng định: hàng dệt may không bán phá giá vào thị trường Hoa Kỳ.
Cụ thể, trong 6 tháng đầu năm 2007, tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành ước đạt 3.488 triệu USD, tăng 26,3% so với cùng kỳ, trong đó, theo số liệu của hải quan Mỹ, hàng dệt may Việt Nam nhập vào nước này đạt trị giá 1.973 triệu USD, tăng 20,7% so với cùng kỳ. Đơn giá bình quân của sản phẩm (giá 1m2 quy đổi khi nhập khẩu vào Mỹ) của 6 tháng qua cũng chỉ đạt 3 USD/m2, cao gấp 2 lần so với mức 1,5 USD/m2 từ Trung Quốc và mức 1,8 USD/m2 từ các thị trường còn lại trên thế giới nhập khẩu vào Mỹ. Điều này phản ánh rằng, doanh nghiệp Việt Nam không giảm giá để bán phá giá.
Vừa qua, Bộ Công thương Việt Nam đã có quyết định không cho tạm nhập tái xuất hàng để hạn chế tiêu cực về chuyển tải bất hợp pháp. Điều này chứng tỏ với phía Mỹ rằng, Việt Nam quản lý chặt và đúng đắn, để họ có thể yên tâm. Bộ Công thương cũng cho biết sẽ cùng với VITAS tăng cường tiếp cận mạnh hơn nữa với các giới chức Mỹ, với Bộ Thương mại Mỹ, nhất là trong chuyến thăm của Bộ trưởng Bộ Thương mại Mỹ dự kiến vào tháng 10 đây để tiếp tục vận động họ bỏ cơ chế giám sát, hoặc giảm số lượng nhóm giám sát… đối với hàng dệt may Việt Nam.
3. Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua
3.1>Giới thiệu sơ bộ về thị trường Mỹ
Hiện nay và trong nhiều thập kỷ qua, Mỹ vẫn là nước có nền kinh tế và có sức cạnh tranh lớn nhất thế giới. Đồng thời nước này cũng được coi là nước cung cấp vốn kỹ thuật, công nghệ và là thị trường quan trọng nhất để phát triển kinh tế của cả thế giới.
Năm 2002, Mỹ đầu tư ra nước ngoài gần 120 tỷ USD, xuất khẩu 1018, 6 tỷ USD và nhập khẩu từ thế giới 1507, 9 tỷ USD. Các sản phẩm xuất khẩu chính của Mỹ là máy móc thiết bị, ôtô, linh kiện, vật liệu công nghiệp, hàng tiêu dùng, nông sản. Các mặt hàng nhập khẩu chính gồm dầu thô và các sản phẩm dầu tinh chế, máy móc, ôtô, hàng tiêu dùng, vật liệu công nghiệp, thực phẩm và đồ uống.
Việt Nam và Mỹ bắt đầu đàm phán chính thức về bình thường hoá quan hệ vào năm 1991. Tháng 2/1994, Mỹ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam. Song song với quan hệ chính trị và ngoại giao, quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Mỹ cũng không ngừng phát triển. Sau khi Hiệp định thương mại Việt Nam – Mỹ có hiệu lực (12/2001), kim ngạch buôn bán giữa Việt Nam và Mỹ được phát triển nhảy vọt.
Năm 2003, Việt Nam được trở thành bạn hàng lớn thứ 40 của Mỹ (tính theo kim ngạch 2 chiều). Nếu tính riêng xuất khẩu vào Mỹ thì Việt Nam đứng thứ 35. Các mặt hàng chính của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ năm 2003 gồm : dệt may (56, 2%), thuỷ hải sản (16, 3%), giày dép (7, 2%)…
Mỹ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mỹ là 1 trong 3 nước thành lập ra “Khu vực mậu dịch tự do Bắc Mỹ” (NAFTA). Mỹ cũng ký hiệp định thương mại tự do song phương với một số nước, và dành ưu đãi thương mại đơn phương cho nhiều nước đang và chậm phát triển. Hiện nay, Mỹ có quan hệ buôn bán với 230 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Các bạn hàng chính của Mỹ là : Canada, Mêhicô, Trung Quốc, Nhật Bản, Đức, Anh, Hàn Quốc, Đài Loan, Pháp, Italia, Hà Lan, Singapore, Brazil, Việt Nam…
Mỹ là một thị trường với sức mua lớn và có nhiều tiềm năng. Chính vì vậy, Việt Nam cần phải có những biện pháp cụ thể để tăng kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ trong thời gian tới.
2.2>Thực trạng xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang Mỹ thời gian qua
2.2.1>Cơ cấu và tỷ trọng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ
Mỹ luôn đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng dệt may. Nếu gộp các loại hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ thì kim ngạch loại hàng này đạt 60 tỷ USD chiếm 4, 5% kim ngạch xuất khẩu vào Mỹ. Mỗi năm dân Mỹ tiêu thụ khoảng 90 tỷ USD hàng may mặc các loại. Trong đó, gần 50% được đáp ứng từ các mặt hàng mang tính phổ thông đến các mặt hàng cao cấp.
Nhưng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của Việt Nam ở các năm trước chưa cao. Năm 1995, giá trị hàng dệt may sang Mỹ chỉ đạt 16, 867 triệu USD chiếm tỷ trọng 8, 47%. Các năm tiếp theo : năm 1996 là 19, 74 triệu USD (6, 4%), năm 1997 đạt 20 triệu USD (5, 3%), năm 1998 đạt 26, 34 triệu USD (5, 07%), năm 1999 là 34, 5 triệu USD (5, 74%). Giá trị xuất khẩu tăng qua các năm nhưng tỷ trọng lại giảm và còn thấp. Mức xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ mới chỉ chiếm 2% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam (1999).
Theo Bộ thương mại và công nghiệp, đến nay hầu hết các doanh nghiệp dệt may xuất khẩu Việt Nam đều chủ động ký kết, thực hiện đơn đặt hàng và khai thác tốt nguồn hạn ngạch. Ngay tháng 1/2006 hàng dệt may Việt Nam xuất sang Mỹ được đạt 152 triệu USD (tăng 65% so với cùng kỳ là 92 triệu USD).
Hiện nay,xuất khẩu sang Hoa Kỳ: 25 cat. đều nóng.25 chủng loại hàng (cat.) có hạn ngạch xuất sang thị trường Mỹ đều đã trở thành cat. “nóng”, kể cả các cat. thuộc nhóm II cũng có tỷ lệ thực hiện lên tới 60%-70%.
Tuy nhiên, ông Lê Quốc Ân, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may VN lại tỏ ra lo lắng, bởi đây chỉ là “tăng trưởng nóng”, chủ yếu do cấp visa tự động nên các hợp đồng xuất khẩu dồn vào đầu năm và do Trung Quốc đang bị áp đặt hạn ngạch đặc biệt”.
Nếu chủ quan không chuẩn bị lực lượng thì đến năm 2008, Trung Quốc sẽ được dỡ bỏ hoàn toàn các rào cản, chắc chắn doanh nghiệp dệt may VN sẽ “sốc” nữa.
Chính phủ Việt Nam và Mỹ vừa ký kết thoả thuận về hệ thống “Thông tin Visa điện tử (Elvis) cho các sản phẩm sợi và dệt may”. Theo thoả thuận này, Chính phủ Việt Nam sẽ cấp Visa qua hệ thống Elvis cho mỗi lô hàng dệt may được sản xuất trong nước mà không phụ thuộc vào giá trị lô hàng. Visa được cấp qua hệ thống Elvis là một thông điệp củaViệt Nam gửi bằng phương tiện điện tử cho Cục hải quan Mỹ, trong đó có chứa thông tin về lô hàng xuất khẩu vào thị trường Mỹ và số hiệu Visa cho hàng hoá đó. Visa cấp qua hệ thống Elvis xác nhận xuất xứ và chỉ ra hạn chế cho từng loại được áp dụng.
Với hệ thống Elvis, hai bên sẽ quản lý tốt hơn việc thực hiện hạn ngạch dệt may Và kiểm soát các lô hàng dệt may nhập khẩu vào Mỹ, chống lại chuyển tải bất hợp pháp. Về phần mình, các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng dệt may vào Mỹ sẽ tiết kiệm được thời gian khi xin Visa theo phương thức thủ công tại các phòng quản lý xuất nhập khẩu.
Trong tương lai dệt may Việt Nam có thể trở thành mặt hàng chủ lực của Việt Nam sang Mỹ. Chất lượng sản phẩm hàng dệt may của Việt Nam trong vài năm qua được phát triển đến trình độ nhất định của thế giới với nhiều mẫu mã đã chiếm được vị trí và ưu thế trên một số thị trường khó tính.
2.2.2>Thuận lợi
Trước hết phải nhận thấy Việt Nam là nước có dân số trẻ, có nguồn lao động dồi dào, chi phí lao động thấp. Hơn nữa người dân lao động Việt Nam lại cần cù chăm chỉ, khéo léo, ham học hỏi, rất thích hợp với công việc này. Bên cạnh đó thì hàng dệt may Việt Nam còn được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan nếu đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về chất lượng và xuất xứ.
Về giá xuất khẩu, do chi phí đầu vào, chi phí sản xuất, chi phí lưu thông thấp nên giá mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối rẻ, tăng khả năng cạnh tranh cho mặt hàng này trên thị trường quốc tế.
Ngoài ra, Việt Nam còn có môi trường kinh doanh an toàn, hệ thống pháp lý thông thoáng tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển.
2.2.3>Khó khăn và thách thức đặt ra với hàng dệt may Việt Nam
2.2.3.1>Về nguyên vật liệu
Đặc điểm của hàng dệt may Việt Nam trong vòng 10 năm qua là các công ty chủ yếu làm gia công cho công ty nước ngoài, phần lớn nguyên phụ liệu là do công ty nước ngoài đưa vào. Một phần do nguyên liệu trong nước chưa sản xuất được hoặc có nhưng chất lượng thấp. Chính vì vậy trong thời gian tới chúng ta cần phải nỗ lực hơn nữa để tìm ra những nguyên liệu mới với giá thành rẻ và có chất lượng tốt.
Còn đối với các doanh nghiệp dệt may tự sản xuất và cung ứng sản phẩm của mình sang thị trường Hoa Kỳ thì nguồn nguyên liệu đầu vào lại chưa đáp ứng được các tiêu chuẩn kỹ thuật mà quốc gia này quy định.
2.2.3.2>Về vốn
Hiện nay các doanh nghiệp còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc tìm nguồn vốn đầu tư để nhập khẩu nguồn nguyên liệu cũng như các máy móc thiết bị hiện đại nhằm nâng cao chất lượng và năng suất người lao động. Phần lớn, vốn đầu tư đều phải tự vay trung hạn với lượci suất cao. Phương thức này tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài vào khai thác thị trường lao động, nhằm cạnh tranh với chúng ta trong việc giảm chi phí sản xuất sản phẩm.
2.2.3.3>Về trình độ nhân lực
Phần lớn cán bộ Việt Nam chưa thể tự mình chủ động độc lập điều hành sản xuất một cách khoa học, đồng bộ và có chất lượng.Các công nhân Việt Nam tuy chăm chỉ nhưng lại chưa có cơ hội được tiếp xúc để nắm bắt,học hỏi cách thức hoạt động của các công nghệ mới,hiện đại trên thế giới.Do đó,chưa khai thác và phát huy được hết khả năng và năng suất lao động của các cán bộ,công nhân viên chức của doanh nghiệp.
2.2.3.4>Môi trường cạnh tranh quốc tế
Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng dệt may của ta đang phải cạnh tranh với rất nhiều nước khác như : Trung Quốc, ấn Độ…là những quốc gia mạnh trong ngành dệt may, đặc biệt là Trung Quốc. Trong thời gian tới, Trung Quốc có thể trở thành nguồn cung cấp được hầu hết các công ty kinh doanh bán lẻ quần áo của Mỹ lựa chọn với nhiều sản phẩm có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp.
2.2.3.5>Hệ thống pháp luật
- Hệ thống pháp luật của Việt Nam
Hệ thống pháp luật của Việt Nam còn thiếu đồng bộ, chưa ổn định, còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Hệ thống đó đang được rà soát lại để sửa đổi, bổ sung hoặc bỏ những phần đã lỗi thời.
Bên cạnh đó, Việt Nam còn thiếu nhiều văn bản pháp luật liên quan đến nhiều quy định quan trọng trong hiệp định. Chính vì vậy, chính phủ Việt Nam còn xây dựng một chương trình tổng thể nhằm thực thi hiệp định thương mại Việt – Mỹ với mục đích nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.
- Hệ thống pháp luật Mỹ còn nhiều phức tạp.
Bên cạnh hệ thống luật lệ Liên Bang, từng Bang ở Mỹ đều có hệ thống pháp luật riêng. Chính vì khó khăn phức tạp như vậy nên việc xúc tiến hàng hoá vào thị trường Mỹ thường phải thông qua các nhà môi giới hải quan.Bên cạnh đó,những quy định,những tiêu chuẩn quá ngặt ngèo của chính phủ Hoa Kỳ áp dụng đối với hàng dệt may Việt Nam đã gây ra không ít tổn thất cho các doanh nghiệp sản xuất mặt hàng này.
2.2.3.6>Về kỹ thuật và công nghệ
Trong thực tế, mặc dù năng lực sản xuất hàng dệt may hiện nay tăng mạnh. Có nhà máy mở rộng thêm qui mô sản xuất lên 2-3 lần, nhiều nhà máy mới được thành lập nhưng vẫn chưa đáp ứng được các đơn đặt hàng của Mỹ cả về mẫu mã, lẫn chất lượng, dẫn đến sự giảm sút về đơn đặt hàng của các khách hàng Mỹ.Đó là do máy móc công nghệ của các nhà máy này vẫn chưa đủ hiện đại,để xử lý các vấn đề về rác thải gây ô nhiễm môi trường,các vấn đề liên quan đến các tiêu chuẩn kỹ thuật về chất lượng sợi vải do bên đối tác Hoa Kỳ đưa ra.
Chương III
Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu dệt may của Việt Nam sang Hoa Kỳ
N
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0708.doc