Đề tài Yếu tố cạnh tranh và yếu tố pháp luật trong môi trường kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam

 

MỤC LỤC.

Phần I. Lời mở đầu. 2

Phần II. Phần nội dung. 3

 Chương I: Cơ sở lý luận về môi trường kinh doanh ngân hàng. 3

I. Khái niệm về môi trường kinh doanh ngân hàng.

II. Những yếu tố ảnh hưởng trong môi trường kinh doanh ngân hàng.

Chương II: Sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. 6

I. Khái quát về thực trạng môi trường kinh doanh của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.

1. Thuận lợi và thành tựu đạt được.

2. Những hạn chế còn tồn tại.

II. Sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật và yếu tố cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đến hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay.

1. Về yếu tố pháp luật.

2. Về yếu tố cạnh tranh.

Chương III: Kiến nghị và giải pháp. 15

 1. Về pháp luật.

2.Về cạnh tranh.

Phần III. Phần kết luận 17

Tài liệu tham khảo. 18

 

doc19 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1466 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Yếu tố cạnh tranh và yếu tố pháp luật trong môi trường kinh doanh ngân hàng ở Việt Nam, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiện lợi hơn. Có thể nói đây là phương tiện để ngân hàng có được những bước nhảy vọt mang tính chất đột phá trong hoạt động kinh doanh của mình. 2.6. Yếu tố văn hoá xã hội Văn hoá là hệ thống những giá trị, những quan niệm, truyền thống và chuẩn mực hành vi đạo đức của con người. Văn hoá được hình thành trong những điều kiện kinh tế, chính trị, lịch sử nhất định. Yếu tố văn hoá - xã hội bao gồm trình độ văn hoá của dân cư, phong tục tập quán, tín ngưỡng,… ở vùng thị trường đó. Yếu tố này tác động sâu sắc đến nhận thức, thói quen,…của dân cư, từ đó ảnh hưởng đến việc lựa chọn sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Trên đây là một số nét khái quát về các yếu tố ảnh hưởng của môi trường kinh doanh. Yếu tố nào cũng quan trọng, tuy nhiên, mỗi yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng theo những phương pháp khác nhau và ở những mức độ khác nhau. Chương II. Sự ảnh hưởng của môi trường kinh doanh đến hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Khái quát về thực trạng môi trường kinh doanh của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. 1. Yếu tố thuận lợi và thành tựu đạt được. Khi chiến tranh kết thúc, Việt Nam rũ bùn đứng dậy, bắt đầu hàn gắn vết thương chiến tranh và xây dựng kinh tế với một xuất phát điểm rất thấp. Sau hơn 20 năm nỗ lực khôi phục kinh tế, với đường lối đúng đắn của Đảng, ngày nay Việt Nam đang từng bước xây dựng, chuyển đổi, phát triển nền kinh tế theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Một quãng thời gian chưa dài so với khối lượng công việc “đồ sộ, bề bộn” và vô cùng phức tạp của một quốc gia mà mọi thứ đều cần phải làm để xây dựng một đất nước phồn vinh, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Riêng trong lĩnh vực ngân hàng, sau hơn một thập kỉ thực hiện chương trình đổi mới với sự giúp đỡ của ngân hàng thế giới, hệ thống ngân hàng đã đạt những thành tựu đáng khích lệ. Có thể khái quát một số thành tựu nổi bật mà chúng ta đã đạt được trong những năm qua như sau: Thứ nhất, về yếu tố cạnh tranh: Có thể nói tính cạnh tranh trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay hết sức khốc liệt, đặc biệt sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ chính thức có hiệu lực (7/2000). Trên thị trường ngân hàng Việt Nam hiện nay không chỉ có các ngân hàng quốc doanh, ngân hàng cổ phần, mà còn có cả ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng này cạnh tranh nhau để giữ vững và mở rộng thị phần cho riêng mình. Động lực cạnh tranh đó làm cho chất lượng hoạt động của hệ thống ngân hàng có những tiến bộ rõ rệt. Các ngân hàng đua nhau tung ra các sản phẩm mới và tìm mọi cách để cung ứng các dịch vụ ngân hàng một cách tốt nhất cho khách hàng. Cho đến nay, chất lượng của sản phẩm và dịch vụ ngân hàng được nâng cao rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Quả thật, ở đâu không có sự cạnh tranh ở đó không có sự phát triển. Thứ hai, về yếu tố kinh tế: ít bị ảnh hưởng bởi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á bắt nguồn từ Thái Lan năm 1997 và cuộc suy thoái kinh tế mới đây của Mỹ, nền kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây ổn định và tăng trưởng, các chỉ tiêu kinh tế vĩ mô đều đạt và vượt dự kiến, trong đó có các chỉ tiêu tăng trưởng của hệ thống ngân hàng. Nền kinh tế ổn định và tăng trưởng bền vững vô hình chung đã tạo thêm lòng tin cho các nhà đầu tư, đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài. Điều này khiến ngân hàng phải đổi mới và hoàn thiện các sản phẩm và dịch vụ của mình để đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu phát triển kinh tế và nhu cầu đa dạng của khách hàng. Thứ ba, về yếu tố pháp luật: Chính phủ Việt Nam luôn thiện chí đưa ra những chính sách, luật pháp khuyến khích các thành phần kinh tế trong nước cũng như các nhà đầu tư nước ngoài. Trong lĩnh vực ngân hàng, các nguồn luật điều chỉnh được sửa đổi để phù hợp với thực trạng kinh doanh, tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động của các ngân hàng trong nước và các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Đây là yếu tố vĩ mô ảnh hưởng gián tiếp nhưng mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các ngân hàng. Nếu không có một hành lang pháp lý thông thoáng và lành mạnh, liệu các ngân hàng, dù có tiềm năng đến mấy, có hoạt động hiệu quả được không? Thứ tư, về yếu tố khoa học công nghệ: Có thể nói thành tựu nổi bật nhất của hệ thống ngân hàng Việt Nam những năm gần đây là sự đổi mới về khoa học công nghệ và áp dụng công nghệ vào hoạt động ngân hàng. Trong vòng vài năm qua, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của quan hệ thương mại giữa Việt Nam với các nước trên thế giới, tình hình giao dịch thanh toán qua mạng SWIFT của các thành viên Việt Nam cũng tăng lên. Do các ngân hàng nhận thức được những quyền lợi thiết thực khi tham gia thanh toán qua mạng SWIFT (nhanh chóng, an toàn, tiết kiệm chi phí…) và được sự phối hợp giúp đỡ của SWIFT Việt Nam trong quá trình hướng dẫn làm thủ tục gia nhập, lắp đặt thiết bị, hỗ trợ trong giai đoạn đầu, số lượng ngân hàng hoạt động tại Việt Nam trở thành thành viên SWIFT trong gần 2 năm qua đã tăng lên nhiều. Năm 1995 khi Việt Nam tham gia thanh toán qua mạng SWIFT mới chỉ có 15 ngân hàng là thành viên. Đến 10/2001 số thành viên đã tăng lên tới 50 trong đó có NHNN, 4 NHTMQD, 24 chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 17 ngân hàng thương mại cổ phần và 4 ngân hàng liên doanh. Bên cạnh đó, cho đến nay cả bốn ngân hàng thương mại quốc doanh đều đã đưa vào hoạt động máy ATM. Hệ thống máy ATM được lắp đặt ở nhiều điểm trên khắp cả nước, sẵn sàng cung cấp các dịch vụ ngân hàng cá nhân trong và ngoài giờ làm việc với 7 ngày trong tuần và 24 giờ trong ngày. Các ngân hàng cũng nỗ lực trong việc phổ biến và khuyến khích thói quen không dùng tiền mặt trong công chúng và phát hành thêm một số loại thẻ tín dụng quốc tế và nội địa. Cho tới thời điểm này các loại thẻ thông dụng trên thế giới hiện đang được thanh toán tại Việt Nam là Visa, Mastercard, JBC, Diner Club, Amex và một số loại thẻ nội địa như VCB-ATM, incombank-ATM, BIDV-ATM…Hy vọng trong những năm gần đây thói quen sử dụng thẻ thanh toán của người dân sẽ phổ biến hơn. Thêm một thành tựu không thể không kể đến đó làviệc ngân hàng nhà nước Việt Nam ngày 15/7 vừa qua đã tổ chức trọng thể lễ khai trương hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng. Sự kiện này được coi là bước đột phá quan trọng trong việc đổi mới công nghệ thanh toán ở Việt Nam. Việc đưa hệ thống này vào hoạt động đã giúp cho các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cũng như khách hàng của họ sử dụng tối đa nguồn vốn, tăng nhanh vòng quay vốn, đáp ứng yêu cầu thanh toán nhanh, an toàn và chính xác. Việc áp dụng công nghệ vào hoạt động kinh doanh ngân hàng là yếu tố mang tính chất sống còn trong bối cảnh hiện nay, khi tốc độ đổi mới hệ thống công nghệ thông tin đang diễn ra hết sức nhanh chóng trên phạm vi toàn thế giới. Đây chính là phương tiện để các ngân hàng thực hiện hoạt động kinh doanh của mình hiệu quả nhất. Thứ năm, về yếu tố văn hoá xã hội: Việt Nam là một nước có trình độ dân trí tương đối cao, người dân nhanh chóng thích ứng với những thành tựu khoa học mới. Mặt khác, nước ta được đánh giá là một trong những nước có tình hình chính trị ổn định nhất thế giới. Điều này cũng gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Vì ngân hàng hoạt động theo phương châm đi vay để cho vay, nếu người dân không có thói quen hay vì một lí do nào đó không hiểu được những lợi ích của sản phẩm dịch vụ ngân hàng thì kết quả là hoạt động ngân hàng sẽ không tận dụng được hết nguồn lực. Mà trong nền kinh tế thị trường thì ai sử dụng nguồn lực hiệu quả hơn người đó sẽ có cơ hội sử dụng nguồn lực đó nhiều hơn. Như vậy, tuy vẫn còn là bước đầu nhưng những thành tựu mà hệ thống ngân hàng Việt Nam đạt được trong thời gian qua là rất đáng khích lệ. 2. Những hạn chế còn tồn tại. Việt Nam đang vận hành nền kinh tế mở trong xu thế hội nhập quốc tế ở mức tiếp cận ban đầu, còn nhiều “bỡ ngỡ”, bất cập về cơ chế, môi trường, kỹ thuật công nghệ, trình độ, kinh nghiệm quản lý và điều hành nền kinh tế. Trước hết, về tiềm lực tài chính. Tiềm lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay còn rất hạn chế. Cụ thể là bốn ngân hàng thương mại quốc doanh, vốn là những ngân hàng có uy tín và thị phần lớn nhất trên thị trường Việt Nam hiện nay, cũng chỉ có số vốn điều lệ khiêm tốn ở mức 1.100 tỷ VND, tương đương 70 triệu USD (riêng chỉ có NHNN&PTNN là có số vốn điều lệ ở mức cao nhất 2.275 tỷ VND), số vốn này của các ngân hàng cổ phần, liên doanh thậm chí còn ít hơn. Điều này cho thấy tiềm lực về tài chính của các ngân hàng Việt Nam hiện nay vẫn còn là một vấn đề bỏ ngỏ. Thứ hai, về cơ chế và nghiệp vụ kinh doanh đa năng theo quy luật thị trường, hoàn toàn vì mục đích lợi nhuận: Nền kinh tế nước ta là nền kinh tế thị trường dưới sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa nên nó chưa thực sự hoạt động theo quy luật và guồng quay của thị trường. ở đây vẫn còn sự điều tiết của bàn tay hữu hình của nhà nước thông qua các quy định và luật pháp như quy định về lãi suất (hiện nay đã được xoá bỏ), sự phân biệt đối xử giữa các ngân hàng trong nước và ngân hàng nước ngoài. Việc này làm giảm tính cạnh tranh trên thị trường Việt Nam và bóp méo cơ chế thị trường tự do. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay việc làm đó là cần thiết để bảo vệ cho hệ thống ngân hàng trong nước đang còn chập chững bước vào cánh cửa hội nhập. Vẫn còn hiện tượng chỉ đạo từ trên rót xuống: Ví dụ điển hình cho hiện tượng này là việc ngân hàng nhà nước trực tiếp chỉ định ngân hàng giải ngân các nguồn vốn ODA và FDI từ nước ngoài vào chứ không có hình thức đấu thầu công khai, hoặc nếu có thì cơ hội cũng chỉ nằm trong tầm tay của các ngân hàng quốc doanh, còn các ngân hàng cổ phần, liên doanh hay chi nhánh nước ngoài vẫn đứng ngoài cuộc với tư cách là quan sát viên. Hoạt động của một số ngân hàng hiện nay không phải hoàn toàn vì mục đích lợi nhuận. Các ngân hàng như ngân hàng người nghèo, ngân hàng chính sách,… hoạt động chủ yếu là theo chính sách phúc lợi xã hội của nhà nước chứ không vì mục đích lợi nhuận. Thứ ba, về kỹ thuật và kinh nghiệm kinh doanh lâu đời: So với lịch sử phát triển ngân hàng trên thế giới thì ngân hàng Việt Nam vẫn còn rất trẻ về tuổi đời và non nớt về kinh nghiệm. Việc xây dựng kế hoạch phát triển mang tính chiến lược, tổng thể còn thiếu đồng bộ. Năng suất lao động thấp, chi phí hoạt động cao, hệ thống kế toán còn một số khác biệt với kế toán quốc tế. Thông tin kinh doanh chưa đáp ứng yêu cầu chỉ đạo điều hành. Bộ máy kinh doanh còn cồng kềnh, trình độ quản trị điều hành và trình độ nhân viên còn bất cập. Thứ tư, về công nghệ hiện đại, trình độ kinh doanh tiên tiến, sản phẩm kinh doanh đa dạng…Có thể nói, về khía cạnh này hệ thống ngân hàng Việt Nam còn thua kém rất xa các ngân hàng khác trên thế giới. Sau nhiều năm hoạt động theo mô hình ngân hàng truyền thống dưới cơ chế bao cấp của Nhà nước, cơ sở vật chất của hệ thống ngân hàng Việt Nam còn hạn chế, công nghệ hiện đại mới được ứng dụng. Do vẫn còn trong giai đoạn đầu nên các công nghệ mới này vẫn còn nhiều bất cập và hiệu quả chưa cao. Tóm lại, nền kinh tế thị trường ở Việt Nam cũng như các công cụ, phương thức hoạt động, cơ chế, luật pháp chung về hoạt động kinh doanh và liên quan đến môi trường kinh doanh ngân hàng còn ở mức sơ khai, đang dần hình thành. II. Sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật và yếu tố cạnh tranh trong môi trường kinh doanh đến hoạt động của ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay. Như đã đề cập ở trên, các yếu tố trong môi trường kinh doanh không ảnh hưởng độc lập mà chúng có quan hệ tương tác với nhau. Khi phân tích sự ảnh hưởng của yếu tố pháp luật( yếu tố vĩ mô) và yếu tố cạnh tranh (yếu tố vi mô), ta không thể tách rời sự ảnh hưởng của hai yếu tố này mà phân tích chúng trong mối quan hệ tương tác đó. ảnh hưởng của yếu tố pháp luật tới hoạt động ngân hàng. Có thể nói, pháp luật có ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động của các tổ chức kinh tế nói chung và của các ngân hàng nói riêng. Yếu tố vĩ mô này nằm ngoài sự kiểm soát của ngân hàng nên ngân hàng không thể thay đổi mà phải chủ động nghiên cứu để hướng hoạt động kinh doanh phù hợp. Hai thập kỷ qua, trong một nền kinh tế với thị trường tài chính mở, nếu các chính sách không lành mạnh, thiếu ổn định, các qui định quản lí không hợp lí có thể gây nên những biến động kinh tế, từ đó nảy sinh tình trạng bất ổn của các dòng vốn. Pháp luật là yếu tố trực tiếp qui định và kiểm soát sự hoạt động của ngân hàng, các qui định, văn bản pháp luật mà chính phủ ban hành có ảnh hưởng rất lớn tới môi trường kinh doanh của ngân hàng. ở Việt Nam, ngày 06/5/1951, chủ tịch Hồ Chí Minh đã kí Săc lệnh số 15/SL thành lập Ngân hàng Quốc gia Việt Nam, chính thức khai sinh một nghành kinh tế rất trọng yếu của nước nhà. Đây thực sự là một bước ngoặt lịch sử quan trọng. Lần đầu tiên nước ta có một ngân hàng của Nhà nước dân chủ nhân dân, kết quả của quá trình xây dựng hệ thống tiền tệ, tín dụng độc lập, tự chủ, đánh dấu bước phát triển mới về chất trong hoạt động tiền tệ, tín dụng ở nước ta. Mặt khác, cùng với sự ra đời luật NHNN, luật các TCTD và các văn bản dưới luật khác, Chính phủ bước đầu đã xây dựng một hành lang pháp lí làm cơ sở cho các ngân hàng thương mại hoạt động kinh doanh trong điều kiện mới. Theo đó, các ngân hàng hoạt động kinh doanh trong một môi trường lành mạnh dưới sự bảo vệ của pháp luật. Điều này làm cho hoạt động ngân hàng trở nên hiệu quả hơn. Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và cùng với sự giúp đỡ của WB và IMF, hệ thống ngân hàng nước ta được chuyển đổi một cách cơ bản: mô hình ngân hàng 2 cấp ra đời, ngân hàng Nhà nước trở thành NHTW, hàng loạt các tổ chức tín dụng được thành lập, nhiều ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. ở nước ta, NHNN ban hành mọi quy định về hoạt động nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng. Mỗi hoạt động đa dang, phong phú của các ngân hàng đều liên quan đến môi trường kinh tế, chính trị, xã hội, chính sách vĩ mô của Nhà nước. Do đó, hoạt động ngân hàng không thể thả sức tự do như hoạt động kinh doanh thương mại khác, không thể vượt quá các giới hạn khuôn khổ pháp luật về ngân hàng. Trong thời gian qua, cùng với việc ban hành các văn bản pháp luật mới, Chính phủ đã giao cho NHNN sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện khung pháp lí phù hợp tình hình hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Có thể lấy một số ví dụ để minh chứng cho những tác động tích cực có được do sự thay đổi cơ chế pháp lí trong hoạt động của các ngân hàng. Trước hết, xin nhắc đến chương trình cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thương mại nước ta. Theo cam kết với IMF, WB…, chính phủ Việt Nam đã xây dựng kế hoạch cơ cấu lại NHTM với nhiệm vụ trước mắt là tăng năng lực tài chính cho các ngân hàng. Cùng với đề án chấn chỉnh và củng cố hệ thống NHTM trong cả nước, tính đến nay NHNN đã thu hồi giấy phép hoạt động của 6 NHTM cổ phần đô thị, trong đó giải thể 2 ngân hàng, sáp nhập, hợp nhất và mua lại 1 ngân hàng, xuống hạng 2 ngân hàng. Bên cạnh đó còn 3 NHTM cổ phần khác không còn hoạt động trong thực tế đang được NHNN làm thủ tục thu hồi giấy phép. Việc sắp xếp lại như trên nhằm xoá bỏ những yếu kém của các ngân hàng này như tỉ lệ nợ quá hạn cao, kinh doanh thua lỗ kéo dài, dính líu nhiều vụ án lớn… Đến nay, có 21 NHTM cổ phần đang hoạt động, trong đó có 19 NHTM đã tăng đủ vốn điều lệ theo qui định của chính phủ tại Nghị định 82/NĐ-CP, còn lại 2 NHTM được phép gia hạn thêm thời gian. Cùng với những chấn chỉnh này, NHNN đã đi những bước cơ bản trong chương trình cơ cấu lại hệ thống NHTM cổ phần, góp phần nâng cao chất lượng hoạt động của các ngân hàng. Thứ hai, nói tới cơ chế lãi suất: trước đây NHNN quy định lãi suất cơ bản, điều này bó hẹp các hoạt động của ngân hàng trong biên độ dao động cho phép dẫn đến hiệu quả kinh doanh chưa tối ưu. Gần đây, NHNN đã chính thức cho phép các NHTM áp dụng lãi suất thoả thuận. Có thể nói, cơ chế này đã có tác động tích cực đến hoạt động huy động vốn và cho vay của các TCTD. Lấy con số cụ thể của địa bàn thành phố Hồ Chí Minh trong quí 3-2002: lãi suất huy động VNĐ của các TCTD có xu hướng tăng, lãi suất tiết kiệm ở các kì hạn tăng từ 0,02-0,07%. Lãi suất cho vay ngắn hạn hiện từ 0,64-1,2%/tháng, tăng từ 0,02-0,1% so với đầu quí. Thứ ba, nói tới quyết định của NHNN thúc đẩy tự do hoá thị trường tài chính nhằm tăng quyền tự chủ kinh doanh theo hướng hội nhập của hệ thống ngân hàng: Từ ngày 1/7/2002, Thống đốc NHNN đã quyết định nới rộng biên độ giao dịch mua bán ngoại tệ của các TCTD lên ±0,25% so với mức 0,1% trước đó với nghiệp vụ giao ngay, lên ±0,5% so với mức 0,4% của nghiệp vụ giao dịch kì hạn 30 ngày…Việc điều chỉnh tăng này đáp ứng được yêu cầu của TCTD cũng như các doanh nghiệp có nhu cầu mua bán ngoại tệ với các ngân hàng, không bị gò bó trong khuôn khổ chật hẹp như trước đây. Quyết định này cho phép giảm dần những qui định mang tính chất hành chính can thiệp vào quyền tự chủ kinh doanh của các TCTD, đồng thời thúc đẩy tự do hoá thị trường giao dịch ngoại hối phù hợp thông lệ quốc tế. Về tác động thực tế, với cơ chế nới lỏng biên độ giao dịch này, tỉ giá hối đoái trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng, thị trường mua bán ngoại tệ giữa các TCTD với khách hàng và thị trường tự do đều tương đối ổn định, làm giải toả tâm lí kìm nén sự gia tăng giả tạo về tỉ giá. Thứ tư, nói tới quyết định của NHNN cấp phép cho 2 NHTM quốc doanh là NH Ngoại thương Việt Nam và NH Đầu tư phát triển Việt Nam được mở văn phòng đại diện ở Mĩ: Đây không chỉ là hành động mang ý nghĩa chính trị mà rộng hơn, thể hiện bước phát triển mới của NHNN trong việc giúp các NHTM có bước tiến mới trong hội nhập quốc tế. So sánh với gần 30 NH nước ngoài được NHNN Việt Nam cho phép hoạt động trên thị trường nước ta, con số chi nhánh NH Việt Nam ở nước ngoài còn hết sức nhỏ bé. Với quyết định này, NHTM Việt Nam có thêm động lực bước ra đối mặt thị trường quốc tế, chấp nhận thách thức và cạnh tranh để giành được chỗ đứng cho riêng mình. Trên đây là một vài ví dụ để thể hiện tính tích cực của hệ thống luật pháp tới hoạt động của ngân hàng. Tuy chưa đầy đủ và toàn diện nhưng nó cũng phần nào giúp ta đánh giá khái quát tầm quan trọng cuả chính sách pháp luật với hoạt động kinh tế nói chung, hoạt động ngân hàng nói riêng. Tuy nhiên, đã nói tới tích cực thì ta cũng không thể không nói đến những tác động tiêu cực mà chính sách pháp luật có thể gây ra với hoạt động ngân hàng.Tuy đã có luật nhưng trong thời gian qua, cả luật NHNN và luật các TCTD đều bộc lộ nhiều nội dung không còn phù hợp với thực tế, với xu hướng hội nhập. Một điều nguy hiểm là tuy có những điểm không phù hợp nhưng vẫn có những văn bản mới như nghị định, nghị quyết được xây dựng căn cứ vào đó. Tuy có những rà soát, sửa đổi nhưng tốc độ triển khai còn chậm, chưa chuyên sâu. Những yếu tố này ảnh hưởng xấu tới tâm lí nhà đầu tư bởi họ lo lắng về sự thay đổi môi trường đầu tư có thể gây ra lạm phát, mất ổn định kinh tế…ảnh hưởng tới kết quả kinh doanh. Để có thể hiểu rõ hơn, một số ví dụ dưới đây cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống pháp luật. Xem xét một qui định trong luật các TCTD: một NHTM không được cho một khách hàng vay vốn vượt quá 15% số vốn điều lệ, nếu vượt phải được phép của chính phủ. Do đó, khi dự án có nhu cầu vay lớn của các tổng công ty như Dầu khí, Bưu chính viễn thông, Hàng không, Điện lực, Hàng hải… có trị giá từ trên 12 triệu USD và trên 25 triệu USD(tương đương trên 165 tỉ VNĐ và trên 330 tỉ VNĐ) thì một NHTM QD không đủ sức cho vay, phải đồng tài trợ, nhưng lại mắc phải qui định không thể đồng tài trợ cho nhiều dự án của một tổng công ty cộng lại. Hơn nữa, việc đồng tài trợ không phải đã suôn sẻ bởi các NHTM không phải luôn sẵn sàng hợp tác với nhau. Đây chính là một điều bất cập. Một ví dụ khác về Nghị định bảo đảm tiền vay: Hiện nay, các NH có nhiều quyền hơn, trong đó có quyền tự chịu trách nhiệm về việc cho vay có hay không có tài sản bảo đảm (cầm cố, thế chấp, bảo lãnh…) nhưng trong thực tế còn nhiều vướng mắc gây cản trở quá trình mở rộng cho vay vốn phát triển sản xuất. Hiện nay, hệ thống văn bản pháp luật về giao dịch bảo đảm và bảo đảm tiền vay còn quá phức tạp chồng chéo, trong đó có lỗi cơ quan nhà nước. Điều đó khiến cho ngân hàng thương mại vẫn giống “tiệm cầm đồ.” Đó là do sự điều chỉnh của khá nhiều các nghị định như nghị định 165, nghị định 178…; việc áp dụng chưa đầy đủ các qui định pháp luật trong các ngành; sự rườm rà trong thủ tục… Còn rất nhiều các ví dụ khác trong các qui định mang ngoại tệ ra nước ngoài phải khai báo, qui định tỉ lệ kết hối, qui định về tỉ lệ dự trữ bắt buộc tiền gửi ngoại tệ…thể hiện những bất lợi mà hoạt động ngân hàng có thể gặp phải do những tác động của pháp luật. Tuy nhiên bên cạnh yếu tố vĩ mô là pháp luật thì hoạt động ngân hàng còn chịu tác động của yếu tố vi mô như đối thủ cạnh tranh, khách hàng… Phần dưới đây sẽ trình bày rõ hơn về tác động của cạnh tranh tới hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam. 2. Yếu tố cạnh tranh tác động tới hoạt động ngân hàng. Cạnh tranh giữa các ngân hàng cùng hệ thống. Trong môi trường cạnh tranh quyết liệt hiện nay, các ngân hàng luôn luôn tìm cách mở rộng mạng lưới chi nhánh của mình trong và ngoài nước. Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, việc mở rộng mạng lưới chi nhánh các mỗi ngân hàng được thực hiện một cách nhanh chóng và hiệu quả hơn. Theo con số thống kê của NHNN, mạng lưới chi nhánh của 4 ngân hàng thương mại nhà nước Việt Nam năm 2001: Tên ngân hàng . Số lượng chi nhánh. Ngân hàng NN&PTNT Việt Nam. 1.568 chi nhánh và ngân hàng lưu động. Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam. 22 chi nhánh. Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 64 chi nhánh. Ngân hàng Công thương Việt Nam. 101 chi nhánh. Chi nhánh của ngân hàng có thể được tổ chức theo kiểu: chi nhánh cung cấp mọi dịch vụ ngân hàng; chi nhánh chỉ cung cấp một số loại sản phẩm cụ thể. Ngoài ra, còn có loại chi nhánh chỉ cung cấp một loại sản phẩm như các Quỹ tiết kiệm hay Bàn thu đổi ngoại tệ. Các ngân hàng chi nhánh hoạt động theo chiến lược kinh doanh của ngân hàng tổng, tuy nhiên, mỗi chi nhánh lại linh động trong phương thức hoạt động kinh doanh của mình. Điều này đã tạo nên sự cạnh tranh giữa các chi nhánh. Cạnh tranh sẽ khiến cho các chi nhánh tìm mọi cách để đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ của mình nhằm thoả mãn một cách tốt nhất nhu cầu ngày càng đa dạng của khách hàng. Cạnh tranh giữa các ngân hàng khác hệ thống. Trong bối cảnh toàn cầu hoá, khu vực hoá và hội nhập quốc tế, đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt Mỹ bắt đầu có hiệu lực, điều kiện cạnh tranh trên thị trường Việt Nam nói chung và trong lĩnh vực ngân hàng nói riêng ngày càng trở nên gay gắt. Hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam hiện nay không chỉ có các ngân hàng thương mại quốc doanh mà còn có sự tham gia của các ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Cạnh tranh quyết liệt sẽ buộc các ngân hàng phải nỗ lực vươn lên. Các ngân hàng sẽ có điều kiện tiếp thu kinh nghiệm quản lý tiên tiến, tiếp cận công nghệ hiện đại. Dịch vụ ngân hàng sẽ phát triển mạnh. Chất lượng và giá cả dịch vụ sẽ được cải thiện đáng kể. Và chắc chắn sự tham gia bình đẳng của các ngân hàng nước ngoài trong việc huy động vốn sẽ góp phần làm tăng tỷ lệ tiết kiệm nội địa của Việt Nam vốn đang ở mức rất thấp (21% GDP) so với các nước trong khu vực (Trung Quốc – 42%, Malaysia – 48%, Thái Lan – 41%.) Cạnh tranh sẽ trở thành động lực cho việc cải cách triệt để cũng như củng cố sức mạnh hệ thống ngân hàng Việt Nam. Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, tất yếu sẽ có ngân hàng không vươn lên được dẫn tới thua lỗ, phải phá sản hoặc sáp nhập. Nhưng bên cạnh đó, sẽ nổi lên những ngân hàng thành công, thực sự hoạt động có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh không chỉ ở thị trường trong nước mà cả thị trường quốc tế. Do đó, mỗi ngân hàng phải phát huy thế mạnh và khắc phục điểm yếu để có thể giữ vững thế đứng của mình trên thị trường. Để làm điều này, mỗi ngân hàng phải không ngừng nỗ lực tung ra các sản phẩm dịch vụ mới, an toàn, tiện lợi, chính sách giá phù hợp, công nghệ tiên tiến, thái độ phục vụ nhiệt tình… Hiện nay, bên cạnh các sản phẩm truyền thống, các ngân hàng đang đua nhau đưa ra các sản phẩm mới như cho vay du học sinh, mở tài khoản nội bộ trả lương cho cán bộ công nhân viên trong các doanh nghiệp, dịch vụ ngân hàng trực tuyến, cho thuê ngăn tủ sắt,…Điều này được đề cập chi tiết hơn qua bảng danh mục sản phẩm của các ngân hàng thương mại Việt Nam dưới đây: STT Các sản phẩm. Các ngân hàng thương mại quốc doanh. Các ngân hàng khác. VCB BIDV VBARD ICB NHLD NHCP CnNHNN 1 Gửi tiền x x x x x x x - TK vãng lai. x x x x x x x - TK có kì hạn. x x x x x x x - Gửi tiết kiệm. x x x x x x x - Kì phiếu. x x x x x x x 2 Chuyển tiền. x x x x x x x 3 Tín dụng & đầu tư. x x x x x x x 4 Bảo lãnh. x x x x x x x - Bảo lãnh trong nước. x x x x x x x - Bảo lãnh quốc tế. x x x x x x 5 Thanh toán XNK x x x x x x x 6 Chuyển đổi ngoại tệ. x x x x x x x 7 Thẻ. x x x x x x x - Đại lý thanh toán thẻ. x x x x x x - Phát

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33608.doc
Tài liệu liên quan