Không khícó thểlà nơi mầm bệnh tồn tại và làm lan truyền bệnh. Không khí có
chứa mầm bệnh là do mầm bệnh dính vào bụi (khi quét dọn chuồng trại, khi cọrửa gia
súc,.) hoặc dính vào các bọt nước nhỏkhi động vật kêu, rống hoặc ho, hắt hơi bắn ra.
Mầm bệnh dính vào bụi và bọt nước có thể được đưa đi rất xa và xâm nhập qua đường hô
hấp đểlây bệnh theo hai phương thức: truyền bệnh bằng giọt và truyền bệnh bằng bụi.
Ngoài ra, thường gặp hiện tượng bụi (pha rắn) và giọt (pha lỏng) lơlửng trong không khí
(pha khí), gọi là khí dung. Mức độtác hại của khí dung phụthuộc vào độlớn của chúng,
vào sốlượng mầm bệnh chứa trong giọt và bụi đó và phụthuộc vào độ ẩm, độnhiệt và sự
chuyển động của không khí. Ví dụ, giọt lớn (đường kính trên 10 μm) chứa nhiều mầm
bệnh, lâu khô hơn giọt nhỏ, nhưng không tồn tại lâu trong không khí, không đi được xa
và không vào sâu trong khí quản được. Trái lại, giọt nhỏ(0,3 - 2 μm) tuy chứa ít mầm
bệnh hơn và chóng khô hơn nên mầm bệnh chóng chết, nhưng lại tồn tại lơlửng lâu trong
không khí, dịch chuyển được xa và vào được sâu trong các phếquản nhỏ. Vì vậy, sựlan
truyền của mầm bệnh thường phụthuộc vào mật độ động vật cảm thụ
24 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 5693 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Dịch tễ học bệnh truyền nhiễm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được vận
chuyển theo gió.
4. Truyền lây qua vector
Động vật chân đốt (động vật tiết túc) gồm rất nhiều loại, đặc biệt một số động vật
thuộc lớp Côn trùng (ruồi, muỗi, rận,...) và lớp Nhện (ve bét, ghẻ,...) có vai trò hết sức
nguy hiểm trong việc truyền bệnh. Là những nhân tố sống truyền bệnh, chúng có thể chủ
động mang mầm bệnh từ nơi này sang nơi khác. Vì vậy chúng được coi là yếu tố môi giới
truyền bệnh hay vector truyền bệnh. Có hai phương thức truyền bệnh do động vật chân
đốt gây ra: cơ học và sinh học.
Trong phương thức truyền bệnh cơ học, những sinh vật trên chỉ đơn thuần là vật
mang và chuyển mầm bệnh từ chỗ này sang chỗ khác. Ruồi là một ví dụ về phương thức
truyền bệnh cơ học. Chúng mang mầm bệnh ở chân, vòi, thân hoặc trong ống tiêu hóa.
Thời gian mầm bệnh sống trên cơ thể chúng rất ngắn. Giữa mầm bệnh và sinh vật mang
mầm bệnh không có mối quan hệ sinh vật học nào cả.
Trong phương thức truyền bệnh sinh học, mầm bệnh tồn tại, sinh sản trong sinh
vật mang mầm bệnh. Khi đã mang mầm bệnh sinh vật đó có thể truyền bệnh suốt cả đời
sống của nó (ví dụ, chấy, rận chứa mầm bệnh sốt phát ban, ve bét mang các
arenavirut,...). Cũng có loại mầm bệnh phải trải qua một hoặc một số giai đoạn sinh
trưởng trong cơ thể sinh vật mang mầm bệnh (muỗi Culex đối với virut viêm não Nhật
Bản) rồi mới trở nên cảm nhiễm và gây phát bệnh. Gia súc, gia cầm và các động vật cảm
nhiễm khác có thể là ký chủ trung gian trong quá trình dịch hoặc ngược lại chỉ là ký chủ
chung mạt (ký chủ cuối cùng - dead-end host) của vi sinh vật mầm bệnh. Các ký chủ
trung gian có thể tham gia vào quá trình làm tăng số lượng tế bào (hoặc virion) mầm
bệnh gọi là ký chủ khuyếch đại (host-amplifier).
Nếu sinh vật chân đốt mang mầm bệnh có thể truyền mầm bệnh cho các hệ sau
của chúng thì chúng không những là sinh vật môi giới (vector truyền lây) mà còn được
coi là nguồn bệnh. Trong lớp Nhện và lớp Côn trùng có rất nhiều loài (ruồi, muỗi, rận,
ve, bọ chét,...) có thể là vector truyền lây bệnh truyền nhiễm. Ruồi nhà có thể mang vi
khuẩn nhiệt thán, lao, xoắn khuẩn, virut dịch tả lợn, lở mồm long móng. Khi đó, trực
trùng lao có thể sống trong ruồi 16 ngày. Ruồi trâu hút máu động vật, mang và truyền
bệnh nhiệt thán, bệnh tiêm mao trùng, bệnh tula (bệnh thỏ hoang), bệnh leptô
(leptospirosis, hay bệnh nghệ). Muỗi truyền bệnh sốt rét cho người, mang mầm bệnh gây
bệnh thiếu máu truyền nhiễm của ngựa. Muỗi, ruồi nhà, ruồi trâu chứa vi khuẩn Brucella
nhiều ngày. Rệp, ve chứa vi khuẩn này trong nhiều năm, có thể truyền cho đời sau. Bọ
chét truyền bệnh tula, bệnh sốt rét,...
Các loại động vật khác: Tất cả các loại động vật khác không cảm thụ hoặc ít cảm
thụ bệnh đều có thể là những nhân tố trung gian truyền bệnh cơ học. Mầm bệnh dính vào
cơ thể (thân, chân, đầu, cánh,...) của các loài động vật trên và được truyền đi. Mầm bệnh
có thể truyền bệnh qua phân sau khi đi qua đường tiêu hóa như trường hợp quạ ăn xác
chết vì bệnh nhiệt thán sẽ bài một số lượng lớn nha bào theo phân. Gia cầm, chim có thể
truyền bệnh nhiệt thán, đóng dấu lợn, dịch tả lợn,... Các loại dã thú như chồn, cáo, chó
sói, dơi,... có thể truyền bệnh dại, lở mồm long móng, sẩy thai truyền nhiễm,... Các loại
dã thú, các loài gậm nhấm không những là nguồn tàng trữ các ổ dịch thiên nhiên mà còn
là những nhân tố truyền bệnh.
Trong các loài động vật cần chú ý đến các loài chim và gậm nhấm, nhất là chuột.
Với khả năng bay lượn, chim có khả năng mang mầm bệnh đi xa, có khi rất xa, từ lục địa
này sang lục địa khác. Với số lượng khổng lồ và gồm nhiều loại, chuột sinh sống khắp
nơi, tiếp xúc thường xuyên với gia súc và các chất chứa mầm bệnh. Chuột vì vậy có vai
trò rất nguy hiểm trong việc truyền bệnh cảm nhiễm cho gia súc và người. Đối với gia
súc, chuột có thể truyền các bệnh như lao, lở mồm long móng, đóng dấu lợn, tụ huyết
trùng, sẩy thai truyền nhiễm, bệnh xoắn trùng (leptô), dại, dịch tả lợn,...
Tóm lại, nhân tố trung gian truyền bệnh có rất nhiều loại. Bệnh truyền từ con bệnh
sang con vật khỏe bằng nhiều đường thông qua một nhân tố trung gian, có khi phải qua
một chuỗi nhân tố trung gian. Vì vậy, một biện pháp vô cùng trọng yếu trong công tác
phòng chống bệnh là phải tìm cách phá hủy các nhân tố trung gian đó, như giữ vệ sinh
thức ăn, nước uống, tiêu diệt chân đốt, chuột,...
5. Truyền lây dọc và truyền lây ngang
Truyền lây cảm nhiễm từ bố mẹ sang con gọi là truyền dọc, truyền lây giữa các cá
thể trong tập đoàn mà không phải từ bố mẹ sang con gọi là truyền ngang. Trong cơ chế
truyền dọc mầm bệnh cảm nhiễm được truyền sang con qua tinh trùng, trứng hoặc sang
thai qua tử cung, hoặc qua đường sinh dục khi sinh đẻ, hoặc con con bị nhiễm do bú sữa
hoặc tiếp xúc với mẹ sau khi sinh. Ở gia cầm, các loại chim và bò sát,... truyền lây theo
chiều dọc là truyền lây qua trứng. Nếu mầm bệnh cảm nhiễm xâm nhập vào trứng trước
khi hình thành vỏ trứng thì gọi là truyền lây trong trứng hay cảm nhiễm trong trứng (in-
egg infection). Trong trường hợp mầm bệnh cảm nhiễm lây truyền vào trứng sau khi vỏ
trứng đã hình thành hoặc khi trứng ở bên ngoài thì gọi là cảm nhiễm trên trứng (on-egg
infection).
Các bệnh cảm nhiễm truyền lây dọc cho phôi và thai thường dẫn đến sẩy thai, đẻ
con chết, không thụ thai, giảm lượng con sinh ra (đối với động vật đa thai), con yếu,
trứng không phôi, trở ngại sinh sản, suy giảm miễn dịch hay dung nạp miễn dịch. Ở các
bệnh như brucellosis ở bò, vibriosis, Akabane, viêm mũi khí quản truyền nhiễm bò, phó
thương hàn ngựa, virut viêm não Nhật Bản của lợn, bệnh parvovirut lợn và bạch lỵ gà
con,... động vật mẹ thường cảm nhiễm ẩn tính hoặc biểu hiện bệnh tương đối nhẹ độ
nhưng ở phôi, thai hoặc con non thường thấy tổn hại trầm trọng. Ví dụ về trường hợp
truyền lây cảm nhiễm dọc sau sinh có thể là những bệnh hô hấp mãn tính như bệnh viêm
phổi do Mycoplasma (suyễn) ở lợn và bò, bệnh viêm teo mũi ở lợn,... Trong những
trường hợp này động vật mẹ là những vật mang trùng nhưng con con cảm nhiễm trong
thời kỳ bú sữa. Sau đó, động vật con trở thành vật mang trùng, nếu sinh trưởng thành
động vật giống (sinh sản) thì lại truyền lây cho thế hệ sau. Các bệnh Mycoplasma và bạch
lỵ gà con ở gia cầm cũng truyền mầm bệnh tương tự. Còn bệnh bạch huyết bò thường
truyền lây từ mẹ sang con qua sữa. Những bệnh này truyền lây dễ dàng theo chiều ngang
nhưng sự truyền lây dọc đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì mầm bệnh trong tập
đoàn động vật.
Bệnh bạch huyết gà cũng là bệnh truyền lây chủ yếu qua trứng. Trong trường hợp
đó những gà con đã bị cảm nhiễm qua trứng trở nên dung nạp miễn dịch suốt đời không
bao giờ sản sinh kháng thể, do đó phát sinh chứng virut huyết làm tăng khả năng truyền
lây ngang.
Trường hợp dung nạp miễn dịch do truyền lây dọc có thể là bệnh dịch tả lợn, bệnh
tiêu chảy niêm mạc bò,... động vật con khi nào cũng trở thành vật mang trùng. Lợn con
được sinh ra từ những lợn nái mắc bệnh dịch tả lợn mãn tính thường cảm nhiễm virut
trong thời kỳ phôi thai và hình thành dung nạp miễn dịch. Những lợn con này không có
phản ứng đề kháng với cảm nhiễm virut dịch tả lợn nhưng không phát bệnh và chết ngay
là nhờ thừa hưởng kháng thể thụ động chống dịch tả lợn từ sữa mẹ (miễn dịch thụ động).
Chúng duy trì nguồn virut lâu dài trong tập đoàn lợn và mầm bệnh này sẽ phát sinh dịch
một khi miễn dịch đàn trở nên giảm sút.
V. Tập đoàn động vật cảm thụ
1. Cơ cấu tuổi của tập đoàn và cảm nhiễm
Động vật cảm thụ bệnh là khâu thứ ba không thể thiếu được của quá trình sinh
dịch. Có nguồn bệnh và nhân tố trung gian truyền bệnh thuận lợi nhưng nếu cơ thể súc
vật không cảm thụ với bệnh (do có miễn dịch bẩm sinh hoặc miễn dịch tiếp thu) thì dịch
không thể phát sinh. Sức cảm thụ của súc vật đối với bệnh là điều kiện bắt buộc để dịch
phát sinh và phát triển. Sức cảm thụ đối với bệnh của súc vật phụ thuộc vào sức đề kháng
(bẩm sinh và tiếp thu, đặc hiệu và không đặc hiệu) của chúng. Vì vậy, làm tăng sức đề
kháng không đặc hiệu (làm tốt việc nuôi dưỡng, chăm sóc, vệ sinh, phòng bệnh,...) và sức
đề kháng đặc hiệu (tiêm phòng) là những biện pháp chủ động và tích cực nhằm xóa bỏ
khâu thứ ba của quá trình sinh dịch, làm dịch không thể phát sinh.
Nhìn chung, có khuynh hướng là tuổi càng tăng cao tính đề kháng của ký chủ đối
với mầm bệnh cảm nhiễm càng tăng, nhưng sau đó khi động vật già thì tính đề kháng
giảm. Điều này phản ánh sự thành thục và sự lão hóa của sức đề kháng của cơ thể cũng
như của đáp ứng miễn dịch. Cảm nhiễm tinh trùng, trứng, phôi, thai dẫn đến vô sinh,
giảm số lượng con đẻ ra hoặc sản lượng trứng, đẻ thai chết hoặc con chết non, nhưng
trong nhiều trường hợp ở động vật mẹ cũng như các động vật thành thục khác trong đàn
không nhận thấy sự bất thường. Cảm nhiễm parvovirut, enterovirut, bệnh viêm não Nhật
bản ở lợn, cảm nhiễm adenovirut và virut viêm não tủy gà thuộc dạng này. Nhiều bệnh
truyền nhiễm đường ruột đa phát với tỷ lệ chết cao ở kỳ sơ sinh nhưng tuổi càng cao thì
tỷ lệ bệnh cũng như tỷ lệ chết giảm hẳn.
Khi tuổi càng tăng dạng bệnh cũng thường thấy thay đổi. Cảm nhiễm E. coli ở lợn
phát chứng bại huyết ở lợn sơ sinh, bệnh ỉa chảy phân trắng ở kỳ bú sữa, bệnh phù (bệnh
phù đầu) ở kỳ sau cai sữa, nhưng ở lợn trưởng thành thấy phát bệnh cục bộ như bệnh
viêm phổi, viêm khớp, viêm vú,... Cảm nhiễm Salmonella gây sẩy thai ở ngựa con
thường phát bệnh bại huyết và viêm đa khớp, ở ngựa trưởng thành gây nung mủ cục bộ,
còn ở ngựa chửa thường gây sẩy thai, tuổi càng cao bệnh càng trở nên cục bộ.
Sự phát sinh bệnh viêm dạ dày - ruột truyền nhiễm (TGE) ở một trại nuôi lợn tập
trung thường kéo dài 2 - 3 tuần. Nguyên nhân là miễn dịch trong đàn phát triển nhanh do
cảm nhiễm lan rộng nhanh. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp của trại chăn nuôi lợn sinh
sản và lợn vỗ béo quy mô lớn dịch cấp tính kéo dài ít nhất là 2 năm. Virut phát triển trong
động vật non mẫn cảm, còn những động vật này khi trưởng thành với mức độ thụ cảm
nhất định trở thành vật mang trùng và là nguồn bệnh cảm nhiễm lưu cửu trong đàn. Khi
có động vật non sơ sinh với độ cảm thụ cao hơn thì virut lại tiếp tục phát triển làm cho
quá trình dịch kéo dài. Do đó, gần đây chăn nuôi gà, lợn, bò tập trung thường cơ cấu đàn
theo độ tuổi. Điều này làm cho việc quản lý chăm sóc nuôi dưỡng thuận lợi hơn và có tác
dụng ức chế sự duy trì bệnh cảm nhiễm rất có hiệu quả.
2. Miễn dịch tập đoàn
Một khi bệnh truyền nhiễm phát sinh trong đàn động vật thụ cảm bệnh thường lan
rộng, nhưng một bộ phận không phát bệnh và tiếp tục sống qua vụ dịch. Điều này là do
khi bệnh lưu hành số cá thể động vật hồi phục và miễn dịch tăng, hình thành một bức
tường thành gồm những cá thể miễn dịch ngăn sự phát tán của dịch. Đối với việc tiêm
phòng vacxin phòng bệnh cũng vậy, hiệu quả phòng bệnh thường không đạt 100% nhưng
làm cho sự lưu hành bệnh dịch trở nên khó khăn. Hiện tượng đề kháng của toàn đàn như
vậy được gọi là miễn dịch đàn (herd immunity), miễn dịch tập đoàn hay miễn dịch quần
thể. Trong việc làm tăng tính miễn dịch cho đàn bằng tiêm vacxin người ta chỉ cần đạt
mục tiêu tạo được tỷ lệ đáp ứng miễn dịch có hiệu quả khoảng 70 - 80% cá thể.
Miễn dịch đàn thay đổi theo thời gian. Mức độ miễn dịch đàn do cảm nhiễm tự
nhiên giảm theo thời gian do miễn dịch cá thể giảm dần cùng với việc xuất hiện thế hệ
động vật mới không được miễn dịch. Khi miễn dịch tập đoàn hạ thấp đến một mức độ
nhất định thì bệnh lại lưu hành trở lại. Cũng có thể cho rằng sự biến hóa có tính chu kỳ
của dịch là do sự biến động của miễn dịch tập đoàn tạo ra.
Phương thức đánh giá miễn dịch đàn thông thường thông qua điều tra kháng thể.
Lấy huyết thanh một cách định kỳ, trắc định hiệu giá kháng thể, xác định tỷ lệ động vật
mang kháng thể, điều tra phân bố hiệu giá kháng thể là những công tác cần thiết cho việc
đánh giá miễn dịch đàn. Nhờ đo được sự biến động mức đề kháng nên có thể ước định
được nguy cơ phát sinh dịch. Dự báo dịch cúm ở người thường nhờ vào phương pháp
này. Trong các trại gà lớn, việc trắc định phân bố hiệu giá kháng thể do tiêm phòng
vacxin và trên cơ sở kết quả này đề ra kế hoạch tiêm phòng là việc làm thường gặp.
3. Vòng cảm nhiễm
Trong các trường hợp trong tập đoàn ở khu vực rộng gồm nhiều loại động vật thụ
cảm trong đó có các động vật hoang dã thường có hiện tượng bệnh cảm nhiễm truyền lan
thành chuỗi lây truyền giữa các động vật này, tạo thành vòng cảm nhiễm (infection
cycle). Vòng cảm nhiễm có tính địa lý do phụ thuộc chủng loại, phân bố và mật độ của
động vật thụ cảm trong hệ sinh thái nhất định. Trong trường hợp bệnh dịch tả lợn châu
Phi các loại ve bét ở châu Phi là ổ chứa mầm bệnh, virut tồn tại lưu cửu trong tập đoàn ve
bét. Ở tập đoàn lợn đã cảm nhiễm virut từ ve bét có thể còn xảy ra cảm nhiễm do tiếp xúc
và điều này làm cho vòng cảm nhiễm lan rộng. Tuy nhiên, do tỷ lệ chết cao và mật độ lợn
thấp nên dịch không thể duy trì. Lợn rừng hoặc những động vật hoang dã khác cũng bị
cảm nhiễm từ ve bét nhưng chúng duy trì virut lâu dài ở dạng ký chủ chung mạt (dead-
end host) và không trở thành nguồn bệnh. Ngược lại ở Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ve
bét và lợn là những ổ chứa virut. Ở khu vực này độc lực của virut đối với lợn giảm, virut
có thể lan truyền và duy trì trong đàn lợn. Điều này có được còn nhờ mật độ nuôi lợn ở
vùng này cao hơn ở châu Phi.
Ổ chứa virut viêm não Nhật Bản là lợn. Sau khi cảm nhiễm lợn mắc chứng virut
huyết nhiều ngày với hiệu giá virut cao, cho nên muỗi hút máu cảm nhiễm virut với tỷ lệ
cao nhiều ngày. Muỗi cảm nhiễm đốt người và động vật có vú (ngựa, bò, lợn, chuột,...)
làm những động vật này cũng bị cảm nhiễm. Tuy vậy, các loài động vật ngoài loài lợn
thường không mắc chứng virut huyết nên không thể làm cho muỗi trở nên mang virut. Do
đó vòng cảm nhiễm cũng bị cắt đứt. Lợn được coi là ký chủ khuyếch đại (host-amplifier)
của virut viêm não Nhật Bản, trong khi các loài động vật khác được coi là ký chủ chung
mạt (dead-end host) đối với virut này. Diệt muỗi (thả cá diệt ấu trùng muỗi,...) và gây
miễn dịch chủ động cho lợn có thể cắt được vòng cảm nhiễm bệnh viêm não Nhật Bản.
Đối với mầm bệnh dại ổ chứa mầm bệnh chủ yếu ở châu Âu là cáo, ở Bắc Mỹ là
chồn (skunk) còn ở Nam Mỹ là dơi hút máu, cho nên ở mỗi vùng có vòng cảm nhiễm với
những đặc trưng riêng. Do nguồn bệnh là động vật hoang dã nên bệnh dại khó bị chống
chế, cho đến nay vẫn còn có khuynh hướng lan rộng.
VI. Cơ chế và phương thức truyền bệnh
1. Cơ chế truyền mầm bệnh
Mầm bệnh cảm nhiễm không chỉ thích nghi với việc ký sinh trong cơ thể động vật
mà còn sự dịch chuyển từ động vật này sang động vật khác. Sự thích nghi của một vi sinh
vật đối với sự dịch chuyển và thay đổi cá thể ký chủ với cơ chế lây truyền tương ứng
cũng thiết yếu đối với việc duy trì tính liên tục của quá trình dịch. Thậm chí khi có mặt
của cả nguồn mầm bệnh cảm nhiễm và động vật thụ cảm cũng không xuất hiện được dịch
nếu không được bảo đảm quá trình truyền vi sinh vật mầm bệnh từ động vật bệnh (hay
mang trùng) sang động vật khỏe tức là không thực hiện quá trình truyền mầm bệnh.
Động lực tự nhiên làm cho loài vi sinh vật mầm bệnh dịch chuyển được từ động
vật nguồn bệnh sang động vật cảm thụ khỏe được thiết lập trong quá trình tiến hóa lâu dài
bảo đảm trường hợp lây nhiễm mới và tính liên tục của quá trình dịch gọi là cơ chế
truyền mầm bệnh. Cơ chế này bao gồm ba khâu (ba pha): 1) thải mầm bệnh từ cơ thể, 2)
tồn tại của mầm bệnh, trong đa số trường hợp, ở ngoại cảnh, và 3) xâm nhập của mầm
bệnh vào cơ thể ký chủ mới. Trong đa số trường hợp các bệnh truyền nhiễm cơ chế
truyền mầm bệnh diễn ra ở dạng ba pha này. Đặc điểm của quá trình truyền lây phụ thuộc
vào chỗ khu trú của mầm bệnh (ổ bệnh, hay ổ cảm nhiễm) trong cơ thể động vật bị cảm
nhiễm cũng như những con đường bài xuất mầm bệnh, còn sự xâm nhập vào cơ thể mới
được thực hiện thông qua cửa cảm nhiễm. Có những vi sinh vật bệnh nguyên có tính đơn
hướng, chúng chỉ ký sinh ở một tổ chức hoặc một cơ quan, chẳng hạn vi khuẩn bệnh
Johne (á lao) chỉ ký sinh ở đường ruột. Nhưng cũng có những bệnh nguyên có tính đa
hướng và tính toàn hướng, ký sinh ở nhiều hoặc ở tất cả các tổ chức, chẳng hạn, virut
dịch tả lợn, lở mồm long móng, vi khuẩn lao,... Tuy nhiên, chỉ những vị trí khu trú của vi
sinh vật trong cơ thể khả dĩ làm quá trình lây truyền mầm bệnh từ con vật bệnh sang vật
lành là có ý nghĩa dịch học.
Nơi khu trú đầu tiên của mầm bệnh trong cơ thể là kết quả hợp quy luật tiến hóa
thích nghi của vi sinh vật đối với sự ký sinh và thay đổi ký chủ. Tính đặc hiệu của nơi cư
trú đầu tiên quyết định con đường bài xuất của mầm bệnh khỏi cơ thể cũng như quy định
ngoại cảnh mà mầm bệnh bài xuất ra cũng như lây nhiễm con vật mới. Vì vậy, trong
những điều kiện giống nhau cơ chế truyền lây được thực hiện theo một dạng thức của
riêng mỗi loại mầm bệnh và điều đó bảo đảm tính đặc hiệu của dạng cơ chế truyền lây
đối với mỗi loại bệnh.
Trong cơ chế truyền lây các bệnh, các pha bài xuất và xâm nhập của mầm bệnh là
những bước diễn ra chỉ trong thời gian ngắn. Pha bài xuất mầm bệnh từ một cơ thể có thể
gắn với quá trình sinh lý (hô hấp, tiết nước bọt, đi tiêu, đi tiểu, bào mòn biểu bì,...) cũng
như các hiện tượng bệnh lý (ho, chảy nước mũi, nôn, tiêu chảy, sẩy thai,...) và còn cả quá
trình hút máu của các động vật chân đốt. Sự xâm nhập của vi sinh vật gây bệnh vào cơ
thể động vật thụ cảm có thể diễn ra bằng hai con đường: 1) qua các cơ quan hình ống
thông với bên ngoài, và 2) qua da và lớp niêm mạc. Do đó, mặc dù vi sinh vật bệnh
nguyên rất đa dạng, vị trí khu trú đặc hiệu của mầm bệnh chỉ giới hạn ở bốn hệ thống của
cơ thể: tiêu hóa, tuần hoàn, hô hấp và các lớp che phủ cơ thể. Do đó, với bệnh truyền
nhiễm của động vật, nhìn chung người ta phân biệt bốn phương thức truyền lây mầm
bệnh cảm nhiễm: phân - miệng, hô hấp, nhờ vector truyền lây và tiếp xúc.
Pha tồn tại của mầm bệnh bên ngoài cơ thể ở ngoại cảnh là giai đoạn dài nhất và
quan trọng nhất trong cơ chế lây truyền. Ở môi trường ngoài, mầm bệnh không chỉ được
bảo tồn mà còn cùng với các vật thể của giới tự nhiên vô sinh và hữu sinh (yếu tố chuyển
vận) có thể dịch chuyển và phát tán trên diện tích rộng lớn. Hơn nữa, việc lây truyền một
vi sinh vật bệnh nguyên từ cơ thể cảm nhiễm sang cơ thể khỏe trong đa số trường hợp
bệnh được thực hiện cùng với sự tham gia trực tiếp của môi trường ngoài bị ô nhiễm. Vì
vậy các yếu tố môi trường tham gia vào quá trình truyền lây của mầm bệnh được gọi là
các yếu tố truyền lây. Chúng bao gồm các vật thể vô sinh ô nhiễm các vi sinh vật bệnh
nguyên (thức ăn, nước, đất, không khí, chuồng trại, dụng cụ chăm sóc, xác chết,...).
Mặc dù nhiều vi sinh vật bệnh nguyên không có khả năng tồn tại lâu ngoài môi
trường, thời gian sống còn của chúng ở đó có thể đo bằng ngày, nhưng cũng có vi sinh
vật mầm bệnh tồn tại ở ngoại cảnh hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm. Điều này phụ
thuộc vào hàng loạt yếu tố mà trước hết là vào bản chất của mầm bệnh và đặc điểm của
môi trường ngoài. Trong phạm trù các yếu tố truyền lây mầm bệnh người ta chú trọng
đặc biệt đến các vật chuyển tải mầm bệnh, tức là các vật trung gian sống là các động vật
chân đốt (côn trùng và ve bét), cũng như các động vật hoang dã và gia súc. Việc vận
chuyển có thể được thực hiện một cách cơ giới, nếu giữa vật mang và mầm bệnh không
có mối liên hệ sinh học nào, và một cách đặc hiệu nếu có sự liên hệ sinh học nhất định
(sinh sản của ký sinh vật trong động vật mang). Trong trường hợp cuối (vận chuyển đặc
hiệu) các vật trung gian sinh học còn được gọi là ổ chứa mầm bệnh.
Trong cơ chế lây truyền mầm bệnh cảm nhiễm có thể có sự tham gia của một
hoặc một số yếu tố truyền lây. Tổ hợp các yếu tố tham gia vận chuyển mầm bệnh và
tương tác của chúng với động vật thụ cảm khỏe xác định đặc điểm quá trình dịch gọi là
các con đường truyền lây, hay con đường phát tán mầm bệnh cảm nhiễm. Trong dịch học
người ta phân biệt, một cách có cơ sở khoa học và có định hướng ứng dụng, bốn con
đường phát tán mầm bệnh cảm nhiễm: 1) nhờ tiếp xúc, 2) qua không khí, 3) thức ăn và
nước, và 4) nhờ vector truyền lây.
Sự lây lan của mầm bệnh từ cơ thể bệnh sang cơ thể khỏe không những là một
yếu tố cần thiết của quá trình sinh dịch, mà còn cần thiết cho sự tồn tại của mầm bệnh
trong thiên nhiên. Quá trình lây lan đó của bệnh cảm nhiễm do những quy luật nhất định
chi phối, Gramasepsky gọi là quy luật truyền bệnh hay cơ chế truyền mầm bệnh, như sau:
Nơi khu trú đầu tiên có tính chất chuyên biệt đối với từng loại mầm bệnh và ảnh
hưởng đến cách bài mầm bệnh ra khỏi cơ thể. Nếu nơi khu trú đầu tiên là phổi thì mầm
bệnh chỉ bài ra ngoài theo nước mũi, đờm; nếu là ruột thì bài ra ngoài theo phân; nếu là
máu thì chỉ ra khỏi cơ thể nhờ chân đốt hút máu.
Cách bài xuất mầm bệnh ra ngoài cơ thể quyết định nơi tồn tại của mầm bệnh ở
ngoại cảnh: nếu theo đờm, nước bọt thì mầm bệnh sẽ lưu lại ở không khí, nếu theo phân
thì sẽ lưu lại ở đất, nước, cây cỏ,...
Nơi tồn tại và khu trú đầu tiên của mầm bệnh quyết định phương thức mầm bệnh
xâm nhập vào cơ thể con vật khỏe. Thí dụ, nếu mầm bệnh ở trong không khí thì nó phải
xâm nhập qua đường hô hấp để về phổi.
Phương thức xâm nhập của mầm bệnh vào cơ thể phải đảm bảo cho nó tới được
nơi khu trú đầu tiên.
2. Phương thức truyền bệnh
Căn cứ vào nơi khu trú đầu tiên và chủ yếu là cách truyền mầm bệnh, có thể chia
ra hai nhóm phương thức truyền bệnh: trực tiếp và gián tiếp.
2.1. Phương thức truyền bệnh trực tiếp
Trong phương thức truyền bệnh này mầm bệnh được truyền thẳng từ con bệnh
sang con khỏe không phải thông qua các nhân tố trung gian. Ví dụ, trong bệnh dại
phương thức truyền lây chủ yếu là trực tiếp. Trong phương thức này, tính chất dây
chuyền giữa các con vật là yếu tố quan trọng duy trì dịch. Mầm bệnh của những bệnh lây
truyền trực tiếp thường là loại ký sinh bắt buộc, không thể sinh sản trong môi trường
nhân tạo được, và thường có sức đề kháng kém với ngoại cảnh.
2.2. Phương thức truyền bệnh gián tiếp
Trong phương thức này, mầm bệnh phải thông qua các nhân tố trung gian mới
truyền được bệnh. Có những bệnh bắt buộc phải lây gián tiếp, ví như các bệnh ký sinh
trùng đường máu. Trong các bệnh truyền gián tiếp, mầm bệnh có sức đề kháng tương đối
cao với ngoại cảnh, và có thể tồn tại một thời gian trên các nhân tố trung gian truyền
bệnh. Sức đề kháng của mầm bệnh càng cao thì thời gian tồn tại của nó trong ngoại cảnh
càng lâu, khả năng sinh dịch càng kéo dài, nhưng không ồ ạt, ác liệt, mà âm ỉ, dịch có
tính chất địa phương. Sức đề kháng của mầm bệnh càng yếu thì thời gian sống ở ngoại
cảnh càng ngắn nhưng dịch thường càng ồ ạt, lan rộng và biểu hiện rõ ràng.
Căn cứ vào cơ chế truyền bệnh, có thể chia ra bốn phương thức truyền bệnh
chính.
- Truyền theo đường tiêu hóa hay đường phân - miệng: Nơi khu trú đầu tiên của
mầm bệnh là ruột. Mầm bệnh bài ra ngoài theo phân, sống tạm thời ở ngoại cảnh trên các
nhân tố trung gian như thức ăn, nước uống, đất, ruồi nhặng,... rồi xâm nhập vào đường
tiêu hóa chủ yếu theo thức ăn, nước uống. Đường truyền bệnh này là đường từ phân tới
miệng.
- Truyền theo đường hô hấp: Nơi khu trú đầu tiên là phổi. Mầm bệnh theo nước
bọt, nước mũi bắn ra ngoài, sống trong không khí, rồi lại xâm nhập vào phổi khi con vật
hít phải, đường truyền bệnh này còn gọi là đường không khí - mũi.
- Truyền bệnh theo đường máu: Nơi khu trú đầu tiên là máu. Mầm bệnh từ máu
súc vật bệnh, được các động vật chân đốt trung gian hút máu hút ra theo máu vào ống
tiêu hóa của chúng, sống một thời gian dài trong những động vật chân đốt này và được
truyền vào máu súc vật khỏe khi chúng bị động vật chân đốt mang mầm bệnh chích hút.
Đường truyền bệnh này là đường máu - động vật chân đốt hút máu - máu.
- Truyền bệnh qua da và niêm mạc: Do có nhiều nơi khu trú đầu tiên nên có nhiều
đường truyền bệnh và nhiều loại nhân tố trung gian truyền bệnh.
Dựa vào các phương thức truyền bệnh, người ta có thể phân loại bệnh truyền
nhiễm theo các nhóm bệnh nhất định, và nhờ phân loại theo quan điểm dịch học này
chúng ta có thể đề ra những phương hướng và các biện pháp phòng trừ thích hợp với từng
loại bệnh.
3. Các giai đoạn của quá trình dịch bệnh cảm nhiễm
Quá trình dịch có tính quy luật. Bản chất sinh học của quá trình dịch bị chi phối
bởi tính đặc hiệu của tác động qua lại của các yếu tố chính của nó. Một quá trình dịch có
thể tiếp tục dài bất tận nếu ba khâu của nó là nguồn bệnh, cơ chế truyền lây và động vật
thụ cảm tồn tại và tương tác qua lại. Các khâu nêu trên của một chuỗi dịch bảo đảm
không chỉ sự xuất hiện mà còn sự phát triển tiếp theo của quá trình dịch, nghĩa là trở
thành động lực của quá trình dịch.
Các động lực của một quá trình dịch có những mối tương tác phức tạp đặc trưng.
Chẳng hạn, động vật bị cảm nhiễm
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- c2_7835.pdf