Doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn về triển vọng kinh tế

Bên cạnh đó, 70% doanh nghiệp xem tài chính -chi

phí là vấn đề đau đầu nhất trong khi 46% và 40%

quan tâm đến vấn đề lãi suất tín dụng và áp lực cạnh

tranh.

23% doanh nghiệp cho rằng họ cần hỗ trợ tài chính

để nâng cấp công nghệ và trang thiết bị, 19% mong

muốn Chính phủ có chính sách hỗ trợ thương hiệu

hàng Việt Nam.

pdf8 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn về triển vọng kinh tế, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Doanh nghiệp nhỏ và vừa nhìn về triển vọng kinh tế Kết quả khảo sát thường niên về tình hình hoạt động kinh doanh ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương vừa được công ty chuyên về vận tải, kho vận UPS công bố hồi tuần rồi cho thấy các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) của Việt Nam có cái nhìn lạc quan về triển vọng phát triển kinh doanh trong khu vực và các vùng khác trên thế giới. Lạc quan Cuộc khảo sát do Công ty Nghiên cứu thị trường TNS, đối tác của UPS, thực hiện trong tháng 3 và tháng 4 năm nay. Đối tượng của cuộc khảo sát là các DNNVV của 13 thị trường trong khu vực châu Á-Thái Bình Dương. Tuy nhiên, đây là lần đầu tiên các doanh nghiệp Việt Nam tham gia cuộc khảo sát. Phạm vi khảo sát bao gồm tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế như điện-điện tử, xây dựng, thực phẩm đồ uống, dịch vụ, máy móc, sản xuất, ô tô, dệt và may mặc, công nghệ thông tin, du lịch và khách sạn, chăm sóc sức khỏe-dược phẩm. Có 100 DNNVV của Việt Nam tham gia cuộc khảo sát, chủ yếu tại TPHCM và Hà Nội. Khi được hỏi về triển vọng phát triển kinh tế của khu vực cũng như của chính bản thân các doanh nghiệp, 59% doanh nghiệp cho rằng kinh tế khu vực châu Á-Thái Bình Dương sẽ tiếp tục phát triển, khoảng 9% cho rằng nền kinh tế khu vực có chiều hướng đi xuống và 32% còn lại cho rằng mức tăng trưởng kinh tế sẽ vẫn giữ nguyên. Trong khi đó, 58% doanh nghiệp cho rằng kinh doanh quốc tế có những tác động rất tích cực và mở ra nhiều cơ hội mới cho hoạt động kinh doanh của họ. Ông Jeff McLean, Tổng giám đốc UPS Việt Nam, cho biết: “Qua cuộc khảo sát, chúng tôi nhận thấy 86% chủ doanh nghiệp ở Việt Nam khẳng định những DNNVV sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong tương lai nền kinh tế quốc gia”. Cũng theo kết quả cuộc khảo sát, Việt Nam là thị trường lạc quan thứ nhì trong khu vực về triển vọng phát triển kinh doanh trong năm 2010 với 72% doanh nghiệp được khảo sát cho rằng công ty của họ sẽ hoạt động tốt hơn trong năm nay. Mặc dù 90% DNNVV Việt Nam chú trọng vào việc kinh doanh tại thị trường châu Á-Thái Bình Dương, nhưng họ vẫn trông đợi vào sự tăng trưởng ở các thị trường khác. Khoảng 81% doanh nghiệp tham gia khảo sát dự đoán những hoạt động kinh doanh trong khu vực của Việt Nam trong năm nay vẫn sẽ tăng trưởng. Song song đó, hoạt động kinh doanh ở thị trường Bắc Mỹ sẽ tăng 61% so với năm trước, thị trường châu Âu sẽ tăng 60%. Tuy nhiên, bên lề buổi công bố kết quả cuộc khảo sát, ông McLean cho rằng trong quá trình tổng hợp ý kiến, quan điểm, thái độ và góc nhìn của các chủ doanh nghiệp tại Việt Nam, bên cạnh những cái nhìn lạc quan vẫn còn có những lo lắng nhất định. Khoảng 61% doanh nghiệp cho biết có ý định cắt giảm nhân lực. Không có doanh nghiệp nào có kế hoạch tăng cường nguồn nhân lực. “Tôi thấy trong thời gian này dường như họ vẫn còn lo lắng. Các doanh nghiệp vẫn đang cố gắng phát huy nội lực hiện có, chờ thời cơ đến mới tính đến chuyện phát triển, mở rộng”, ông nói. Còn đó những lo lắng Bên cạnh đó, 70% doanh nghiệp xem tài chính - chi phí là vấn đề đau đầu nhất trong khi 46% và 40% quan tâm đến vấn đề lãi suất tín dụng và áp lực cạnh tranh. 23% doanh nghiệp cho rằng họ cần hỗ trợ tài chính để nâng cấp công nghệ và trang thiết bị, 19% mong muốn Chính phủ có chính sách hỗ trợ thương hiệu hàng Việt Nam. Riêng các doanh nghiệp đang gặp phải vấn đề về tài chính thì 45% cho biết nguyên do xuất phát từ việc chậm trễ trong việc xử lý giấy tờ của các ngân hàng, tiếp đến là việc các tổ chức tài chính không sẵn lòng giúp đỡ các DNNVV (khoảng 25%). Sự bền vững và tính cạnh tranh trong kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam cũng là vấn đề. Theo kết quả cuộc khảo sát, độ tuổi trung bình của các DNNVV chỉ là sáu năm, trong khi các quốc gia khác trong khu vực có độ tuổi 15 năm trở lên. “Điều này cũng phản ánh mức độ cạnh tranh không cao của doanh nghiệp”, ông Mc Lean cho biết. “Các doanh nghiệp trong khu vực chỉ đánh giá mức độ cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam đứng thứ 3 từ dưới lên”. Để duy trì sức cạnh tranh của các DNNVV Việt Nam, cần nhiều hơn nữa những hỗ trợ của Chính phủ, từ những chính sách hỗ trợ cho đến hạ tầng cơ sở, giao thông, thủ tục pháp lý… Từ góc nhìn của bản thân các doanh nghiệp Việt Nam, 31% cho rằng dịch vụ và chất lượng sản phẩm là chìa khóa để giúp họ cạnh tranh với các công ty lớn, 29% cho rằng yếu tố giúp họ chiếm lợi thế hơn các công ty lớn là mối quan hệ thân thiết, bền chặt hơn với khách hàng, đối tác và 17% cho rằng mức giá họ đưa ra cho các sản phẩm và dịch vụ là tốt hơn. Khi được hỏi về những điểm cần thay đổi trong chuỗi cung ứng nhằm góp phần thúc đẩy kinh doanh, 31% DNNVV Việt Nam cho biết sẽ cắt giảm chi phí giao thông và phân phối, 21% nghĩ rằng sẽ chuyển những trạm cung ứng đến gần điểm đến cuối cùng hơn. Sự phát triển kinh tế nhanh chóng của Việt Nam kéo theo nhu cầu đầu tư vào cơ sở hạ tầng tăng cao nên xây dựng vẫn sẽ là ngành có tốc độ phát triển cao. 53% DNNVV Việt Nam tin rằng ngành xây dựng-địa ốc vẫn là ngành mũi nhọn trong năm nay; tiếp theo là công nghệ thông tin (36%) và du lịch (28%). Khi được hỏi về những trụ cột kinh tế của Việt Nam trong 3-5 năm tiếp theo, kết quả thu được chỉ ra rằng xây dựng vẫn là lựa chọn hàng đầu với 53% ý kiến, tiếp theo là nông lâm ngư nghiệp (29%), du lịch (29%) và công nghệ thông tin (26%). Ông McLean cho biết: “Kết quả cuộc khảo sát cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam rất cần sự hỗ trợ từ phía Chính phủ để phát triển, giúp các thương hiệu của Việt Nam thực sự có chỗ đứng trong thị trường khu vực nói riêng và thị trường toàn cầu nói chung trong những năm tới”.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf6_1268.pdf