Đội du kích âu cơ của chiến khu Vần - Hiền Lương trong cách mạng tháng tám 1945

Buổi chiều cùng ngày, Ban cán sự Đảng họp

quyết định thành lập Uỷ ban quân sự cách

mạng. Đồng chí Bình Phương được cử làm

Chỉ huy trưởng, đồng chí Ngô Minh Loan làm

Chính uỷ, đồng chí Trần Đức Sắc làm uỷ

viên. Uỷ ban quân sự cách mạng có nhiệm vụ

chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức

các hoạt động quân sự làm nòng cốt cho

phong trào quần chúng, tiến tới khởi nghĩa

giành chính quyền.

Hai chiến thắng liên tiếp của Đội du kích Âu

Cơ đã làm nức lòng nhân dân địa phương, có

tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng

Nhật cứu nước ở vùng căn cứ cũng như nhiều

nơi khác. Quần chúng hăng hái quyên góp,

ủng hộ cách mạng. Hàng trăm thanh niên các

xã tình nguyện vào du kích. Chỉ trong thời

gian ngắn, Đội du kích Âu Cơ đã lên tới 230

người, đóng quân tại làng Vần, tiếp tục củng

cố và phát triển lực lượng. Các làng trong khu

căn cứ Vần - Hiền Lương đều lập hệ thống

báo động dây chuyền, đảm bảo an toàn cho

khu căn cứ.

pdf6 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 530 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đội du kích âu cơ của chiến khu Vần - Hiền Lương trong cách mạng tháng tám 1945, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Nguyễn Thị Thương Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 79 - 84 79 ĐỘI DU KÍCH ÂU CƠ CỦA CHIẾN KHU VẦN - HIỀN LƯƠNG TRONG CÁCH MẠNG THÁNG TÁM 1945 Nguyễn Thị Thương Huyền* Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên TÓM TẮT Bài báo trình bày hoàn cảnh ra đời và hoạt động của Đội du kích Âu Cơ trong Chiến khu Vần – Hiền Lương thời kì vận động Cách mạng tháng Tám. Thông qua các tư liệu lịch sử được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau, bài báo nêu bật sự hoạt động tích cực của Đội du kích. Cũng chính từ đó, Đội du kích Âu Cơ nhanh chóng trưởng thành và đóng vai trò quan trọng trong những ngày khởi nghĩa giành chính quyền ở địa phương. Từ kết quả nghiên cứu, có thể rút ra một số nhận xét về Đội du kích Âu Cơ: 1 - Đội du kích Âu Cơ cùng lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân đã tạo thành sức mạnh to lớn, có tác dụng thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương phát triển nhanh chóng. 2 - Đội du kích Âu Cơ là lực lượng chủ yếu, quyết định trong việc bảo vệ chiến khu Vần - Hiền Lương. 3 - Đội du kích Âu Cơ đã tạo thế, hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền thắng lợi ở hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái. Đội quân này còn tiếp tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Từ khóa: Đội du kích Âu Cơ; Chiến khu Vần – Hiền Lương; Lương Ca, Giới Phiên, Động Lâm Thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 đã đưa nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Nước ta từ xã hội thuộc địa nửa phong kiến, trở thành một nước độc lập, có chủ quyền. Một kỉ nguyên mới được mở ra trong lịch sử dân tộc Việt Nam - Kỉ nguyên độc lập, tự do. * Một trong những yếu tố quyết định thắng lợi Cách mạng tháng Tám năm 1945 là do Đảng ta biết dựa vào nông thôn, miền núi để thành lập căn cứ địa. Ngoài Khu giải phóng gồm 6 tỉnh ở vùng Việt Bắc và các Chiến khu Đông Triều, Hoà - Ninh - Thanh, Ba Tơ..., còn có Chiến khu Vần - Hiền Lương ở vùng rừng núi Tây Bắc. Về vấn đề này, đã có một số công trình được công bố: “Chiến khu Âu Cơ” của Nguyễn Hiếu, “Những ngày Cách mạng tháng Tám” của Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ Vĩnh Phú, “Vần - Hiền Lương, Một căn cứ cách mạng ở miền Tây Bắc” của Nguyễn Văn Khánh - Trần Danh Tiên, đăng trên tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 2, quí III - IV, 1993. Tuy nhiên, các bài viết này mới chỉ đề cập khái quát về Đội du kích Âu Cơ, còn chủ yếu tập trung nghiên cứu về Chiến khu Vần - Hiền Lương. * E-mail: ntthuyen.txtp@gmail.com Với tư cách là người đầu tiên tìm hiểu có tính hệ thống, cụ thể, toàn diện về sự ra đời, hoạt động của Đội du kích Âu Cơ thời kì vận động cách mạng tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền ở Chiến khu Vần - Hiền Lương, tác giả hy vọng dựng lại bức tranh toàn cảnh về lực lượng vũ trang của Chiến khu Vần - Hiền Lương trong Cách mạng tháng Tám 1945. Vần - Hiền Lương là nơi có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng, có địa hình hiểm trở, núi cao bao bọc, có nhiều thuận lợi cho việc thực hiện chiến tranh du kích, lấy ít địch nhiều. Nhân dân các dân tộc khu Vần - Hiền Lương giàu lòng yêu nước, có truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất, đã từng tích cực hưởng ứng phong trào yêu nước chống Pháp cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX, nên đều hết lòng ủng hộ và tham gia cách mạng. Khu vực Vần - Hiền Lương nằm bên hữu ngạn sông Hồng, giáp ranh giữa hai tỉnh Yên Bái và Phú Thọ, là vùng chuyển tiếp giữa miền Tây Bắc với trung du Bắc Bộ. Đây là vùng đất thuộc khu vực Bắc tỉnh Phú Thọ, Nam tỉnh Yên Bái, tiếp giáp với 3 huyện: Văn Chấn, Trấn Yên (tỉnh Yên Bái) và Hạ Hoà (tỉnh Phú Thọ), bao gồm các xã: Linh Thông, Hạ Bằng La, Đồng Yếng, Bình Trà, Vân Hội, Vần (Trấn Yên - Yên Bái) và xã Hiền Lương (Hạ Hoà - Phú Thọ) [8, tr.24-44]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Thương Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 79 - 84 80 Trước đây, theo địa danh cũ, khu Vần - Hiền Lương nằm trên địa bàn của 3 tổng: Lương Ca, Giới Phiên (thuộc Trấn Yên - Yên Bái), Động Lâm (thuộc Hạ Hoà - Phú Thọ). Dân số trước Cách mạng tháng Tám khoảng 1 vạn người, gồm 3 dân tộc: Kinh, Tày, Dao. Khu Vần - Hiền Lương là vùng rừng núi trùng điệp, xung quanh có các dãy núi cao bao bọc, tạo nên một phòng tuyến thiên nhiên hùng vĩ. Từ khu Vần - Hiền Lương có thể đi các huyện của tỉnh Phú Thọ, về các tỉnh miền đồng bằng Bắc Bộ, đi Thanh Bồng, vào Ba Khe, Cửa Nhì, Nghĩa Lộ, vào Ngọc Chiến, Phù Yên (Sơn La). Dọc theo Ngòi Lao (hoặc Ngòi Vần) có thể ra sông Hồng, xuôi về Hạ Hoà, Yên Lập, Đồn Vàng (Phú Thọ), rồi rẽ sang ga Đoan Thượng; một đường khác đi Phú Nhuận, Bảo Long ra Ngòi Tranh sang Yên Bái. Từ những con đường này có thể thông sang sông Hồng - một đường thuỷ quan trọng của Bắc Bộ, hay nối với đường xe lửa Hà Nội - Lào Cai và Quốc lộ 13A. Hai làng Hiền Lương và Nang Sa ở ven sông Hồng trở thành một vành đai rộng và bằng phẳng của vùng Vần - Hiền Lương... Địa thế này rất thuận lợi cho việc xây dựng căn cứ địa cách mạng. Từ năm 1943, Vần - Hiền Lương đã trở thành một cơ sở cách mạng. Đầu năm 1945, phong trào Việt Minh phát triển mạnh ở Vần và có ảnh hưởng rộng lớn ra các khu vực xung quanh. Sau khi thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú - Yên thì Vần - Hiền Lương trở thành chiến khu cách mạng. Cũng từ đó, vấn đề xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng trở thành một yêu cầu bức thiết. Quán triệt Nghị quyết Hội nghị quân sự cách mạng Bắc Kì (4/1945), đáp ứng yêu cầu cách mạng ở địa phương, ngày 14/5/1945, tại chùa Hiền Lương (Hạ Hoà - Phú Thọ), đội du kích tập trung của khu căn cứ Vần - Hiền Lương được thành lập, lấy tên là Đội du kích Âu Cơ, gồm 23 cán bộ và chiến sĩ, do đồng chí Bình Phương làm Đội trưởng, đồng chí Ngô Minh Loan phụ trách chính trị. Vũ khí trang bị của Đội có 1 trung liên, 1 súng lục, 11 súng trường và các loại vũ khí thô sơ khác, như gậy, dao găm, mã tấu... [4,tr.37]. Ra đời từ trong cao trào cách mạng sục sôi của cả nước, lại được nhân dân địa phương hết lòng đùm bọc, nuôi dưỡng, Đội du kích Âu Cơ phát triển rất nhanh chóng. Từ hơn 20 cán bộ, chiến sĩ trong ngày đầu thành lập, chỉ nửa tháng sau, quân số của Đội đã tăng lên 127 người, phần lớn là thanh niên các dân tộc Kinh, Tày, được phiên chế thành 4 trung đội [4, tr.38-39]. Ngay sau khi ra đời, Đội du kích Âu Cơ đã bước vào luyện tập quân sự, đồng thời tổ chức chiến đấu bảo vệ chiến khu. Ngày 19/6/1945, Tri phủ Trấn Yên An Văn Tùng và tên chỉ huy lính bảo an - Quản Khoát chỉ huy 50 lính bảo an theo đường Ngòi Chanh vào làng Vần - trung tâm khu căn cứ, lùng sục hòng "Tiễu trừ Việt Minh". Vào đến Vần, chúng đóng quân tại nhà Chánh tổng Trần Đình Khánh (cơ sở của ta) [1, tr.55]. Nhận được mật báo của Chánh tổng Trần Đình Khánh, ban lãnh đạo Đội du kích đã bàn bạc, thống nhất kế hoạch đánh địch với quyết tâm giành thắng lợi ngay từ trận đầu. Đội du kích nhanh chóng di chuyển lực lượng từ Đồng Yếng vào Vần tổ chức mai phục. Rạng sáng ngày 20/6/1945, Đội du kích bất ngờ nổ súng tiến đánh bằng nhiều mũi bao vây giáp công. Bị tấn công bất ngờ, địch hoảng loạn bỏ vũ khí tháo chạy lên khu rừng sau nhà. Ta bao vây gọi hàng và buộc viên Tri phủ An Văn Tùng phải chấp nhận 3 điều kiện: - Một là, không được khủng bố và đàn áp phong trào cách mạng. - Hai là, trả lại tiền thuế đã thu của dân. - Ba là, trả tự do cho các chiến sĩ cách mạng hiện còn đang bị giam giữ [1, tr.55-56]. Biết không thể trốn thoát, Tri phủ An Văn Tùng và Quản Khoát đã đầu hàng và cam kết thực hiện các điều kiện của ta đề ra. Tiếp đó, ta cho chúng về phủ, không tước vũ khí của chúng để bọn Nhật khỏi nghi ngờ. Phần lớn lính bảo an được thả đều hiểu chính sách khoan hồng của Việt Minh nên đã tích cực tuyên truyền gây thanh thế và làm tăng thêm uy tín của Việt Minh. Một tuần lễ sau, chi bộ thị xã Yên Bái vận động quần chúng đấu Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Thương Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 79 - 84 81 tranh buộc viên Tri phủ Trấn Yên phải trả tự do cho 3 cán bộ của ta (trong đó có đồng chí Nguyễn Phúc, sau này là Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh Yên Bái). Trận đầu ra quân đánh thắng của Đội du kích Âu Cơ đã gây được niềm phấn khởi và tin tưởng trong nhân dân đối với lực lượng cách mạng. Nhân dân trong khu căn cứ và các làng lân cận, như Đại Lịch, Lương Tâm, Lương An... tích cực ủng hộ gạo, tiền và các vật phẩm khác cho bộ đội, du kích. Uy tín của Đội du kích ngày càng tăng. Lính dõng ở các tổng Lương Ca, Giới Phiên, Động Lâm đã tự động mang súng về hàng, một số xin gia nhập Đội du kích. Một số thanh niên thị xã cũng sang khu du kích xin tham gia lực lượng vũ trang cách mạng. Lo sợ trước sự lớn mạnh của Đội du kích Âu Cơ, ngày 25/6/1945, một trung đội phát xít Nhật do viên quan hai chỉ huy, cùng với một tên thông ngôn người Việt, theo đường số 13 Yên Bái - Nghĩa Lộ tiến vào Mỵ, Thanh Bồng để càn quét. Sau hai ngày lùng sục không phát hiện được gì, ngày 27/6/1945, chúng hành quân ra Vần để đi Hiền Lương. Đoán được ý đồ của địch, Ban chỉ huy Đội du kích chiến khu quyết định bố trí lực lượng phục kích tại gò Vải, chân Đèo Giang - một vị trí hiểm trở nằm án ngữ đoạn ngòi Vần từ Vân Hội ra Hiền Lương. Đoạn ngòi này có mực nước sâu, một bên bờ dốc đứng, nước xoáy. Gò Vải được chọn làm nơi đặt trung liên, từ trên gò cao này nhìn xuống có thể quan sát suốt 1 km mặt ngòi, rất thuận tiện cho việc theo dõi nhất cử nhất động của địch khi chúng lọt vào trận địa mai phục. 16 giờ ngày 27/6/1945, khi 3 thuyền địch xuất hiện, đợi chúng lọt sâu vào trận địa phục kích, quân ta nổ súng theo hiệu lệnh. Bị bất ngờ, bọn địch trên sông rối loạn, không kịp ứng phó. Trận đánh chỉ diễn ra chớp nhoáng trong vòng 10 phút, kết quả ta tiêu diệt được 4 tên Nhật, trong đó có viên quan hai chỉ huy. Du kích không ai bị thương. Quân ta rút lui an toàn về Đồng Yếng. Ngày 28/6/1945, quân Nhật rút ra ga Đoan Thượng để đi tàu về Yên Bái [1, tr.56-57]. Sáng 30/6/1945, lễ mừng chiến thắng được tổ chức tại đình làng Hiền Lương, có đông đảo đại diện các tầng lớp nhân dân trong vùng tham dự, đồng chí Ngô Minh Loan thông báo quyết định của Xứ uỷ Bắc Kì về việc thành lập Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú Thọ - Yên Bái (Phú - Yên). Buổi chiều cùng ngày, Ban cán sự Đảng họp quyết định thành lập Uỷ ban quân sự cách mạng. Đồng chí Bình Phương được cử làm Chỉ huy trưởng, đồng chí Ngô Minh Loan làm Chính uỷ, đồng chí Trần Đức Sắc làm uỷ viên. Uỷ ban quân sự cách mạng có nhiệm vụ chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ trang, tổ chức các hoạt động quân sự làm nòng cốt cho phong trào quần chúng, tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Hai chiến thắng liên tiếp của Đội du kích Âu Cơ đã làm nức lòng nhân dân địa phương, có tác dụng cổ vũ mạnh mẽ phong trào kháng Nhật cứu nước ở vùng căn cứ cũng như nhiều nơi khác. Quần chúng hăng hái quyên góp, ủng hộ cách mạng. Hàng trăm thanh niên các xã tình nguyện vào du kích. Chỉ trong thời gian ngắn, Đội du kích Âu Cơ đã lên tới 230 người, đóng quân tại làng Vần, tiếp tục củng cố và phát triển lực lượng. Các làng trong khu căn cứ Vần - Hiền Lương đều lập hệ thống báo động dây chuyền, đảm bảo an toàn cho khu căn cứ. Đầu tháng 7 năm 1945, Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú - Yên chủ trương: "1. Gấp rút xây dựng lực lượng chính trị, tổ chức các đoàn thể Cứu quốc, củng cố vững chắc khu căn cứ cách mạng, từ đó mở rộng ra các vùng khác. 2. Các đội du kích tập trung tổ chức thành các trung đội, chỉ để lại một bộ phận nhỏ bảo vệ căn cứ, còn phần lớn tiến vào Văn Chấn hoạt động, tạo địa bàn tiến lên Than Uyên, Văn Bàn, Phù Yên. Trong hoạt động, các trung đội vũ trang lấy tuyên truyền xung phong làm chủ yếu, vận động hỗ trợ dân phá kho thóc của giặc, thuyết phục chính quyền tay sai Nhật các cấp tự giải tán. 3. Nhanh chóng thành lập Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời các xã trong khu căn cứ và vùng mới giải phóng, tổ chức đội du kích, tự vệ ở những nơi đó." [5, tr.206-207]. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Thương Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 79 - 84 82 Thực hiện chủ trương trên, Uỷ ban quân sự cách mạng Phú - Yên đã tập trung vào việc huấn luyện chiến thuật tác chiến cho tự vệ, củng cố và phát triển các đội tự vệ thôn xã, gấp rút xây dựng các đội du kích. Phong trào tập luyện quân sự diễn ra rầm rộ, đặc biệt là trong vùng chiến khu cách mạng. Công cuộc chuẩn bị khởi nghĩa ngày càng khẩn trương. Vấn đề giành chính quyền về tay nhân dân được đặt ra trực tiếp. Ngay từ cuối tháng 6/1945, ta đã giải phóng vùng phía nam hữu ngạn phủ Trấn Yên, trong đó có tổng Lương Ca, hầu hết các bản người Tày đã có cơ sở từ trước. Đầu tháng 7/1945, từ làng Vần, Đội du kích Âu Cơ nhận nhiệm vụ tiến vào giải phóng châu Văn Chấn. Ngoài lực lượng ở lại làm nhiệm vụ bảo vệ chiến khu, các lực lượng vũ trang được tổ chức thành 9 trung đội, chia thành 3 cánh quân tiến vào Nghĩa Lộ: - Cánh quân thứ nhất qua làng Đồng Phú ra Đá Trắng, do đồng chí Đoàn Năng Cự, Lê Đức Hoa chỉ huy. - Cánh quân thứ hai qua Vần, Dọc, Thiến, Kháo, sang Ca Vịnh, do đồng chí Trương Văn Tiến chỉ huy. - Cánh quân thứ ba theo đường Vần, Dọc, qua Mỵ, do đồng chí Trần Đức Sắc chỉ huy. Trước sức mạnh tiến công của lực lượng vũ trang cách mạng, lính bảo an ở các đồn Lương Tàm, Ca Vịnh rút chạy. Ta thu được 27 khẩu súng trường địch bỏ lại. Kết hợp với nhiệm vụ vào giải phóng Văn Chấn - Nghĩa Lộ, du kích đã phá kho thóc của giặc Nhật ở Mỵ, thu được 500 tấn, Ca Vịnh 500 tấn, Sơn Lục 100 tấn, Bản Hóc và Gốc Báng 1.000 tấn đem chia cho dân nghèo [4, tr.42]. Ngày 6/7/1945, Đội du kích tiến vào giải phóng châu Văn Chấn, thu hồi toàn bộ sổ sách, giấy tờ của chính quyền địch cùng 60 súng trường, 14 hòm đạn và kho thóc 1.000 tấn. Bộ máy chính quyền tay sai của Nhật bị xoá bỏ. Ngày 8/7/1945, Uỷ ban nhân dân lâm thời châu Văn Chấn được thành lập [1, tr.59]. Sau ngày giải phóng Văn Chấn - Nghĩa Lộ, Ban cán sự Đảng liên tỉnh Phú - Yên quyết định thành lập một đoàn cán bộ xuống xây dựng chính quyền các xã, tổ chức huấn luyện quân sự, chính trị cho đội du kích tập trung. Tại Cửa Nhì (Ba Khe) một lớp huấn luyện đào tạo Tiểu đội trưởng được mở cấp tốc trong 15 ngày. Lực lượng vũ trang cách mạng có sự phát triển mới về chất và lượng. Đội du kích Âu Cơ phát triển lên đến 500 người, với 300 súng các loại [4,tr.43]. Đây là lực lượng vũ trang cách mạng mạnh nhất ở vùng Tây Bắc lúc bấy giờ. Trước thời cơ thuận lợi của cách mạng, ngày 20/7/1945, Đội du kích đánh chiếm Đồn Vàng - nơi đóng quân của lính bảo an. Tiếp đó, một cánh quân vượt đèo Lũng Lô sang địa phận tỉnh Sơn La, lần lượt giải phóng các châu Phù Yên (23/7/1945), Văn Bàn (5/8/1945), Than Uyên (7/8/1945). Như vậy, đến trung tuần tháng 8/1945, toàn bộ miền tả ngạn sông Hồng thuộc phủ Trấn Yên đã xoá bỏ sự thống trị của phát xít Nhật và chính quyền tay sai, lập chính quyền cách mạng lâm thời. Trên địa bàn tỉnh Yên Bái, châu Lục Yên cũng được giải phóng ngày 8/7/1945, Yên Bình (9/8/1945). Quân Nhật và tay sai co cụm về thị xã. Ở phía Bắc Phú Thọ, một loạt các huyện, xã giành được chính quyền: Hạ Hoà (2/8), Cẩm Khê (17/8), Yên Lập (18/8)... [7, tr.76]. Khí thế cách mạng dâng cao, quần chúng nhân dân ở khắp nơi trong tỉnh Yên Bái, Phú Thọ nhất loạt nổi dậy giành chính quyền. Đầu tháng 8/1945, Đội du kích Âu Cơ đổi tên thành Chi đội Trần Quốc Toản, có nhiệm vụ bảo vệ chiến khu, đồng thời chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở thị xã Yên Bái và Phú Thọ. Ở Yên Bái, các châu, phủ quanh thị xã đã khởi nghĩa giành thắng lợi, thành lập chính quyền cách mạng. Thị xã Yên Bái là nơi cố thủ cuối cùng của quân Nhật và chính quyền tay sai do chúng lập ra. Bên trong thị xã, quân Nhật và tay sai hoang mang, dao động. Tri phủ An Văn Tùng cũng đã ngả hẳn về phía cách mạng. Nhiều lính bảo an bỏ hàng ngũ về đầu quân cho cách mạng. Lực lượng còn lại của địch ngày càng mỏng và yếu, một số lính còn trụ lại ở đồn Cao, một vài vị trí lẻ ở Toà Sứ, Trại Bảo an. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Thương Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 79 - 84 83 Trong khi đó, Đội du kích Âu Cơ (lúc này đã được đổi tên thành Chi đội Trần Quốc Toản), quân số đã phát triển lên gần 800 người, biên chế thành 6 đại đội - do đồng chí Trần Đức Sắc chỉ huy, đồng chí Bình Phương phụ trách về chính trị, cùng với các lực lượng vũ trang trong toàn tỉnh chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở thị xã Yên Bái. Nhận thấy thời cơ đã chín muồi ở địa phương, ngày 13/8/1945, Uỷ ban Quân sự cách mạng Yên Bái đề ra kế hoạch khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền ở tỉnh lỵ. Kế hoạch gồm 2 bước: "Bước 1: Dùng lực lượng vũ trang, có lính trong trại bảo an binh giúp đỡ, tước vũ khí của địch để trang bị cho các đội vũ trang và tự vệ thị xã. Bước 2: Huy động quần chúng thị xã và vùng xung quanh có lực lượng vũ trang làm áp lực đấu tranh buộc quân Nhật phải để ta giải tán chính quyền tay sai của chúng, lập chính quyền cách mạng của nhân dân, nếu quân Nhật ngoan cố chống lại, ta sẽ dùng lực lượng vũ trang tiến công tiêu diệt." [5, tr.215]. Suốt ngày 19/8/1945, chiến sự diễn ra dọc đường phố tỉnh lỵ. Lệnh tổng khởi nghĩa của Đảng được đưa tới, Ban cán sự Đảng đã họp ở nhà Tằm (Âu Lâu - Trấn Yên) đưa ra quyết định: Huy động toàn bộ lực lượng quần chúng cách mạng ở các cơ sở làm áp lực chính trị cùng với lực lượng vũ trang để giành chính quyền nhanh hơn. Thời cơ đã đến không thể trì hoãn. Hội nghị cũng dự kiến danh sách Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời của tỉnh. Trước sức mạnh của quần chúng nhân dân có sự hỗ trợ của lực lượng vũ trang cách mạng mà nòng cốt là Đội du kích Âu Cơ, ngày 22/8/1945, thị xã Yên Bái hoàn toàn giải phóng. Uỷ ban nhân dân cách mạng lâm thời tỉnh ra mắt trước đông đảo nhân dân. Tại Phú Thọ, Đội du kích Âu Cơ cùng với lực lượng tự vệ, du kích, các đơn vị bộ đội đóng quân trong tỉnh đã tổ chức giành chính quyền thắng lợi ngày 25/8/1945. Từ sự ra đời và hoạt động của Đội du kích Âu Cơ, có thể rút ra một số nhận xét sau: 1- Đội du kích Âu Cơ cùng lực lượng chính trị của quần chúng nhân dân đã tạo thành sức mạnh to lớn, có tác dụng thúc đẩy phong trào cách mạng ở địa phương phát triển nhanh chóng. 2- Đội du kích Âu Cơ là lực lượng chủ yếu, quyết định trong việc bảo vệ chiến khu Vần - Hiền Lương. 3- Đội du kích Âu Cơ đã tạo thế, hỗ trợ cho quần chúng nhân dân nổi dậy giành chính quyền thắng lợi ở hai tỉnh Phú Thọ và Yên Bái. Không những thế, đội quân này còn tiếp tục giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). TÀI LIỆU THAM KHẢO 5- Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh Yên Bái (2007), Lịch sử Đảng bộ tỉnh Yên Bái, tập 1 (1930 - 1975), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 6- Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ương (1977), Văn kiện Đảng 1930 - 1945, Nxb Sự thật, Hà Nội. 7- Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Vĩnh Phú (1985), Những ngày Cách mạng tháng Tám, Xí nghiệp in Vĩnh Phú. 8- Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Hoàng Liên Sơn (1989), Hoàng Liên Sơn: Lịch sử cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954), Xí nghiệp in Hoàng Liên Sơn. 9- Tỉnh Uỷ - Hội đồng nhân dân – Uỷ ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2000), Tỉnh Yên Bái một thế kỉ (1900-2000), Xưởng in Đại học Sư phạm – Đại học Quốc gia, Hà Nội. 1- Hoàng Dũng (1995), Lực lượng vũ trang và đấu tranh vũ trang trong Cách mạng tháng Tám, Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 4, Viện Lịch sử Quân sự, Hà Nội. 2- Nguyễn Văn Khánh - Nguyễn Danh Tiên (1993), Vần - Hiền Lương, Một căn cứ cách mạng ở miền Tây Bắc, Tạp chí nghiên cứu lịch sử, số 2, quí III- IV, tr.71-77. 3- Nguyễn Xuân Lân (1974), Địa chí tỉnh Vĩnh Phú, Ty Văn hóa tỉnh Vĩnh Phú. 4- Hồi kí của đồng chí Ngô Minh Loan, Báo cáo của đồng chí Ngô Minh Loan - nguyên đội trưởng Đội du kích Âu Cơ, Bí thư Ban cán sự Đảng Phú Thọ - Yên Bái (1994), về việc thành lập Đội du kích Âu Cơ, (Bản đánh máy). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên Nguyễn Thị Thương Huyền Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 94(06): 79 - 84 84 SUMMARY AU CO GUERRILLA IN VAN - HIEN LUONG WAR ZONE IN THE AUGUST 1945 REVOLUTION Nguyen Thi Thuong Huyen* College of Eduaction – TNU The article presented the circumstances and activities of Au Co guerrilla in Van - Hien Luong war zone in the stage of mobilization for the August revolution. Through historical documents taken from many different sources, the article highlighted the positive work of the guerrilla. Thanks to their activities in this period, Au Co guerrilla quickly became bigger and played an important role in the insurrection to gain the local government. From the research results, some comments on Au Co guerrilla were inferred as follows: 1- Au Co guerrilla and political forces of the masses made enormous strength which could promote the local revolutionary movement to develop quickly. 2- Au Co guerrilla was the main decisive force in the protection of Van - Hien Luong war zone. 3- Au Co guerrilla had created conditions and supports for the masses to seize political power in two provinces of Phu Tho and Yen Bai. This army also continued keeping a very important role in the war against the French colonialism. Key words: Au Co guerrilla group; Van - Hien Luong war zone; Luong Ca; Gioi Phien; Dong Lam. Ngày nhận: 14/03/2012; Ngày phản biện:10/04/2012; Ngày duyệt đăng:12/06/2012 * E-mail: ntthuyen.txtp@gmail.com Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoi_du_kich_au_co_cua_chien_khu_van_hien_luong_trong_cach_ma.pdf