Lời mở đầu 1
ChươngI: Đánh giá thực trạng lao đông việc làm ở nông thôn nước ta. 2
1) Một số khái niệm cơ bản. 2
2) Nhận xét khái quát chung. 3
3)Việc làm ở nông thôn những vấn đề đặt ra. 6
4) Nguyên nhân làm gia tăng tình trạng thất nghiệp 6 ChươngII:Giải pháp giải quyết và tạo việc làm ở nông thôn. 8
1) Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn
theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá. 8
2) Tiếp tục ban hành, bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế
vĩ mô. 11
3) Giải pháp phân bố nguồn lao động. 13
4) Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động. 19
5) Một số giải pháp khác. 25
Chương III: Kết luận. 27
29 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1269 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp giải quyết và tạo việc làm ở nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ến nông, lâm, ngư với chuyển đổi cơ cấu sản xuất ngành này.
Tăng đầu tư cho nông nghiệp và kinh tế nông thôn đến mức 25%. Trong cơ cấu đầu tư dành tỷ lệ hợp lý cho nội dung dạy nghề cho nông dân, bao gồm đào tạo nghề mới, đào tạo lại, bồi dưỡng ngắn hạn kiến thức và kinh nghiệm làm ăn bằng các ngành nghề nông nghiệp và công nghiệp dịch vụ. Ưu tiên đào tạo nâng cao dân trí và trình độ nghề nghiệp của các hộ nghèo. Đầu tư cho phát triển công nghiệp chế biến tại các vùng nguyên liệu, công nghiệp nông thôn. Ưu tiên vốn và đầu tư cán bộ kỹ thuật cho các làng nghề truyền thống, nhất là chế biến nông, lâm, thuỷ sản ở nông thôn.
Hoàn thiện quy hoạch tổng thể về sản xuất nông nghiệp và công nghiệp chế biến nông sản làm cơ sở cho kế hoạch và đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Ưu tiên các vùng miền núi, vùng có nhiều trang trại, vùng sản xuất tập trung cây công nghiệp, cây ăn quả.
Đây là giải pháp hết sức quan trọng, có ý nghĩa thiét thực và lâu dài. Trong quy hoạch cần quan tâm đến các vùng sản xuất nông sản hàng hoá lớn phục vụ xuất khẩu, các ngành công nghiệp chế biến nông sản và những ngành công nghiệp phục vụ nông nghiệp như điện, cơ khí, chế biến nông, lâm, thuỷ sản, quy hoạch hệ thống trạm, trại nghiên cứu thực phẩm và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, nông dân. Thực hiện các biện pháp khuyến công, khuyến lâm, khuyến ngư, khuyến nông.
Cần coi trọng quy hoạch vùng nông sản xuất khẩu có chất lượng cao, đồng thời quan tâm đúng mức đến vùng kinh tế mới, vùng nghèo để thu hút các hộ nghèo vào quá trình sản xuất hàng hoá xuất khẩu, công nghiệp chế biến quy mô vừa và nhỏ ở vùng có nhiều nguyên liệu.
Thực hiện giải pháp kích cầu bằng các chính sách khoán sức dân ở nông thôn, trong đó bỏ thuế sử dụng đất nông nghiệp là việc nên làm. Trước mắt, năm 2000 Nhà nước cần miễn thuế sử dụng đất cho toàn bộ hộ nông dân ở tất cả các vùng có quy mô đất nông, lâm nghiệp bằng mức hạn điền của luật đất đai 1993. Mở rộng diện miễn giảm các loại thuế cho các cơ sở sản xuất công nghiệp chế biến nông sản, lâm sản và thuỷ sản. Thu hút vốn FDI vào lĩnh vực này để tạo cầu cho lao động nông nghiệp.
Hoàn thiện cơ chế, chính sách của Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn, nông dân và gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến theo hướng tích cực hơn và hiệu quả hơn. Nhân rộng mô hình sản xuất nông nghiệp kiểu mới, nhất là mô hình kinh tế trang trại,tổ hợp tác tự nguyện của các hộ, tổ hợp công nghiệp chế biến nông sản, liên doanh với nước ngoài về chế biến nông sản.
Phát triển nông nghiệp theo hướng đa canh và chuyên canh, chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp. Hiện nay, ngành nông nghiệp nước ta vẫn còn mang nặng tính độc canh cây lương thực mà chưa thật sự chú trọng vào phát triển các loại cây, con khác có giá trị kinh tế cao. Vì vậy, cần quy hoạch cụ thể từng vùng trọng điểm, hướng dẫn nông dân cải tạo vườn, và thuyết phục họ trồng các vùng cây mới như: cây ăn trái, hoa – cây cảnh theo hướng sản xuất hàng hoá. Đồng thời nghiên cứu cải tiến giống mới một cách hoàn thiện trên cơ sở xem xét những lợi thế tiềm năng cho phép ỏ từng vùng, thúc đẩy nông nghiệp phát triển theo hướng kinh doanh tổng hợp; mở rộng thị trường hàng hoá nông sản cả trong và ngoài nước.
Phát triển công nghiệp nông thôn, hướng ngành này vào phục vụ sản xuất nông nghiệp là chính như: Sản xuất máy móc, công cụ sản xuất nông nghiệp, phát triển cônh nghiệp, chế biến sản phẩm sau thu hoạch. Đẩy mạnh phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao dộng, trên cơ sở cân nhắc kỹ lưỡng về đất đai, lao động, vùng nguyên liệu như: công nghiệp mía đường, công nghiệp xi măng, công nghiệp hàng tiêu dùng, Nên chăng hình thành những xí nghiệp công nghiệp vệ tinh sản xuất phụ tùng hoặc gia công cho các nhà máy lớn. Khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống, mang tới cho làng nghề một sức bật mới bằng cách nâng cao hàm lượng chất xám trong các sản phẩm của làng nghề. Tuy nhiên, việc đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn phải được đặt trong tông thể nền kinh tế và xem xét nó trong mối quan hệ giải quyết việc làm gắn kết với hiệu quả kinh tế- xã hội.
Phát triển dịch vụ nông thôn, không chỉ chú trọng phát triển các dịch vụ truyền thống, như dịch vụ nông nghiệp, dịch vụ hàng hoá tiêu dùng mà cần đẩy mạnh phát triển các loại dịch vụ khác như dịch vụ việc làm, dịch vụ cho vay vốn..đồng thời nâng cao chất lượng các loại dịch vụ thúc đẩy sản xuất phát triển và nâng cao đời sống nhân dân.
Tiếp tục ban hành bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô.
Tiếp tục ban hành, bổ sung và hoàn thiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Đây là công việc rất quan trọng quyết định sự tăng, giảm chỗ làm việc trong từng thời kì. Có những chính sách tạo mở hàng triệu chỗ làm việc, nhưng cũng có những chính sách lại tác động theo cả hai hướng trái ngược nhau: vừa tạo chỗ làm việc mới, vừa làm mất chỗ làm việc, như: chính sách khoa học – công nghệ, chính sách tín dụng, đầu tư.Vì vậy, cần thiết phải:
–Tổ chức nghiên cứu, phân tích, đánh giá các yếu tố tác dộng tới việc tăng, giảm chỗ làm việc ở từng vùng cụ thể để hoạch định, bổ sung, điều chỉnh các chính sách kinh tế vĩ mô, bảo đảm gắn mục tiêu tăng trưởng kinh tế với mục tiêu giải quyết việc làm. Tổng kết, đánh giá quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, qúa trình chuyển đổi và tích tụ, tập trung ruộng đất, phân tích sự tác động của những hiện tượng kinh tế này tới vấn đề lao động – việc làm để từ đó có phương thức xử lý linh hoạt, mềm dẻo, địng hướng cho quá trình này phát triển theo đúng quy luật khách quan. Đồng thời tổng kết hiệu quả hoạt động của khu công nghiệp, khu chế xuất (có xem xét tiềm năng kinh tế mang tính chiến lược), gắn với các chỉ số tạo việc là mới. Từ đó điều chỉnh phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất theo quy mô, tốc độ phù hợp với điều kiện khách quan của nền kinh tế.
–Ban hành bổ sung hoàn thiện các chính sách trực tiếp tác động tới giải quyết việc làm ở nông thôn, như: Chính sách dịch vụ việc làm đối với người sử dụng lao động, chính sách đào tạo nghề gắn với việc làm, chính sách cho vay vốn và hỗ trợ tài chính giải quyết việc làm, chính sách đối với các tổ chức thực hiện chương trình quốc gia về việc làm. Đặc biệt, tạo ra những tiền đề tiến tới hình thành quỹ bảo hiểm việc làm cho lực lượng lao động ở nông thôn trên cơ sở Nhà nước và nhân dân cùng làm.
–Đẩy mạnh các hoạt động hỗ trợ trực tiếp để giải quyết việc làm.
–Tổ chức tốt các hoạt động cho vay và hỗ trợ tài chính cho lao động nông thôn có điều kiện mở mang ngành nghề phi nông nghiệp, đặc biệt, giải quyết vốn cho hộ nghèo mất đất là việc làm rất thiết thực.
Cần phân định rõ:
–Hộ nghèo có khả năng tổ chức sản xuất nên cho vay vốn dưới các hình thức tín chấp, hướng dẫn họ cách sử dụng vay vốn có hiệu quả và kiểm soát chặt chẽ quá trình sử dụng vốn vay, vực dần loại hộ này dậy để họ bám đất, bám nương phát triển sản xuất.
–Hộ nghèo không có khả năng tự tổ chức sản xuất hình thành các tổ chức hợp tác tự nguyện, có sự hỗ trợ của các cấp lãnh đạo, thông qua đó cho nông dân vay vốn và sản xuất và cũng cần hướng dẫn họ cách sử dụng vốn, kiểm soát vốn thông qua các tổ chức hợp tác.
–Tăng cường công tác đào tạo nghề gắn với việc làm, đầu tư trang thiết bị phương tiện dạy nghề hoặc nâng cáp các trung tâm dạy nghề cho lao động chuyên môn phục vụ kinh tế nông nghiệp, đồng thời, thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ cho lao động phổ thông. Đào tạo lao động theo địa chỉ cụ thể và rõ ràng, hướng nghiệp cho học sinh, sinh viên sau khi đào tạo nghề trở về phục vụ phát triển kinh tế nông thôn. Muốn vậy cần có chính sách ưu tiên, hỗ trợ về mọi mặt để họ yên tâm học tập và yên tâm với nghề.
–Giải quyết vấn đề lao động – việc làm ở nông thôn nước ta trong giai đoạn hiện nay không chỉ là vấn đề kinh tế hay vấn đề xã hội đơn thuần mà là một quá trình tổng hợp và rất phức tạp. Vì vậy, cần phải giải quyết nó trên phạm vi rộng, bao gồm những vấn đề liên quan đến quá trình phát triển nguồn nhân lực cũng như sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực ở nông thôn.
3. Giải pháp phân bố nguồn lao động
Với đặc điểm của sản xuất nông nghiệp và hoàn cảnh thực tế của nông thôn hiện nay, việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động trước hết phải hướng vào những ngành, những hoạt động quan trọng, có vai trò quyết định đối với sự phát triển nông nghiệp, nông thôn, vào việc khai thác những nguồn lao động có chất lượng cao, lao động được đào tạo, ưu tiên lao động tại chỗ và chú ý tỷ suất sử dụng thời gian lao động trong những thời điểm nông nhàn.Những giải pháp chủ yếu có thể là:
a) Giảm thiểu lao động trong khu vực nông thôn:
Số lao động trong độ tuổi lao động hiện nay khoảng 7 triệu người
(chiếm gần 50% tổng dân số trong vùng). Để duy trì mật độ dân số cũng như chỉ tiêu về diện tích đất nông nghiệp bình quân nhân khẩu, số lượng lao động nông nghiệp cần được giữ ở mức ổn định khoảng 7-8 triệu người bằng các biện pháp:
–Giảm tỷ lệ sinh đẻ để từ đó giảm thiểu số lượng lao động trong vòng 15-20 năm sau.
–Di chuyển bớt lao động ra khỏi vùng bằng hai cách chủ yếu:di cư lao động đến những vùng thiếu lao động đặc biệt là các tỉnh Tây Nguyên, Đông Nam Bộ, giải phóng bớt số lao động trẻ ra làm việc tại các khu công nghiệp, đô thị.
–Để thực hiện việc rút bớt sức lao động theo cách này, trong những năm trước mắt, cần hết hức coi trọng giáo dục và đào tạo lao động trẻ.
b) Tạo thêm nhiều việc làm cho khu vực nông thôn.
Hướng 1: Tạo thêm việc làm trong chính nội bộ ngành nông nghiệp bằng các biện pháp:
* Thay đổi, chuyển dịch cơ cấu cây trồng.
Mặc dù là nước có ngành sản xuất nông nghiệp khá phát triển, nhưng về cơ bản vẫn là nông nghiệp thuần nông, cây lúa vẫn là chủ đạo trong cơ cấu cây trồng. Vì vậy, lao động nông thôn trong vốn đã dư thừa lại càng có nguy cơ dư thừa nhiều hơn khi việc canh tác lúa nước và những cây lương thực ngắn ngày như khoai lang, khoai tây, rau đậu càng ngày càng đòi hỏi ít lao động thủ công hơn; hệ thống cơ sở vật chất – kỹ thuật phục vụ sản xuất, trình độ cơ giới hoá, thuỷ lợi hoá, hoá học hoá và áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tương đối hoàn chỉnh. Chính vì vậy, để phá thế thuần nông, độc canh, thực hiện đa dạng hoá nền nông nghiệp, tạo thêm việc làm cho lao động nhất là những lao động lớn tuổi có kinh nghiệm nhưng không được đào tạo, việc chuyển đổi dù rất ít – cơ cấu cây trồng cũng là một giải pháp tốt. Cơ cấu cây trồng cần chuyển đổi theo hướng:
Phục hồi những cây trồng truyền thống, phù hợp với điều kiện đất đai, điều kiện tự nhiên.
Phục hồi, bổ sung những cây trồng vừa đòi hỏi nhiều lao động thủ công, vừa là cơ sở nguyên liệu cho việc phục hồi và phát triển các ngành nghề truyền thống, ví dụ trồng dâu nuôi tằm, ươm tơ, cây cảnh, cây dược liệu, cây làm nguyên liệu chế biến thức ăn gia súc.
Đặc biệt cần chú trọng vụ đông với cơ cấu những cây trồng có hiệu quả kinh tế cao, có giá trị xuất khẩu.
*Thực hiện thâm canh, chuyên môn hoá nông sản hàng hoá mũi nhọn:
Nước ta vốn có lực lượng lao động dồi dào, giàu kinh nghiệm, thâm canh không phải là vấn đề quá mới mẻ. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh dư thừa lao động, ngành nghề tạm thời chưa phát triển, chuyển đổi cơ cấu cây trồng hạn chế việc nâng cao trình độ thâm canh, thực hiện chuyên môn hoá cao đối với một số cây trồng, một số sản phẩm cũng là một biện pháp ít nhiều đóng góp cho việc nâng cao tỷ xuất sử dụng lao động.
Hướng 2: Phát triển ngành nghề.
Trong “Những quan điểm chỉ đạo phát triển ngành nghề nông thôn ” của Bộ NN và PTNT có nêu:
–Phát triển ngành nghề nông thôn phải gắn chặt với sản xuất nông nghiệp. Đây là hai ngành kinh tế mà trong quá trình phát triển có mối quan hệ chặt chẽ về nguyên liệu, lao động, thị trường, môi trường. Phát triển ngành nghề nông thôn phải chú ý tới các nghề mới và hết sức chú trọng khôi phục, tái tạo, phát triển ngành nghề truyền thống.
–Phát triển ngành nghề truyền thống phải đặt trong mối quan hệ chặt chẽ với công nghiệp thành thị, với thị trường trong và ngoài nước. Kết hợp hài hoà nhiều quy mô, nhiều loại hình tổ chức và sở hữu, lựa chọn công nghệ, kết hợp công nghệ hiện đại với công nghệ truyền thống, thiết bị tiên tiến thủ công, cơ khí nhỏ trong nhiều loại hình doanh nghiệp.
–Theo quan diểm ấy, chúng tôi cho rằng, phát triển ngành nghề nông thôn ở nước ta theo những hướng chủ yếu sau:
+Phát triển nhanh những ngành nghề trực tiếp phục vụ, hỗ trợ, cũng như tiếp tục quá trình sản xuất nông nghiệp, đó là các ngành nghề chế biến nông sản phẩm. Trước hết, cần coi trọng những ngành chế biến màu lương thực, như chế biến khoai, sắn, ngô, dong riềng..
Nếu những ngành nghề chế biến này phát triển tốt sẽ có các lợi ích sau:
Giải quyết được đầu ra cho các ngành sản xuất trồng trọt là những ngành mà việc tiêu thụ sản phẩm được coi là ách tắc nhất hiện nay.
Tạo thêm nhiều việc làm cho lao động nông thôn và từ đó tăng thu nhập cho lao động. Tạo cơ sở thức ăn để phát triển ngành chăn nuôi. Cho phép giữ lại một phần lợi nhuận sản xuất nông nghiệp cho khu vực nông thôn, vì nếu không có những ngành chế biến ở nông thôn thì lợi nhuận của sản phẩm nông nghiệp sẽ di chuyển sang các ngành chế biến ở đô thị và sang lĩnh vực lưu thông.
Phát triển các ngành nghề chế biến sản phẩm màu lương thực có ưu điểm là lượng vốn đầu tư không đòi hoỉ quá nhiều, vì vậy là những nghề có thể phát triển ngay dưới quy mô hộ gia đình.
+Khôi phục và phát triển những ngành nghề truyền thống,đặc biệt là những nghề tạo ra sản phẩm hiện đang có nhu cầu lớn trên thị trường trong và ngoài nưóc.
+Ngành nghề truyền thống của vùng thường là những ngành sản xuất tiểu thủ công nghiệp, rất có ưu thế trong việc tạo việc làm, tăng tỷ xuất sử dụng lao động có những đặc điểm sau:
Tính tập trung theo từng ngành nghề. Đội ngũ lao động có tay nghề cao, có nhiều kinh nghiệm. Có thể sử dụng lao động đa dạng, kể cả lao động phụ nữ, lao động trẻ em.
Thời gian sản xuất không phụ thuộc vào mùa vụ, có thể sản xuất quanh năm, làm nhiều giờ trong một ngày, kể cả buổi tối; Nguyên liệu thường là nguyên liệu thu gom, nguyên liệu tái sinh không đòi hỏi chất lượng cao.Không đòi hỏi nhà xưởng có quy mô lớn, vốn đầu tư nhiều, trang thiết bị hiện đại.
Với những ưu điểm như vậy, trước mắt phát triển làng nghề cần tập trung vào các nghề có khả năng thu hút nhiều lao động (đặc biệt là lao động tại chỗ, lao động nội vùng), nhưng có khả năng tạo ra sản phẩm xuất khẩu mũi nhọn (tốt nhất là theo hình thức mỗi làng có một sản phẩm), đó là các mặt hàng thủ công mỹ nghệ như gốm, sứ, đồ mỹ nghệ, sản phẩm thêu ren, tơ lụa, mây tre đan, thảm len, cói..
Những ngành nghề sản xuất sản phẩm có nhu cầu lớn trên thị trường nhưng lại phải cạnh tranh với công nghiệp đô thị như: vật liệu xây dựng, sản phẩm cơ khí, giấy, dệt may..đòi hỏi vốn đầu tư lớn, trình độ lao động cao, trang thiết bị hiện đại cần phát triển thận trọng từng bước. Trước hết, cần phát triển ở dạng liên kết với các cơ sở công nghiệp đô thị dưới hình thức tham gia sản xuất gia công, bán thành phẩm.
Để phát triển ngành nghề một cách vững chắc, có hiệu quả cần giải quyết đồng thời 4 vấn đề sau:
Thứ nhất: Tạo vốn cho các hộ gia đình, các doanh nghiệp làm nghề, khắc phục tình trạng thiếu vốn như hiện nay.
Giải pháp tạo vốn có thể bằng 4 con đường sau;
Tự giải quyết ở quy mô hộ gia đình. Cách tạo vốn này cần được khuyến khích đối với những ngành nghề giản đơn, quy mô nhỏ, công nghệ kỹ thuật đơn giản, ít cần đầu tư, sản xuất gia công hàng mây, tre đan, nuôi tằm, ươm tơ, chế biến màu lương thực
Hỗ trợ cho hộ gia đình qua hợp tác xã tín dụng, tiết kiệm. Cách này cần được coi trọng đối với những ngành nghề có lượng vốn yêu cầu tuy không lớn nhưng không thể thiếu. Đối với những hộ nghèo, hộ trung bình thì nguồn vốn tín dụng là một trong những giải pháp cơ bản để phát triển ngành nghề.
Hỗ trợ vốn thông qua quỹ quốc gia, tức là vốn vay từ các chương trình, dự án phát triển ngành nghề. Loại vốn này là hết sức quan trọng đối với việc tạo lập những ngành nghề mới, những ngành nghề truyền thống đòi hỏi vốn đầu tư lớn, ví dụ: Chế biến rau quả, sản xuất cơ khí, xây dựng, sản xuất tinh xảo, hàng xuất khẩu..
Tạo vốn thông qua hình thức hợp tác liên kết giữa các hộ nông dân, tức là thông qua hợp tác xã hoặc tổ chức hợp tác, tổ liên gia..
Thứ hai: Đổi mới công nghệ, thiết bị.
Tạo vốn luôn phải đi liền với đổi mới công nghệ, thiết bị. Tuy nhiên, đổi mới như thế nào là vấn đề không đơn giản. Chúng tôi cho rằng, việc đổi mới công nghệ, thiết bị cho các ngành nghề ở nông thôn nên theo những hướng chủ yếu sau:
Kiên quyết thay thế những công nghệ, thiết bị quá cũ kỹ lạc hậu, năng suất thấp, chất lượng sản phẩm không đáp ứng nhu cầu thị trường, gây hại lớn đến môi trường sinh thái, đặc biệt là sức khoẻ người lao động. Chú ý những công nghệ, thiết bị phù hợp với năng lực về vốn, trình độ sử dụng của người lao động.
Ưu tiên những công nghệ, thiết bị sử dụng nhiều lao động, đặc biệt là lao động giản đơn, sử dụng nguyên liệu tại chỗ.
Thứ ba:Đào tạo, đào tạo lại lực lượng lao động ngành nghề.
Việc đào tạo, đào tạo lại, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp cho đội ngũ những người làm nghề ở nông thôn phải đảm bảo vừa tạo ra một đội ngũ lao động kế thừa được những kỹ năng nghề nghiệp truyền thống, vừa nắm vững những kiến thức và kỹ năng nghề nghiệp của một nền sản xuất hiện đại, CNH, HĐH. Cần coi trọng hình thức đào tạo tại chỗ, nhất là đào tạo theo kiểu kèm cặp để sớm có đội ngũ lao động đáp ứng việc phát triển quy mô ngành nghề.
Đối với những ngành nghề đòi hỏi kỹ thuật tinh xảo, điêu luyện, chất lượng sản phẩm cao, cần coi trọng hình thức đào tạo tập trung tại các cơ sở đào tạo.
Việc phát triển ngành nghề ở khu vực nông thôn cần đặc biệt chú ý vấn đề vệ sinh môi trường, sinh thái và an toàn lao động.
Thứ tư: Tạo thị trường ổn định cho các sản phẩm làng nghề.
Đây là vấn đề cực kỳ khó khăn, đòi hỏi trước hết là chất lượng sản phẩm của các làng nghề, đồng thời những biện pháp xúc tiến thương mại, khai thông thị trường cũng hết sức quan trọng. Người sản xuất, dù là sản xuất ở lĩnh vực nào, cũng không thể chi phối, quyết định được quan hệ cung cầu. Vì vậy, để tiêu thụ được các sản phẩm ngành nghề nông thôn cần có hàng loạt các hoạt động hỗ trợ, nhất là chính sách giảm thuế để sản phẩm nghề có đủ sức mạnh tham gia cạnh tranh trước hết là trên thị trường trong nước sau đó là thị trường nước ngoài.
Ngoài những giải pháp trên, ở tầm vĩ mô, cần hình thành các khu công nghiệp, khu chế xuất ở những vùng có điều kiện, ưu tiên những vùng thuần nông, những vùng đông dân cư. Việc xây dựng các khu công nghiệp, khu chế xuất trước hết cần hướng vào một số ngành có khả năng thu hút nhiều lao động, sử dụng nguyên vật liệu tại chỗ, nguyên liệu của nông nghiệp nhưng có mặt bằng nhỏ, sử dụng ít đất đai. Đặc biệt coi trọng hình thức liên doanh sản xuất giữa doanh nghiệp với hộ gia đình, biến hộ gia đình thành một mắt khâu trong quá trình sản xuất của doanh nghiệp.
4.Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng lao động.
Xây dựng chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn trên phạm vi cả nước và triển khai thành các đề án trong từng vùng.
Đây là giải pháp mang tính tiền đề của hệ thống giải pháp nâng cao chất lượng nguồn lao động. Bởi vì, nâng cao chất lượng nguồn lao động nông thôn chỉ có thể mang lại hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thực tiễn khi có được hành động đúng. Từ đó, làm cơ sở xây dựng đề án nâng cao chất lượng nguồn lao động theo từng mặt, nhằm có được một chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động hiện có và nguồn lao động trong tương lai.
Để thực hiện các nhiệm vụ trên, cần tập trung trí tuệ của các nhà khoa học, các nhà quản lý có kinh nghiệm ở trung ương và địa phương, cần thực hiện một cách đồng bộ theo đúng trình tự.
Tiến hành rà soát lại nguồn lao động ở tất cả các địa phương, các ngành về số lượng và chất lượng, đặc biệt là khối nông-lâm nghiệp và ở các địa phương, nắm chắc yêu cầu cần nâng cao chất lượng nguồn lao động, thực hiện phân tích, đánh giá yêu cầu hiện tại và yêu cầu tương lai, trên cơ sở đó xây dựng kế hoạch đào tạo mới, đào tạo lại, đào tạo nâng cao trình độTrước mắt, cố gắng bố trí sắp xếp sử dụng hết ngồn lao động đã được đào tạo đúng ngành, đúng nghề, một mặt để khai thác tiềm năng hiện có về mặt chất lượng của nguồn lao động, mặt khác tạo động lực khuyến khích người lao động tích cực tham gia vào chiến lược nâng cao chất lượng nguồn lao động sau khi đã xây dựng.
Quy mô sắp xếp lại hệ thống các trường dậy văn hoá, trên cơ sở khai thác tổng hợp các loại hình trường lớp, các nguồn lực của Nhà nước, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội và đóng góp của nhân dân.
Hiện tại, trình độ văn hoá của nguồn lao động nông thôn ở một số tỉnh tương đối cao. Nhưng, xét trên phạm vi cả nước có sự chênh lệch lớn giữa các ngành và các vùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa. Vì vậy, xoá bỏ từng bước chênh lệch chất lượng nguồn lao động về trình độ văn hoá là giải pháp vừa căn bản, vừa lâu dài.
Nếu xét trên phương diện thời gian, những người bước vào độ tuổi của năm 2000, sẽ bước vào đào tạo nghề những năm 2010-2015. Vào khoảng thời gian đó, trình độ tương đối cao ở tất cả các ngành các vùng. Vì vậy, họ phải là những người có trình độ văn hoá cao, có như vậy mới tiếp thu được những kiến thức phù hợp với trình độ chuyên môn đào tạo.
Để thực hiện nhiệm vụ trên, ngoài yêu cầu về mặt vật chất còn cần chuẩn bị một lượng lao động có chất lượng cao của ngành giáo dục. Xét riêng về các điều kiện vật chất cho ngành giáo dục, cần chuẩn bị trên các phương diện sau:
Một là, chuẩn bị hệ thống cơ sở trường lớp, đậc biệt là trường dân tộc nội trú một cách đầy đủ theo điều kiện của các địa phương, chủ yếu trên cơ sở giúp đỡ của ngân sách. Đối với các xã miền núi, trong đó có các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, cần tận dụng nguồn vốn của chương trình xoá đói giảm nghèo, chương trình phát triển kinh tế – xã hội miền núi và vùng sâu vùng xa, kết hợp với sự đóng góp sức lao động của địa phương để xây dựng trường lớp đảm bảo yêu cầu học tập của học sinh, tránh tình trạng tranh tre nứa lá tạm bợ như hiện tại. Cần xác định, nguồn vốn ngân sách chỉ là hỗ trợ ở các điều kiện vật chất cho xây dựng, công sức phải từ sự đóng góp của nhân dân.Có như vậy, hệ thống trường lớp mới được giải quyết cơ bản trên phạm vi cả nước.
Hai là, xây dựng trường học, lớp học phải chú ý trang bị đồng bộ bàn ghế, kết hợp xây dựng hệ thống các đồ dùng dạy học, trang bị cho các trường, nhất là các trường vùng sâu vùng xa.
Thứ ba, để khuyến khích các thầy cô giáo về với nông thôn và miền núi, cần có điều kiện vật chất nhất định, trong đó đảm bảo đời sống vật chất cho các thầy cô giáo để họ yên tâm công tác là rất cần thiết, xây dựng trường cần kết hợp xây dựng nhà tập thể cho giáo viên.
Quy hoạch, sắp xếp các trường chuyên nghiệp và dạy nghề nên tập trung giải quyết một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu thành lập một số trường và cơ sở đào tạo mới.Hiện đại, hệ thống các trường đại học và cao đẳng đã đáp ứng các yêu cầu đào tạo các cử nhân kinh tế, cử nhân khoa học xã hội và các kỹ sư, bác sĩ.Vì vậy, trước mắt, việc thành lập các trường cơ sở đào tạo mới nên hướng tới các trường dạy nghề, các trường đào tạo các bộ kỹ thuật những đối tượng đang thiếu hụt lớn.
Thứ hai, củng cố và sắp xếp lại hệ thống các trường chuyên nghiệp và các cơ sở dạy nghề hiện có. Việc củng cố, sắp xếp các trường chuyên nghiệp và các cơ sở dạy nghề hiện có theo hướng tập trung quản lý đào tạo và nâng cao năng lực đào tạo trên các mặt như: Đội ngũ giáo viên, giáo trình, bài giảng và cơ sở vật chất cho quá trình đào tạo.
Kết hợp đào tạo, nâng cao chất lượng nguồn lao động ở các truờng chuyên nghiệp và cơ sở dạy nghề của trung ương đóng trên địa bàn từng địa phương.
Ngoài các cơ sở đào tạo và dạy nghề do các tỉnh quản lý, trên địa bàn một số tỉnh còn có một số trường chuyên nghiệp và các cơ sở dạy nghề của trung ương đóng tại địa phương.
Việc khai thác các trường dạy nghề và cơ sở dạy nghề của trung ương trên địa bàn các tỉnh có thể theo các hướng sau:
Gửi học sinh trực tiếp vào học theo quy chế tuyển dụng và học tập trung như mọi đối tượng. Gửi học sinh vào học theo chế độ cử tuyển cấp loại văn bằng, chứng chỉ riêng sau khi tốt nghiệp về phục vụ lâu dài cho địa phương đơn vị cử đi học. Các địa phương, đơn vị khác không được tuyển dụng những đối tượng này.
Mở các lớp riêng dưới dạng liên kết trong đào tạo. Đây là hướng tạo điều kiện thuận lợi cho người địa phương nâng cao trình độ chuyên môn nghề nghiệp. Bởi vì, mở các lớp riêng cho các tỉnh sẽ cho phép số lượng người được đào tạo lớn hơn, điều kiện học tập thuận lợi hơn.
Liên kết nghiên cứu ứng dụng và chuyển giao tiến bộ kỹ thuật trực tiếp vào sản xuất.Đây là hướng gắn trực tiếp đào tạo với thực tế. Hướng này có phạm vi áp dụng rộng, tính khả thi cao và hiệu quả.
Sử dụng đầy đủ và hợp lý nguồn lao động .
Nâng cao chất lượng nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động có mối quan hệ với nhau, trong đó nâng cao chất lượng để có nguồn lao động chất lượng cao phục vụ sản xuất và ngược lại nguồn lao động có được sử dụng đầy đủ và hợp lý mới có điều kiện vật chất để nâng cao
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- N0227.doc