LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 4
1.1. Bản chất của TTCK 4
1.1.1. Bản chất của TTCK 4
1.1.2. Chức năng cua TTCK 4
1.1.3. Hàng hoá trên TTCK 4
1.1.4. Các chủ thể tham gia trên TTCK 5
1.1.5. Cơ cấu của TTCK 6
1.2. Nhà đầu tư và vai trò của nhà đầu tư trên TTCK 6
1.3. Những nhân tố ảnh hưởng tới quyết định đầu tư trên TTCK 7
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THAM GIA CỦA NĐTNN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 8
2.1. Thực trạng hoạt động của TTCK Việt nam 8
2.1.1. Những thành công bước đầu 9
2.1.2. Những tồn tại cần giải quyết 15
2.2. Thực trạng tham gia của các NĐTNN trên TTCK 20
2.2.1. Quy trình tham gia đầu tư chứng khoán của các NĐTNN 20
2.2.2. Tình hình nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua 22
CHƯƠNG 3
GIẢI PHÁP THU HÚT NĐTNN TRÊN TTCK VIỆT NAM 28
3.1 Định hướng phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới 28
3.2. Giải pháp thu hút nhà ĐTNN vào TTCK Việt Nam 31
3.2.1.Tiếp tục xây dựng khung pháp lý cho TTCK 31
3.2.2. Tăng cung chứng khoán cho thị trường về số lượng, chất lượng và chủng loại 32
3.2.3. Hoàn thiện hệ thống công bố thông tin cho TTCK 33
3.2.4. Chính sách thuế, phí và lệ phí cho nhà ĐTNN 35
3.2.5. Cho phép các công ty chứng khoán được kinh doanh ngoại tệ 36
3.2.6. Xây dựng cơ sở vật chất và đào tạo nguồn nhân lực 36
3.2.7. Tuyên truyền và phổ cập kiến thức về chứng khoán và TTCK cho công chúng 37
3.2.8. Nâng cao chất lượng hoạt động của các TTGDCK, SGDCK, trung tâm lưu ký chứng khoán 38
3.2.9. Tạo cơ chế phối hợp giữa các bộ nghành liên quan 39
43 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1607 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng dẫn các Nghị định cũng như sự giám sát chặt chẽ của cơ quan quản lý thị trường.
Ngoài việc đưa Nghị định 144/CP vào áp dụng trên TTCK, hiện tại UBCKNN đang lỗ lực xây dựng và hoàn tất Luật chứng khoán trình Quốc Hội nhằm đưa vào áp dụng trong năm tới.
Chính sách ưu đãi thuế trên TTCK Việt Nam.
Các chính sách ưu đãi về thuế luôn là vấn đề mà các nhà đầu tư là tổ chức cũng như các nhà đầu tư cá nhân nói riêng trên TTCK hết sức quan tâm.
Hiện nay, các văn bản pháp quy chủ yếu có liên quan về thuế được áp dụng trên TTCK Việt Nam bao gồm luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế thu nhập doanh nghiệp, luật khuyến khích đầu tư trong nước, luật khuyến khích đầu tư nước ngoài, pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao cùng các thông tư, văn bản pháp quy hướng dẫn thi hành.
Để thu hút sự tham gia của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước vào TTCK Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27 tháng 03 năm 2000 (gọi tắt là quyết định 39) ban hành các quy định tạm thời nhằm ưu tiên về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán.
Theo tinh thần của các văn bản pháp quy này, các đối tượng được hưởng ưu đãi thuế tạm thời về thuế bao gồm: các công ty chứng khoán, các công ty quản lý quỹ và quỹ đầu tư chứng khoán, tổ chức phát hành có chứng khoán được niêm yết và các cá nhân đầu tư chứng khoán. Để tạo điều kiện cho các cá nhân, tổ chức nước ngoài tham gia đầu tư trên TTCK Việt Nam, Bộ Tài chính đã có công văn số 4321/TC/TCT ngày 07/05/2002 để hướng dẫn cụ thể chính sách thuế đối với những đối tượng nhà đầu tư này.
Nhìn chung, chính sách thuế trên thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian đầu hoạt động đã góp phần không nhỏ trong việc hỗ trợ sự phát triển của thị trường, đáp ứng được định hướng phát triển của thị trường. Việc đưa ra các ưu đãi thuế kịp thời đã tạo thêm động lực và giảm đi những khó khăn cho các bên tham gia trên TTCK cả về phía công ty niêm yết cũng như các công ty chứng khoán đặc biệt là khuyến khích các nhà đầu tư cá nhân trong thời gian đầu tham gia thị trường.
Những tồn tại cần giải quyết.
Ngoài những thành công đạt được trong thời gian đầu, chúng ta không thể không nhắc đến những vấn đề còn tồn tại trên TTCK Việt Nam trong thời gian qua.
2.1.2.1 . Về hàng hoá
Hiện nay, hàng hoá trên TTCK Việt Nam còn rất nghèo nàn về số lượng và chủng loại, chứng khoán thường ghi danh, tính thanh khoản kém, do vậy hoạt động của TTCK sẽ kém phần hấp dẫn. Khi đưa ra quyết định đầu tư, việc làm đầu tiên của các nhà đầu tư là so sánh và phân tích các chỉ số kinh tế có liên quan đến các công ty niêm yết, trên cơ sở đó họ có thể đưa ra quyết định đầu tư vào loại cổ phiếu nào là tốt nhất.
Mục đích của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là giảm thiểu rủi ro và tối đa hoá lợi nhuận do vậy vấn đề mà họ không thể không quan tâm là đa dạng hoá các danh mục đầu tư. Ngoài những điều kiện thuận lợi thuộc môi trường vĩ mô và vi mô ra, một TTCK với đa dạng chủng loại hàng hoá bao giờ cũng là điểm hấp dẫn khiến các nhà đầu tư cân nhắc lại quyết định đầu tư của mình xem nên đầu tư vào thị trường nào.
Ngay từ buổi đầu đi vào hoạt động, một trong những vấn đề khiến các nhà tổ chức và quản lý TTCK Việt Nam luôn luôn trăn trở và quan tâm là làm thế nào để tăng số lượng hàng hoá cho thị trường một cách kịp thời và phù hợp với nhu cầu của các nhà đầu tư. Mấu chốt của vấn đề là việc cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước diễn ra một cách chậm chạp, phần lớn các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kém hiệu quả, tính công khai thông tin về doanh nghiệp còn thấp do vậy niềm tin của các nhà đầu tư về chứng khoán chưa cao.
Hiện nay hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước đều không mấy mặn mà với việc cổ phần hoá, khi bị buộc phải cổ phần hoá thì họ tìm mọi lý do để trì hoãn chính vì vậy nên hàng hoá trên TTCK không thể tăng nhanh. Hơn nữa sau khi cổ phần hoá, tính chuyên nghiệp trong hoạt động đấu giá cổ phần lần đầu của các công ty này chưa cao và chủ yếu tập trung ở các thánh phố lớn nơi có những công ty chứng khoán hoạt đông.
Tính đến nay TTCK Việt Nam đã bước vào năm hoạt động thứ 4 nhưng mới chỉ có 23 loại cổ phiếu được niêm yết trong đó công ty niêm yết gần đây nhất là Công ty cổ phần Bông Bạch Tuyết chính thức lên sàn giao dịch vào tháng 3/2004.
Hiện chỉ có 13 công ty chứng khoán do đó sự vươn rộng có hạn, khả năng thực hiện tốt các cuộc đấu giá cổ phần lần đầu sẽ là rất khó khăn chính vì vậy cần phải có những chính sách khuyến khích, tạo điều kiện cho các công ty cổ phần phát hành cổ phiếu, trái phiếu lần đầu ra công chúng nhằm tạo thêm hàng hoá cho thị trường. Ngoài ra Nhà nước cần chủ động lựa chọn một số các công ty làm ăn có lãi, đủ điều kiện niêm yết phải đăng ký giao dịch tại sở giao dịch chứng khoán nhằm tạo sự sôi động cho thị trường.
Việc công bố thông tin trên TTCK chưa được đảm bảo đúng quy định.
Thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh và các vấn đề tài chính của công ty niêm yết luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của bất kỳ nhà đầu tư nào khi tham gia vào TTCK. Thông tin có liên quan trực tiếp đến khả năng sinh lời, mức độ rủi ro hiện tại và tương lai của các cổ phiếu mà các nhà đầu tư nắm giữ chính vì vậy mà thông tin đòi hỏi phải đầy đủ, kịp thời và đặc biệt là phải chính xác.
Tuy nhiên, theo nhận định của giới đầu tư, việc công bố thông tin hiện nay của các công ty niêm yết trên TTCK còn nhiều hạn chế, lượng thông tin còn ít, chủ yếu là các thông tin về tình hình tài chính hàng quý, năm theo định kỳ; các thông tin về tình hình hoạt động, chiến lược sản xuất kinh doanh, tiến độ thực hiện kế hoạch...của các công ty còn rất ít thậm chí các công ty thậm chí còn không cả công bố thông tin trong một thời gian dài. Vấn đề này trên thực tế đã làm nảy sinh những thông tin không chính thức được đưa ra thị trường nhằm mục đích phục vụ cho mục đích cá nhân của một số hoặc một nhóm những nhà đầu tư sở hữu số lượng lớn các cổ phiếu. Hậu quả của việc thu nhận những thông tin không chính thức đã dẫn đến một số lượng lớn các nhà đầu tư nhỏ do không có thông tin chính thức nên “mất phương hướng” đã đưa ra các quyết định mua bán của mình theo “tâm lý, phong trào” của thị trường và tất yếu dẫn đến thua lỗ hoặc mất đi cơ hội tăng giá chứng khoán mà họ đang sở hữu, dẫn đến những biến động giả tạo trên thị trường.
Mặc dù trách nhiệm công bố thông tin của các tổ chức niêm yết đã được quy định khá cụ thể và chặt chẽ trong quy chế công bố thông tin ban hành kèm theo Quyết định 42/2000/QĐ/UBCK1, nhưng trên thực tế các công ty chỉ công bố một cách chống đối và qua loa. Thêm vào đó là sự quản lý lỏng lẻo của các cán bộ quản lý thị trường về công bố thông tin của các công ty niêm yết. Nhiều khi cán bộ quản lý đã xác nhận là công ty niêm yết hoạt động tốt, năm sau lãi nhiều hơn năm trước nhưng để tìm hiểu một cách nghiêm túc thì lại cho ra kết quả hoàn toàn ngược lại. Chúng ta có thể thấy rõ tình trạng trên qua tình hình thực hiện chế độ công bố thông tin của một số công ty niêm yết như sau:
Năm 2003 được coi là năm các công ty niêm yết vi phạm chế độ công bố thông tin nhiều nhất từ trước tới nay và điển hình là trường hợp của Công ty Bánh kẹo Biên Hoà (BIBICA) được coi là trường hợp nghiêm trọng nhất trong những năm qua.
Theo kết luận của Thanh tra UBCK Nhà nước, những vi phạm của công ty BIBICA là: vi phạm chế độ báo cáo, chế độ công bố thông tin có hệ thống; bộ phận tài chính, kinh tế của công ty yếu kém, thiếu trách nhiệm nên không phản ánh kịp thời tình trạng tài chính theo quy định, Hội đồng quản trị, Ban điều hành chưa có biện pháp chấn chỉnh bộ máy quản trị tài chính...Theo quy định của Nghị định 22/2002/NĐ-CP của Chính phủ về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK, mức phạt hành chính đối với công ty BIBICA là 20 triệu đồng. Nhưng sai lầm mà BIBICA gây ra không chỉ làm thiệt hại đến nhà đầu tư mà còn làm ảnh hưởng đến toàn bộ thị trường.
Vụ gần đây nhất là tháng 12/2003, Công ty cổ phần Viễn thông (VTC) đã khiến Trung tâm giao dịch và những đối tượng tham gia trên TTCK sửng sốt qua một văn bản giải thích rằng chỉ tiêu lợi chuận mỗi cổ phần (EPS) không cao như đã đăng trên Bản tin TTCK. Ngoài những trường hợp nêu trên còn rất nhiều các trương hợp vị phạm khác như Công ty cổ phần Cơ điện lạnh (REE), Công ty cổ phần Đồ hộp Hạ Long (Hạlong Cafoco)... tuy những trường hợp còn lại không nghiêm trọng bằng hai trường hợp trên nhưng cũng làm ảnh hưởng không ít đến thị trường và làm giảm ít nhiều nhiệt huyết của các nhà đầu tư.
Với tình hình trên các công ty niêm yết cần phải có các biện pháp tức thì nhằm giữ vững uy tín của công ty mình, làm yên lòng các nhà đầu tư hiện có và thu hút các nhà đầu tư tiềm năng đặc biệt là các nhà đầu tư nước ngoài- những người có tầm hiểu biết sâu sắc về TTCK đang rất quan tâm đến TTCK Việt Nam.
Ngoài những vi phạm công bố thông tin trên TTCK, một hạn chế nữa không thể không nêu ra là hiện nay các thông tin trên TTCK Việt Nam được các công ty niêm yết lập chủ yếu là bằng tiếng Việt nên khi các nhà đầu tư nước ngoài muốn đầu tư vào TTCK Việt Nam sẽ gặp rất nhiều khó khăn. Các bản các bản cáo bạch, báo cáo định kỳ được các công ty niêm yết lập và đột xuất gửi TTGDCK và UBCKNN chưa kịp dịch ra tiếng Anh phục vụ kịp thời nhu cầu của các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó đây cũng là một điểm cần nhanh chóng khắc phục nhằm đưa TTCK Việt Nam nhanh chóng phát triển và hội nhập với TTCK trên thế giới.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của TTCK Việt Nam còn thô sơ
Nhìn vào những TTCK có thâm niên cũng như một số TTCK mới nổi trong khu vực Đông Nam á chúng ta đều thấy cơ sở vật chất ở đây rất hiện đại và đầy đủ. Một TTCK sớm áp dụng các biện pháp kỹ thuật, công nghệ vào việc quản lý và vận hành thị trường luôn luôn là điểm gây ấn tượng để thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Nó không chỉ tạo cho cảm giác an toàn, chắc chắn và tin cậy cho các nhà đầu tư mà còn giảm tối đa công sức, thời gian của cơ quan quản lý thị trường, thực hiện chính xác và nhanh chóng các giao dịch của nhà đầu tư.
Đối với TTCK Việt Nam, một hạn chế cần được quan tâm là các phương tiện kỹ thuật trên thị trường còn quá thô sơ và thiêú thốn. Đành rằng TTCK Việt Nam mới ra đời nhưng không có nghĩa là không đòi hỏi trình độ kỹ thuật tiên tiến bởi lẽ nó giúp cho các cơ quan quản lý giám sát theo dõi các giao dịch trên thị trường, lưu giữ các số liệu, truy tìm, tái hiện lại các giao dịch, các mối liên hệ trong giao dịch thao túng thị trường, giao dịch nội gián mà còn giúp các nhà đầu tư nắm bắt được tình hình biến động giá chứng khoán, số lượng giao dịch một cách nhanh chóng và kịp thời. Do đó, để TTCK Việt Nam đạt được những mục tiêu đã đề ra trong “Chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010” chúng ta cần nhanh chóng áp dụng công nghệ khoa học tiến bộ vào hoạt động của TTCK.
Thực trạng tham gia cua các nhà đầu tư nước ngoài (NĐTNN) trên TTCK Việt Nam.
Quy trình tham gia đầu tư chứng khoán của NĐTNN.
Với các quy định hiện hành, quy trình tham gia cuả NĐTNN trên TTCK Việt Nam có thể được mô tả như sau:
Theo Điều 5 (mục 1) của Quyết định 198 nêu rõ: “Tổ chức, cá nhân nước ngoài muốn mua, bán chứng khoán niêm yết phải mở tài khoản lưu ký và tài khoản giao dịch chứng khoán tại thành viên lưu ký nước ngoài”. Thành viên lưu ký nước ngoài được quy định tại Điều 42 Nghị định 144/CP/2003/NĐ-CP phải là một ngân hàng thương mại nước ngoài được công nhận là thành viên lưu ký của TTGDCK. Thành viên lưu ký nước ngoài liên hệ với TTGDCK để xin mã số giao dịch, đồng thời là người đại diện cho người đầu tư nước ngoài chuyển vào để đầu tư chứng khoán được thành viên lưu ký nước ngoài mua lại. Khi người đầu tư muốn chuyển lợi nhuận về nước, thành viên lưu ký bán lại ngoại tệ cho người đầu tư và thực hiện chuyển tiền về nước sau khi người đầu tư đã thực hiện song các nghĩa vụ về thuế, phí và lệ phí theo quy định.
Đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài muốn niêm yết cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK Việt Nam thì trước hết phải là công ty cổ phần. Theo Nghị định số 38/2003/NĐ-CP thì các doanh nghiệp trên phải đáp ứng đầy đủ các quy định sau:
- Đã góp đủ vốn pháp định theo quy định tại Giấy phép đầu tư.
- Đã hoạt động ít nhất 3 năm, trong đó năm cuối cùng trước khi chuyển đổi phải có lãi.
Có hồ sơ đề nghị chuyển đổi gửi Bộ kế hoạch và đầu tư (được quy định chi tiết tại Thông tư liên tịch số 08/2003/TTLT-BTC ngày 29/12/2003/NĐ-CP về việc chuyể đổi một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoại sang hoạt động theo hình thức công ty cổ phần).
Sau khi doanh nghiệp hoàn thành việc chuyển sang hình thức hoạt động theo hình thức công ty cổ phần thì doanh nghiệp được tham gia niêm yết trên TTCK Việt Nam như mọi công ty cổ phần khác nếu đap ứng đầy đủ các điều kiện về niêm yết theo Nghị định 144/2003/CP-NĐ ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Điều kiện để niêm yết cổ phiếu như sau:
Có vốn điều lệ tại thời điểm xin phép niêm yết từ 5 tỷ đồng Việt Nam trở lên, có tình hình tài chính lành mạnh và hoạt động kinh doanh của 02 năm liên tục liền trước năm xin phép niêm yết phải có lãi.
Các cổ đông là thành viên Hội đồng quản trị, Ban giám đốc, Ban kiểm soát của công ty phải cam kết nắm giữ ít nhất 50% số cổ phiếu do mình sở hữu trong thời gian 03 năm, kể từ ngày niêm yết.
Tối thiểu 20% vốn cổ phần của công ty do ít nhất 50 cổ đông ngoài tổ chức phát hành nắm giữ. Đối với công ty có vốn cổ phần từ 100 tỷ đồng Việt Nam trở lên thị tỷ lệ tối thiểu là 15% vốn cổ phần.
Có hồ sơ xin phép niêm yết gửi UBCKNN (được quy định chi tiết tại Nghị định số 144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK và các thông tư hướng dẫn tại Nghị định này).
Đối với Quỹ đầu tư, Công ty quản lý quỹ.
Để tham gia vào TTCK Việt Nam, Quỹ đầu tư và Công ty quản lý quỹ cũng cần thực hiện theo những quy trình như với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như trên, ngoài ra quỹ đầu tư, công ty quản lý quỹ còn phải nộp Bản sao điều lệ quỹ và Biên bản ghi nhớ hoạt động của quỹ.
Tình hình giao dịch cổ phiếu của NĐTNN trên TTCK Việt Nam.
Trước khi đi vào phân tích tình hình giao dịch của người nước ngoài, chúng ta cần sơ qua về tỷ lệ được phép tham gia của NĐTNN trên TTCK Việt Nam như sau:
Theo Quyết định 146/2003/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 17/7/2003, quy định về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào TTCK Việt Nam ra đời đã tạo điều kiện thuận lợi đã giúp các nhà ĐTNN mở rộng quy mô giao dịch với tỷ lệ nắm giữ tối đa tổng số cổ phiếu niêm yết của tổ chức phát hành từ 20% lên 30%.
Tỷ lệ góp vốn của tổ chức kinh doanh chứng khoán nước ngoài trong công ty chứng khoán liên doanh hoặc công ty Quản lý quỹ liên doanh tối đa là 49% vốn điều lệ. Tổ chức, cá nhân nước ngoài được nắm giữ không giới hạn tỷ lệ trái phiếu lưu hành trên TTCK Việt Nam.
Về tình hình thị trường, nếu như cuối năm 2002 là thời điểm trầm lắng nhất của TTCK Việt Nam thì ngược lại năm 2003 lại là thời kỳ đánh dấu sự khởi sắc của thị trường do có sự tham gia tích cực của các NĐTNN.
Trong khi các nhà đầu tư trong nước giao dịch chững lại thì giao dịch của các NĐTNN đã được khởi động lại từ tháng 04/2003, đặc biệt kể từ sau khi biện pháp ký quỹ trực tiếp tại các Cty chứng khoán được áp dụng, mặc dù số lượng ký quỹ chưa tăng nhưng dấu hiệu này đã khiến các NĐTNN hào hứng hơn trong việc đưa ra quyết định sở hữu chứng khoán trên TTCK Việt Nam. Tháng 05/2003, tổng khối lượng và giá trị giao dịch của các nhà ĐTNN không lớn nhưng số lượng các cổ phiếu được mua vào lên tới 17 cổ phiếu. Đây là tổng số cổ phiếu được mua vào nhiều nhất trong 1 tháng kể từ trước đến nay. Tháng 05/2003, tổng khối lượng giao dịch là 167.500 cổ phiếu, trị giá 4,3 tỷ đồng được chuyển sang tay các nhà ĐTNN.
Vào tháng 10/2003, tình hình giao dịch của các nhà ĐTNN tăng đột biến và trở thành điểm đáng chú ý nhất trên TTCK Việt Nam. Có 14 loại cổ phiếu được các nhà ĐTNN đặc biệt quan tâm hơn cả bao gồm: REE, SAM, TMS, SGH,TRI, GIL, BT6, AGF, KHA, GMD, TS4, SAV, HA, VTC. So với tháng 9, kết quả giao dịch của các nhà ĐTNN trong tháng 10 tăng vọt, với tổng số các cổ phiếu được thực hiện chuyển nhượng qua lại là 383.320 cổ phiếu, chiếm 22% tổng khối lượng giao dịch toàn thị trường. Trong số 14 loại cổ phiếu trên, thì cổ phiếu REE, GMD, AGF, BT6 được các nhà ĐTNN giao dịch với tỷ trọng lớn lần lượt là 47%, 93%, 78%, 66,5%. Các giao dịch trên được thực hiện dưới cả hai hình thức khớp lệnh và thoả thuận.
Sau một thời gian dài chỉ số VN-Index liên tục giảm, 139,27 là điểm thấp nhất của tháng 9, chỉ số VN-Index tiếp tục có những điểm rơi mới và cuối cùng dừng lại ở mức 130,9 điểm vào phiên thứ 18 trong tháng. Tuy vậy ở 5 phiên cuối, VN-Index có dấu hiệu đảo chiều, lấy lại một phần điểm bị mất và bên cạnh đó thị trường cũng đang dần xuất hiện những dấu hiệu tích cực. Chỉ trong vòng 5 phiên giao dịch, từ ngày 10 đến ngày 14/11, VN-Index đã tăng vọt từ 138 lên 156 điểm (tăng 13%) và tăng thêm 16 điểm nữa trong phiên giao dịch từ ngày 18 đến ngày 25/11. Tổng cộng trong tháng, chỉ số VN-Index đã tăng 28 điểm (tương đương với 21%), những dấu hiệu khả quan này là do số lượng nhà ĐTNN tăng dẫn đến số lượng nhà đầu tư trong nước cũng tăng theo. Tổng giao dịch nước ngoài trong tháng lên tới 1.255.690 cổ phiếu, tăng rất nhiều so với tháng 10.
Vào tháng 12, người nước ngoài tham gia 21 loại cổ phiếu (chiếm 28% tổng khối lượng giao dịch cổ phiếu) trong đó chủ yếu các giao dịch được người nước ngoài mua là chủ yếu, chỉ có một số giao dịch bán lẻ tẻ không đáng kể. Chứng khoán có giao dịch các nhà ĐTNN lớn nhất trong tháng là BT6, với tổng lượng giao dịch nước ngoài 130.950 cổ phiếu (trong đó giao dịch mua vào 129.950, và chỉ có 1000 cổ phiếu BT6 do người nước ngoài bán ra). Đứng thứ hai giao dịch trong tháng thuộc về AGF, với 105.520 cổ phiếu được người nước ngoài mua vào, sau đó mới là REE và SAM.
Vào đầu năm 2004, các nhà ĐTNN vẫn không ngừng mua vào với khối lượng tăng đột biến với nhiều loại cổ phiếu, trong khi số lượng bán ra vẫn nhỏ giọt. Cổ phiếu AGF và LAF đã được nhà đầu tư mua vào đủ 30%, còn lại 21 loại cổ phiếu trên thị trường đều có các giao dịch thực hiện. Không những thế, có nhiều loại cổ phiếu được giao dịch liên tục qua các phiên như cổ phiếu REE, SAV, SAM, GIL, TRI và GMD. Nhiều nhất là REE với 100.990 cổ phiếu và SAM với 100.560 cổ phiếu được chuyển nhượng sở hữu từ các nhà đầu tư trong nước sang các nhà đầu tư nước ngoài. Chúng ta có thể thấy rõ tình hình trên qua bảng sau:
Mã CK
Giao dịch khớp lệnh
Giao dịch thoả thuận
KL mua
% giao dịch toàn TT
KL bán
% giao dịch toàn TT
KL mua
% giao dịch toàn TT
KL bán
% giao dịch toàn TT
BT6
1.150
1,93%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
SAV
2.650
3,15%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
TRI
34.270
53,19%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
SAM
100.560
76,24%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
REE
100.990
44,97%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
HAS
800
7,11%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
GMD
49.860
94,50%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
BBC
1.810
2,18%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
TMS
18.210
56,47%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
GIL
9.900
28,54%
0
0.00%
0
0,00%
0
0,00%
Bảng 1: Tình hình nắm giữ cổ phiếu của nhà ĐTNN tháng 07/03/2004
Cung cầu trong ngày Chỉ số tài chính (Đơn vị EPS – cổ tức:1000đ/cp Tỷ lệ nắm giữ cổ phần của nhà ĐTNN
Tổng KL đặt mua trong ngày
Tổng kl đặt bán trong ngày
Mua – bán
EPS (2003) điều chỉnh
P/E
Mức cổ tức đã trả (2003)
Cổ tức /thị giá
KL CP đang lưu hành
Total room
Current room
Ownership ratio
Stock symbol
99.700
68.600
31.100
5,5287
7,14
2,400
6,08%
4.029.130
1.253.739
139
30,00%
AGF
202.920
88.700
114.220
2,3106
9,52
0,500
2,27%
5.250.000
1.680.000
698.820
17,52%
BBC
8.720
3.800
4.920
2,9219
7,84
1,500
6,55%
3.600.000
1.140.000
1.121.440
0,49
BPC
128.910
61.940
66.970
3,0948
11,54
1,500
4,20%
5.882.690
1.764.807
949.537
13,86
BT6
1.370
12.100
-10.730
-1,3096
1,200
6,49%
1.261.345
378.404
262.154
9,22
BTC
17.700
14.200
3.500
1,4387
13,41
1,600
8,29%
3.501.580
1.050.000
208.160
24,05%
CAN
68.940
16.870
52.070
0,4414
27,64
0,300
2,46%
1.587.280
476.184
271.594
6,59%
DPC
69.150
46.480
22.670
5,6862
6,65
2,400
6,35%
2.550.000
765.000
29.120
28,86%
GIL
62.670
110.090
-47.420
4,9389
10,12
3,200
6,40%
14.984.020
5.153.537
3.441.974
9,96%
GMD
33.420
26.830
6.550
5,0159
8,33
3,000
7,18%
2.003.700
602.400
603.890
4,91%
HAP
37.020
14.180
22.840
4,6228
7,57
1,500
4,29%
1.200.200
360.000
304.630
4,61%
HAS
38.380
21.260
37.120
3,4382
8,11
2,000
7,17%
2.090.000
627.000
699.130
6,12%
KHA
7.600
3.370
4.230
3,8602
6,37
1,600
6,50%
1.782.840
572.952
62
30,00%
LAF
75.410
22.950
52.460
1,6713
10,41
1,200
6,90%
3.151.936
960.000
1951.620
0,26%
PMS
330.142
302.160
27.930
1,4729
19,15
1,200
4,26%
22.500.000
6.750.000
879.320
23,87%
RÊE
156.260
176.040
-19.780
3,3542
10,79
1,600
4,42%
18.000.000
5.400.000
2.942.280
13,65%
SAM
277.490
89.120
188.370
3,8015
9,39
1,600
4,48%
4.350.000
1.350.000
480.400
19,32%
SAV
4.780
950
3.830
1,0975
14,40
0,600
3,80%
1.766.300
529.890
442.090
4,97%
SGH
71.550
32.250
39.300
7,0796
6,37
2,200
4,88%
2.191.000
660.000
78.810
26,42%
TMS
95.780
64.430
31.350
5,0545
6,63
1,800
5,37%
3.776.500
1.137.090
234.130
23,82%
TRI
6.240
4.460
1.780
2,9152
7,20
1,600
7,62%
1.500.000
450.000
143.910
20,41%
TS4
10.420
10.630
-210
4,1362
11,97
1,350
2,73%
1.786.440
539.322
420.022
6,64%
VTC
1.824.570
1.191.410
633.160
108.774.761
33.600.324
15.463.205
Nguồn: Trung tâm giao dịch Chứng khoán Tp Hồ Chí Minh năm 2003
Bảng 2: Giao dịch của nhà đầu tư nước ngoài
Qua bảng 1 và bảng 2, chúng ta có thể nhận thấy một điều là nguồn vốn nước ngoài đang đổ vào TTCK Việt Nam với tốc độ rất nhanh. Để có kết quả như trên là do có những đổi mới về chính sách quản lý, sự phát triển khá thuyết phục của nền kinh tế (tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt 7,2%) và một TTCK mới mẻ với chỉ số giá hấp dẫn, TTCK Việt Nam đang hội tụ đủ các yếu tố thuận lợi để thu hút mạnh mẽ vốn đầu tư nước ngoài.
Đây là thời điểm được đánh giá là thời kỳ vàng son với những cơ hội vàng để đầu tư vào chứng khoán vì mức cổ tức đang rất hấp dẫn ( gần 17,4% cao hơn 7,4% - lãi suất ngân hàng), tỷ lệ tăng trưởng của các công ty niêm yết lớn hơn tốc độ tăng trưởng GDP, giá chứng khoán Việt Nam thấp nhất từ trước tới nay, quy mô thị trường sẽ tăng gấp hai lần vào cuối năm 2004.
Tính đến ngày 5/4, phiên 760 chỉ số VN-index duy trì ở mức 270,3 điểm, trong đó REE, BBC, SAV vẫn đước giao dịch mạnh.
REE vẫn là cổ phiếu duy nhất có khối lượng giao dịch trên 10 vạn cổ phiếu, gần 18 vạn cổ phiếu được chuyển nhượng (chiếm gần 1/2 khối lượng cổ phiếu giao dịch trên thị trường) tại giá nhỏ hơn giá tham chiếu 700 đồng, đây cũng là cổ phiếu chiếm hơn 43% giá trị giao dịch. Sau đó là SAM chiếm gần 19% giá trị giao dịch trong phiên, nhưng lại là cổ phiếu giảm giá mạnh nhất trong số những cổ phiếu được nhà ĐTNN quan tâm, trong khi GMD lại là cổ phiếu tăng giá với mức 2000đ/cổ phiếu. Sau đó là SAV với khối lượng mua của người nước ngoài là 14740 cổ phiếu, tỷ lệ sở hữu đạt 30% vốn điều lệ.
Riêng những cổ phiếu chủ chốt như REE, SAM, GMD, BBC đã chiếm 80% giá trị giao dịch của toàn thị trường, đây cũng là những cổ phiếu nhà đầu tư nước ngoài tiếp tục đầu tư vào với khối lượng mua tương ứng trong phiên là 29700 cổ phiếu REE, 7030 cổ phiếu SAM, 5000 cổ phiếu GMD.
Ngoài ra, trên TTCK Việt Nam còn xuất hiện một số quỹ đầu tư nước ngoài như Etile (Phần Lan), DEG (Đức), FMO (Thuỵ Sỹ) và PXP (Ai-len). Các quỹ này tham gia mua cổ phiếu trên sàn với khối lượng lớn dưới cả hai hình thức khớp lệnh và thoả thuận. Ngoài ra họ còn “săn lùng” cổ phiếu bên ngoài hoặc trực tiếp liên hệ với các công ty niêm yết để đặt vấn đề hợp tác đầu tư.
Có lẽ các nhà đầu tư chuyên nghiệp nước ngoài và một số quỹ đầu tư mới thành lập đã nhận thấy một cơ hội kiếm lời từ một thị trường đang được định giá thấp hơn so với giá trị thực của các cổ phiếu ở Việt Nam. So với các nước trong khu vực thì giá cổ phiếu trên TTCK Việt Nam thấp hơn 7 lần so với cổ phiếu trên TTCK Trung Quốc và 4 lần so với TTCK Malaysia...
Cũng vào thời điểm này, trái phiếu Chính phủ (TPCH) cũng bắt đầu gây được sự chú ý của các nhà ĐTNN. Tuy chưa nhiều nhưng đây là một tín hiệu tốt khi dòng vốn của các nhà ĐTNN bắt đầu chảy vào kênh TPCP. Kết quả tháng 2 có 3.885.195 cổ phiếu được các nhà đầu tư thực hiện giao dịch, cao gấp 2,6 lần so với tháng 1/2004.
Chưa có lúc nào TTCK Việt Nam lại có được cái nhìn thiện chí của các nhà ĐTNN như lúc này. Trong cuộc gặp mặt với các nhà ĐTNN của TTGDCK Tp Hồ Chí Minh vào tháng 3/2004, tất cả các nhà ĐTNN đều bày tỏ những ý kiến, đánh giá tốt đẹp, tích cực và sự tin tưởng vào sự hồi phục của thị trường. Ngược lại thị trường cũng ghi nhận một điều, để có được kết quả đó, có một phần đóng góp không nhỏ của các nhà ĐTNN.
Chương 3
Giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam
Định hướng phát triển TTCK Việt Nam trong thời gian tới
Để có một TTCK phát triển nhanh thì cần
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- B0009.doc