SỰ PHÁT TRIỂN SINH LÝ VÀ THỂ CHẤT
- Đây là giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì ở nam (từ 13 -15 tuổi)
và nữ (khoảng 11 - 13 tuổi). Ở em gái, ngực, lông ở nách và ở bộ phận sinh dục
phát triển, kinh nguyệt cũng bắt đầu xuất hiện. Ở các em trai, ngực bắt đầu nở nang,
những dấu hiệu phụ của bộ phận sinh dục phát triển và xuất hiện sự xuất tinh.
Những thay đổi rất cơ bản ở trên làm cho các em nhận ra rằng mình không còn là
trẻ con nữa.
- Ngoài ra, ở thiếu niên còn có những thay đổi thể chất có ảnh hưởng, hoặc thậm chí
gây ra sự mất căn bằng, những khó khăn tạm thời trong cuộc sống và hoạt động của
các em. Các em ở tuổi này phát triển mạnh về chiều cao, người ta thường gọi là "sự
nhảy vọt về tầm vóc". Cuối tuổi thiếu niên, tỉ lệ cơ thể xấp xỉ tỉ lệ đặc trưng của
người lớn. Tuy nhiên sự phát triển cơ bắp không theo kịp với chiều cao nên trong
giai đoạn đầu, ở các em có sự mất cân đối về chiều cao và chiều ngang của cơ thể.
- Tim phát triển nhanh hơn các mạch máu nên gây ra sự mất cân bằng và các rối loạn
chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch, biểu hiện dưới dạng tim đập nhanh,
huyết áp cao, thường chóng mặt, nhức đầu, sức làm việc giảm. Các em làm việc rất
hăng say, nhiệt tình nhưng sức chưa bền, chưa dẻo dai. Tuyến nội tiết hoạt động
mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng và tuyến sinh dục), gây sự mất cân bằng của hệ
thần kinh trung ương, dễ gây nên những cơn xúc động mạnh, gây những phản ứng
vô cớ, những hành vi bất thường. Ở tuổi thiếu niên, các quá trình thần kinh hưng
phấn của vỏ não mạnh và chiếm ưu thế, nên nhiều khi các em không làm chủ được
bản thân, không kiềm chế được xúc động mạnh. Nhìn chung, các em dễ bị kích
thích, dễ nổi nóng, gây gổ, khi hiếu động khi lại uể oải, thờ ơ. Bị lôi kéo, các em có
thể sa vào các "nhóm tự phát", các "băng đảng" có những hoạt động không lành
mạnh, thậm chí vi phạm pháp luật vì những hành vi thiếu suy nghĩ. Vào những lúc
như vậy, cách xử sự thiếu khéo léo thiếu phù hợp của người lớn có thể gây tổn
thương về mặt tâm lý, gây những "cơn sốc" (Stress) dễ dẫn trẻ đến chỗ tuyệt vọng
và hành động thiếu suy nghĩ ở tuổi thiếu niên.
41 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 619 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Các giai đoạn phát triển của con người, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c. Trẻ nhớ lâu, tập trung và có khả năng suy đoán
được chi tiết của công việc được giao. Khả năng nối kết thông tin mới với những
kiến thức có sẵn có khuynh hướng gia tăng trong giai đoạn này. Trẻ cũng có khả
năng hiểu sự việc ở mức độ sâu xa hơn và so sánh, đánh giá thông tin ở nhiều khía
cạnh khác nhau. Tuy nhiên khả năng chú ý ở trẻ còn kém, dễ bị cuốn hút điều mới
lạ, dễ phân tán, hay liên tưởng nên hay hỏi chuyện khác trong khi học.
- Đời sống xúc cảm, tình cảm của học sinh nhỏ khá phong phú, đa dạng và cơ bản là
mang tính tích cực. Trẻ sống hồn nhiên, hướng thiện. Trẻ rất vui mừng vì có bạn, tự
hào vì được gia nhập Đội, hãnh diện vì được giáo viên giao cho những công việc cụ
thể. Trẻ tiếp tục phát triển khả năng tự đánh giá bản thân và cảm xúc. Ban đầu, trẻ
đánh giá bản thân dựa vào những đặc điểm bên ngoài như tuổi tác, màu mắt, màu
tóc. Về sau, trẻ nhìn vào những đặc điểm bên trong để đánh giá bản thân. Ví dụ trẻ
mô tả mình là tử tế, thông minh, rộng rãi, hay được yêu mến. Khả năng hiểu và bày
tỏ những cảm xúc phức tạp như tự hào, tội lỗi, ganh tị gia tăng không ngừng. Thêm
vào đó, những trạng thái cảm xúc này có khuynh hướng trở thành một phần bản
thân trẻ. Trẻ cũng nhận ra trách nhiệm của bản thân trong việc tạo ra và kiểm soát
những cảm xúc khác nhau. Trẻ hiểu hơn rằng cảm xúc liên quan với sự kiện và
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
hành động và chúng tìm cách che giấu một số cảm xúc hay bày tỏ cảm xúc theo
phương cách được xã hội chấp nhận.
- Sự phát triển nhân cách của học sinh nhỏ chủ yếu diễn ra và bị chi phối bởi hoạt
động chủ đạo là hoạt động học tập. Qua học tập, tập dần với việc tự điều khiển
mình tuân theo những qui định của trường lớp. Tuy nhiên, ý chí của trẻ còn non
nớt. Trẻ thiếu tính độc lập, dễ bắt chước, làm theo người khác, khả năng tự chủ
kém, dễ phạm lỗi, kiên trì yếu, dễ bỏ cuộc (chỉ nhìn những gì trước mắt). Trẻ nhận
thức bản thân theo ý kiến của người khác (biết nhà mình giàu hay nghèo, biết thân
phận), trẻ hình dung bản thân mình theo nhận xét của những người xung quanh.
Đối với trẻ, ý kiến của người lớn, đặc biệt của giáo viên là cơ bản nhất, quan trọng
nhất và không thể chống đối lại. Vì thế, trẻ sẽ gặp khó khăn và hoang mang khi
đứng trước những ý kiến khác biệt hoặc mâu thuẫn về chính bản thân mình.
III. HOẠT ĐỘNG CHỦ ĐẠO
- Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh nhỏ. So với lứa tuổi mẫu giáo, hoạt động
học tập giai đoạn này vừa đòi hỏi trí tuệ tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo
vừa cần nơi trẻ một năng lực, một ý chí nhất định để tự kiềm chế bản thân, vượt
khó khăn, cố gắng thực hiện những yêu cầu của giáo viên. Do những qui định chặt
chẽ về mục đích, mục tiêu của giáo dục, trẻ không thể thích thì làm, không thích thì
thôi như thời mẫu giáo nữa. Ngược lại, nó phải biết thích ứng với những tình huống
xã hội mới ở lớp học, và trong giao tiếp với thầy cô và bạn bè.
- Qua học tập, trí tuệ của trẻ phát triển, trẻ gia tăng óc quan sát, trí nhớ, tư duy, tưởng
tượng. Tuy nhiên, trong năm đầu khả năng trí tuệ này chưa thật tinh tế. Trẻ dễ viết
thiếu nét, đọc nuốt chữ, nhầm lẫn những chi tiết gần giống nhau như oa - ao. Cấu
trúc lớp học, tương quan với thầy cô cũng đổi khác rất nhiều, do đó, trẻ cần cha mẹ
hỗ trợ trong khoảng một học kỳ đến 1 - 5 năm để có thể thích nghi và đáp ứng
nhiệm vụ học tập.
IV. NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHI ĐỒNG
1. Nhóm bạn cùng trang lứa
Đây là một phần của môi trường gần gũi với trẻ có những ảnh hưởng lâu dài đến
sự phát triển của trẻ. Qua những tương quan đồng đẳng tích cực, trẻ phát triển những
tương quan thân thiết và nảy sinh sự đồng cảm và thuận thảo. Trái lại, những tương
quan bạn cùng lứa có thể để lại những hậu quả tiêu cực trên sự phát triển của trẻ.
Cảm giác bị gạt bỏ, thù địch, đơn độc và trầm uất là kết quả của những tương quan
xấu với bạn bè có thể ảnh hưởng đến quan hệ sau này của trẻ với người khác.
2. Hình thức kỷ luật của cha mẹ
Khi trẻ càng ngày càng lớn thì cha mẹ càng phải đương đầu với những vấn đề mới
xung quanh việc kỷ luật và nuôi dạy con cái. Về mặt thể chất, nhận thức, và cảm
xúc, trẻ trở nên có khả năng thực hiện những công việc mới và nhận lãnh những
thách đố mới. Theo Piaget, chúng hiểu lý lẽ hơn và biết suy nghĩ đến hành động của
mình và của người khác. Erikson thì cho rằng trẻ từ 5 - 6 tuổi trở lên làm việc rất
chăm chỉ, chúng tò mò, nhiệt tình và muốn hiểu rõ môi trường. Đối với cha mẹ, kỷ
luật ở giai đoạn này xem ra có vẻ dễ dàng hơn giai đoạn trước vì khả năng nhận thức
của trẻ cho phép trẻ hiểu được những quy định và hậu quả. Công việc chính của cha
mẹ trong giai đoạn này là giúp trẻ phát triển những kỹ năng cần thiết để cư xử có
trách nhiệm và độc lập đồng thời hướng dẫn hỗ trợ trẻ đối phó với hoàn cảnh hiểm
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
nguy mà trẻ không thể thấy trước. Việc đánh đập trẻ hay những hình phạt thể chất sẽ
để lại những hậu quả xấu. Trẻ có khuynh hướng có những hành vi gây hấn, và bạo
lực do học hỏi hành vi của người khác
3. Các phương tiện truyền thông đại chúng
- Những cảnh bạo lực trên tivi và việc sử dụng các phương tiện khác như video
games, internet cùng với những nội dung không lành mạnh tác động lên hành vi
của trẻ. Nhiều nghiên cứu cho thấy trẻ xem những cảnh bạo lực nhiều sẽ dễ có
những hành vi gây hấn, chống đối xã hội hay cảm giác sợ hãi, bất an. Trẻ có
khuynh hướng cho rằng bạo lực không phải là vấn đề nghiêm trọng. Ở tuổi này,
trẻ chưa có khả năng phân biệt giữa thực và ảo nên dễ bắt chước những hành vi
trong phim ảnh. Chúng không hiểu rằng diễn viên trên tivi đang sắm vai và
những cảnh trong phim là để giải trí mà lại cho rằng những hành vi bạo lực như
thế là rất phổ biến và được xã hội chấp nhận.
- Chứng béo phì và tiểu đường có liên quan đến số giờ trẻ xem tivi, chơi video
hoặc lướt web. Gia đình và các nhà giáo dục cần giúp trẻ dung hòa giữa việc sử
dụng phương tiện truyền thông và các dạng giải trí khác cùng với các hoạt động
thể chất và những tương tác với nhóm bạn cùng trang lứa.
V. PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
S là một bé gái 8 tuổi, con nuôi của đôi vợ chồng không có khả năng sinh con. Cha
mẹ S đem em đến bạn là nhân viên công tác xã hội vì thấy em có vấn đề về hành vi. Họ
phàn nàn rằng em không chịu làm những gì họ bảo, không theo kịp chúng bạn trong lớp
và không chơi với bạn cùng lứa. Cha mẹ S cũng cho biết em không có bạn thân và dành
nhiều thời gian chơi một mình. S không quan tâm mấy đến các hoạt động phù hợp với lứa
tuổi mình và em thường thu mình lại và không tham gia các gì. Họ lo rằng em sẽ chậm
phát triển và sẽ ở lại lớp nếu cứ tiếp tục như thế.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN NHI ĐỒNG (TUỔI HỌC SINH CẤP 1)
- Sự phát triển thể chất: Não gần bằng người lớn, gia tăng chiều cao, trọng lượng, cơ bắp
và các kỹ năng phối hợp cần các hoạt động thể chất để tiếp tục phát triển các kỹ năng
vận động
- Sự phát triển tâm lý: có khả năng suy đoán, hiểu sự việc ở mức độ sâu xa hơn; so sánh,
đánh giá thông tin ở nhiều khía cạnh khác nhau. Đời sống xúc cảm, tình cảm khá phong
phú, đa dạng và cơ bản là mang tính tích cực
- Học tập là hoạt động chủ đạo, giúp trẻ tiếp thu những tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, rèn
luyện ý chí nhất định để tự kiềm chế bản thân, vượt khó khăn
- Những yếu tố tác động: nhóm bạn cùng trang lứa, hình thức kỷ luật của cha mẹ, các
phương tiện truyền thông đại chúng
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
Bài 4: GIAI ĐOẠN THIẾU NIÊN
(TUỔI HỌC SINH CẤP 2)
I. SỰ PHÁT TRIỂN SINH LÝ VÀ THỂ CHẤT
- Đây là giai đoạn đặc trưng với các dấu hiệu của tuổi dậy thì ở nam (từ 13 -15 tuổi)
và nữ (khoảng 11 - 13 tuổi). Ở em gái, ngực, lông ở nách và ở bộ phận sinh dục
phát triển, kinh nguyệt cũng bắt đầu xuất hiện. Ở các em trai, ngực bắt đầu nở nang,
những dấu hiệu phụ của bộ phận sinh dục phát triển và xuất hiện sự xuất tinh.
Những thay đổi rất cơ bản ở trên làm cho các em nhận ra rằng mình không còn là
trẻ con nữa.
- Ngoài ra, ở thiếu niên còn có những thay đổi thể chất có ảnh hưởng, hoặc thậm chí
gây ra sự mất căn bằng, những khó khăn tạm thời trong cuộc sống và hoạt động của
các em. Các em ở tuổi này phát triển mạnh về chiều cao, người ta thường gọi là "sự
nhảy vọt về tầm vóc". Cuối tuổi thiếu niên, tỉ lệ cơ thể xấp xỉ tỉ lệ đặc trưng của
người lớn. Tuy nhiên sự phát triển cơ bắp không theo kịp với chiều cao nên trong
giai đoạn đầu, ở các em có sự mất cân đối về chiều cao và chiều ngang của cơ thể.
- Tim phát triển nhanh hơn các mạch máu nên gây ra sự mất cân bằng và các rối loạn
chức năng trong hoạt động của hệ tim mạch, biểu hiện dưới dạng tim đập nhanh,
huyết áp cao, thường chóng mặt, nhức đầu, sức làm việc giảm. Các em làm việc rất
hăng say, nhiệt tình nhưng sức chưa bền, chưa dẻo dai. Tuyến nội tiết hoạt động
mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng và tuyến sinh dục), gây sự mất cân bằng của hệ
thần kinh trung ương, dễ gây nên những cơn xúc động mạnh, gây những phản ứng
vô cớ, những hành vi bất thường. Ở tuổi thiếu niên, các quá trình thần kinh hưng
phấn của vỏ não mạnh và chiếm ưu thế, nên nhiều khi các em không làm chủ được
bản thân, không kiềm chế được xúc động mạnh. Nhìn chung, các em dễ bị kích
thích, dễ nổi nóng, gây gổ, khi hiếu động khi lại uể oải, thờ ơ. Bị lôi kéo, các em có
thể sa vào các "nhóm tự phát", các "băng đảng" có những hoạt động không lành
mạnh, thậm chí vi phạm pháp luật vì những hành vi thiếu suy nghĩ. Vào những lúc
như vậy, cách xử sự thiếu khéo léo thiếu phù hợp của người lớn có thể gây tổn
thương về mặt tâm lý, gây những "cơn sốc" (Stress) dễ dẫn trẻ đến chỗ tuyệt vọng
và hành động thiếu suy nghĩ ở tuổi thiếu niên.
II. ĐỜI SỐNG CẢM XÚC – Ý CHÍ
- Như ở trên đã trình bày, tuổi thiếu niên là lứa tuổi của dậy thì và phát dục. Sự dậy
thì đã kích thích chúng quan tâm đến người khác giới, và nảy sinh những rung cảm
giới tính mới lạ. Quan hệ với bạn khác giới ở tuổi thiếu niên không "hồn nhiên",
"vô tư" như các học sinh nhỏ. Những rung động giới tính thông thường được trẻ 13
- 15 tuổi biểu hiện một cách thẹn thùng, kín đáo, tế nhị với nhau. Nhìn chung
những rung cảm giới tính ban đầu ở tuổi thiếu niên là trong sáng. Các em chỉ mong
thỏa mãn tâm trạng này bằng một mối thiện cảm nho nhỏ, một lời nói dịu dàng, một
cử chỉ quan tâm, một nụ cười trìu mến... Tâm trạng này sẽ qua đi nhanh chóng nếu
chúng được sống trong một môi trường lành mạnh, người lớn biết hướng sự chú ý
của các em vào hoạt động học tập, lao động có ích, những mối quan hệ bạn bè vô
tư, trong sáng. Những sự can thiệp thô bạo của người lớn sẽ làm cho thiếu niên cảm
thấy bị chế giễu, xúc phạm và thường dẫn đến hậu quả không tốt đẹp thậm chí tai
hại cho nó.
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
- Đối với người lớn, thiếu niên thường tỏ ra bướng bỉnh chống đối nếu người lớn vẫn
tiếp tục cư xử với chúng như một đứa trẻ. Những biểu hiện thường gặp là chúng xa
lánh phủ định người lớn, và cho rằng người lớn không thể hiểu được mình. Sự xung
đột có thể kéo dài cho đến khi nào người lớn thay đổi cách nhìn nhận, đánh giá về
thiếu niên, tôn trọng sự độc lập, ý thức vươn lên làm người lớn của chúng, có quan
hệ bạn bè, bình đẳng, hợp tác với tư cách là người đi trước có kinh nghiệm hơn dẫn
dắt cho chúng.
- Ý chí của học sinh thiếu niên có những thay đổi và mang màu sắc mới. Chúng
thường cố gắng bắt chước người mẫu lý tưởng mà mình chọn làm thần tượng. Sự
phấn đấu vươn lên theo hình mẫu lý tưởng giúp thiếu niên hình thành những phẩm
chất ý chí như sức mạnh, tính can đảm, lòng dũng cảm, sức chịu đựng gian khổ,
tinh thần vượt khó khăn để đạt mục đích.
III. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP
- Tuy đã mang những sắc thái mới và có sự phân hóa đáng kể, hoạt động học tập vẫn
chiếm vị trí quan trọng trong sự phát triển tâm lý, và nhân cách ở thiếu niên. Đối
với nhiều em, sự hấp dẫn của nhà trường tăng lên vì nơi đây trẻ có thể giao tiếp
rộng rãi với các bạn cùng tuổi. Giờ học không chỉ đơn thuần là học tập, mà còn là
một tình huống tương tác với bạn bè, với giáo viên bằng những cử chỉ, những đánh
giá và những rung cảm có ý nghĩa. Do đó, đối với không ít em, sự say mê học tập bị
giảm sút, có chút xao lãng trong việc học và chuẩn bị bài.
- Việc học tập ở các lớp THCS đòi hỏi các em phải nắm vững một khối lượng tri thức
lớn, phải có nhận thức và tư duy cao hơn. Những tri thức mang tính khái niệm, tính
khái quát, tính lôgíc đòi hỏi ở thiếu niên động não, tập trung chú ý, ghi nhớ và tưởng
tượng. Tuy nhiên, nội dung học tập ở tuổi thiếu niên mở rộng hơn ở tuổi học sinh
nhỏ. Chúng tiếp thu kiến thức mang tính độc lập và có mục đích hơn, không chỉ ở
trong nhà trường, mà còn bằng nhiều kiểu nhiều cách, nhiều nguồn khác nhau. Động
cơ hoạt động học tập của chúng có liên quan đến dự định nghề nghiệp tương lai.
- Tương quan với giáo viên cũng khác hơn trước rất nhiều. Không giống thời tiểu
học, giờ đây mỗi giáo viên dạy một môn học với phong cách, trình độ tri thức, cách
giao tiếp riêng. Học sinh so sánh và đánh giá các giáo viên theo những thông số
khác nhau và có mức độ hứng thú học tập cũng khác tùy theo từng môn học, và tùy
từng giáo viên.
IV. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH
- Đây là thời kỳ “cái tôi" hình thành và phát triển mạnh mẽ. Tự ý thức là một trong
những phẩm chất nhân cách nổi bật ở tuổi thiếu niên. Khác với học sinh nhỏ, thiếu
niên có nhu cầu hiểu biết những đặc điểm của bản thân, suy nghĩ về chính mình và
tự đánh giá về mình để đi đến chỗ hài lòng hay bất mãn với chính mình. Chúng
thường tự phân tích bản thân và xem đó như là một phương tiện cần thiết để điều
chỉnh, tổ chức những mối quan hệ đối với hoạt động, với bạn bè, với người lớn.
- Ngoài khả năng tự đánh giá, thiếu niên phát triển khả năng đánh giá người khác.
Chúng thường đánh giá bạn bè, thầy cô, cha mẹ và những người xung quanh cả về
hình thức lẫn nội dung. Những sự đánh giá này nói chung khá chính xác và hơi khắt
khe. Nó thường biểu lộ không phải trên lời nói mà chủ yếu ở cách ứng xử, ở nghĩa
vụ đối với chính những người mà các em đánh giá: các em thường hài lòng, sung
sướng hoàn thành tốt những nhiệm vụ khi được những người các em đánh giá cao
trao đổi hoặc giao nhiệm vụ. Ngược lại, miễn cưỡng, hoàn thành tắc trách những
việc mà những người các em đánh giá là thiếu uy tín giao cho. Nhiều khi chính sự
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
đánh giá này giúp các em tìm được mẫu người lý tưởng trong thực tế cuộc sống để
noi theo.
- Trong sự phát triển nhân cách của mình, thiếu niên bắt đầu suy nghĩ đến nghề
nghiệp tương lai trong đó các em tính đến khả năng của bản thân và hoàn cảnh sống
của gia đình. Các em thu thập những thông tin, bàn luận về những nghề nghiệp
khác nhau và thử ướm khả năng, hoàn cảnh của mình vào các nghề mình thích thú.
- Do khả năng đánh giá và tự đánh giá, thiếu niên hình thành và phát triển một phẩm
chất nhân cách quan trọng là sự tự giáo dục. Các em quan tâm và tự kiểm tra sự tiến
bộ của mình. Chúng có thể buồn hay lên án bản thân vì chưa thực hiện được nhiệm
vụ, kế hoạch đề ra. Chúng tự tác động bản thân, tự sáng tạo nhằm đạt được những
nhiệm vụ, những mục đích có ý nghĩa.
- Trong giai đoạn chuyển tiếp thành người lớn, trong quá trình hình thành và khẳng
định cái "tôi" có ý nghĩa xã hội, thiếu niên gặp không ít những khó khăn. Chúng
cần sự hỗ trợ tích cực của người lớn và xã hội. Chúng cần môi trường giáo dục
thuận lợi khích lệ và hướng dẫn chúng dần dần vượt qua những trở ngại, giải quyết
mâu thuẫn để trưởng thành và chuyển sang giai đoạn phát triển mới.
V. NHỮNG ĐIỂM KHÁC CẦN LƯU Ý Ở TUỔI THIẾU NIÊN
1. Dậy thì sớm và trễ
- Nhìn chung, các nghiên cứu cho thấy rằng phát triển sớm hay trễ đều có những
ảnh hưởng tích cực lẫn tiêu cực lên trẻ. Đối với em trai, phát triển sớm thường
làm gia tăng khả năng thể chất là làm cho trẻ được sự kính trọng và khâm phục
của các bạn đồng lứa. Trẻ phát triển sớm sẽ thích nghi tốt hơn và tự tin hơn so
với trẻ chậm phát triển. Trái lại, trẻ nam phát triển chậm với thân hình nhỏ con
thường dễ có những hành vi gây sự chú ý cho người khác và bị cho là thiếu
trưởng thành và không phù hợp. Mặt khác, trẻ phát triển sớm cũng có thể cảm
nhận nhiều áp lực hơn so với trẻ nam phát triển chậm vì người khác mong đợi
chúng cư xử có trách nhiệm và làm gương cho những trẻ khác.
- Đối với nữ, hậu quả của phát triển sớm hay chậm không rõ lắm. Tuy nhiên
một số nghiên cứu cho thấy trẻ nữ phát triển sớm gặp một số vấn đề ở trường,
chúng nổi tiếng trong đám con trai và tỏ ra độc lập hơn so với trẻ nữ chậm
phát triển. Trẻ nữ phát triển sớm cũng có nguy cơ cao về vấn đề lo lắng, trầm
cảm, sử dụng chất gây nghiện, khám phá tình dục và có những rối loạn chức
năng trong việc đối phó với stress và các vấn đề ở trường hơn các trẻ chậm
phát triển khác.
2. Quan hệ tình dục ở tuổi thiếu niên
Các công trình nghiên cứu khoa học về tâm sinh lý ở tuổi dậy thì đều cho thấy
hiện nay lớp trẻ vị thành niên có sự phát dục ngày càng sớm và mạnh hơn so với các
thế hệ trước đây. Nhu cầu sinh lý, tò mò, thích khám phá muốn khẳng định mình, và
do những ảnh hưởng của môi trường sống đã khiến cho nhiều thiếu niên quan hệ
tình dục từ rất sớm. Tác hại của việc quan hệ tình dục ở tuổi này thật vô lường: sức
khỏe suy giảm hoặc các bệnh lây qua đường tình dục, học tập sa sút, mang thai
ngoài ý muốn, phá thai, vô sinh, khủng hoảng tâm lý
3. Rối loạn chuyện ăn uống
Ở tuổi này, trẻ thiếu niên thường gặp rối loạn chuyện ăn uống, được thể hiện ở
một trong hai hình thức, đó là chứng háu ăn hoặc biếng ăn.
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
- Chứng biếng ăn: Rối loạn chuyện ăn uống dẫn đến gầy còm. Chứng biếng ăn
có khuynh hướng xuất hiện đầu và giữa tuổi vị thành niên. Mặc dù trẻ nam
cũng bị rối loạn nhưng trẻ nữ thường phổ biến hơn gấp 10 lần. Biếng ăn tác
động vào những trẻ trung lưu và thượng lưu thuộc gia đình có giáo dục và
thành đạt. Chứng biếng ăn có liên quan đến những áp lực từ môi trường, và do
di truyền. Thông thường chứng biếng ăn bắu đầu sau thời gian ăn kiêng và sau
khi trải nghiệm chuyện gì đó căng thẳng. Ăn kiêng ở dạng ăn uống khắt khe,
tập thể dục quá sức và đôi khi nôn thức ăn ra hoặc uống thuốc nhuận trường.
Các triệu chứng của chứng biếng ăn là lo lắng, trầm cảm, ốm tong, và những
hành vi tự buộc mình ép xác. Chứng biếng ăn sẽ sinh ra nhiều vấn đề về thể
chất như khô da, còi cọc, còi xương, mất kinh, lông mọc trên cơ thể và trên
mặt, dễ cảm lạnh, vấn đề về tim mạch, và nặng hơn là tử vong. Phương pháp trị
liệu hữu hiệu cho chứng biếng ăn là thuốc chống suy nhược và trị liệu tâm lý
dựa vào gia đình.
- Chứng háu ăn: Háu ăn là do ăn uống chè chén no say liên tục và thanh lọc cơ
thể bằng việc tập thể lực, nôn ra hoặc sử dụng thuốc nhuận trường. Háu ăn
thường xảy ra cuối thời vị thành niên hay đầu thời thành niên và có thể kéo dài
đến cuối tuổi thành niên. Giống người biếng ăn, người háu ăn bị ám ảnh về sự
gầy nhom và có cái nhìn méo mó về bản thân. Tuy nhiên không giống người
biếng ăn, người háu ăn thường có trọng lượng trung bình, cảm thấy xấu hổ về
hành vi của mình và hiểu biết bản chất rối loạn của những thói quen của mình.
Vì nhiều người háu ăn che dấu hành vi và có khuynh hướng giữ cho cân nặng
trung bình hay trên trung bình một chút, nên chứng háu ăn khó phát hiện hơn
chứng biếng ăn. Những người háu ăn cũng chịu những vấn đề tâm lý như trầm
cảm, rối loạn hành vi và nghiện ngập. Về thể lý, chứng háu ăn gây ra mất nước,
chóng mặt, tim mạch, giảm men răng và các chứng khác. Phương pháp trị liệu
hữu hiệu nhất là thuốc chống suy nhược, trị liệu nhận thức - hành vi dựa vào
gia đình
4. Việc sử dụng các chất gây nghiện và hậu quả của nó
- Tỉ lệ trẻ nghiện thuốc, rượu và ma túy ngày càng tăng. Thiếu niên dùng rượu và
ma túy vì những lý do khác nhau. Phần lớn là muốn “nếm thử mùi vị”, dùng
một lần hoặc vài lần để thỏa mãn tính tò mò, để biểu lộ sự chống đối, sự dũng
cảm, hoặc để đồng nhất hóa với băng nhóm. Một số khác cảm thấy cha mẹ
không thực sự quan tâm, hiểu và chấp nhận mình nên tìm đến ma túy để được
khuây khỏa.
- Trẻ nghiện ngập có tỉ lệ bạo lực, gây tai nạn, quan hệ tình dục sớm, mang thai
ngoài ý muốn, các bệnh lây qua đường tình dục, học vấn thấp cao hơn so với
các trẻ khác.
5. Nghiện game ở tuổi thiếu niên
Theo nghiên cứu của các chuyên gia tâm lý học thuộc Trường đại học Iowa, Mỹ,
trẻ ở độ tuổi từ 8 - 18 tuổi là lứa tuổi có tỷ lệ và nguy cơ mắc chứng "nghiện game"
cao nhất trên thế giới hiện nay. Biểu hiện của "chứng bệnh" này khá dễ nhận biết.
Khi nghiện game, trẻ thường chểnh mảng học hành và mọi việc xung quanh, chỉ tập
trung vào việc tìm kiếm các trò chơi trên mạng và có thể ngồi hàng giờ, thậm chí
hằng ngày trên máy vi tính. Các trò chơi nhập vai trực tuyến khiến thiếu niên tự cô
lập với thế giới bên ngoài, tương quan xấu với người khác, rối loạn hành vi và cảm
xúc, sa sút việc học, ảnh hưởng đến sức khỏe, thậm chí tự tử.
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
VI. PHÂN TÍCH TRƯỜNG HỢP
A là một bé gái 14 tuổi khi thì sống với người mẹ đơn thân khi sống với gia đình một
người bạn. Em gặp khó khăn trong tương quan với mẹ và đã vài lần đe dọa bỏ nhà ra đi.
Em học yếu và dành nhiều thời gian rong chơi trên đường phố và nhập bọn với trẻ vô gia
cư. Vấn đề của em bắt đầu khoảng một năm khi mẹ của em phát hiện ra rằng em cố tình
nôn ra sau khi ăn tối. Bị mẹ chất vấn, em bắt đầu giận dữ, tránh né mẹ và càng ngày càng
thân thiết với bạn đường phố hơn.
A gây chú ý cho bạn - một nhân viên công tác xã hội ở một trung tâm cộng đồng có
chương trình cho trẻ tuổi teen vô gia cư. Khi tiếp xúc với A, bạn để ý đến tình trạng xanh
xao gầy gò, trạng thái cảm xúc trầm uất, sự tự ti mặc cảm, và mức độ phát triển có vẻ
chậm của em. Dù không có bằng chứng nhưng bạn cũng quan tâm đến việc em đang có
quan hệ tình dục với một số bạn trai là trẻ đường phố.
A từ chối nói đến vấn đề tình dục, tránh thai hay các bệnh do quan hệ tình dục gây
nên. Em nói với bạn rằng em sẽ không bao giờ dính thai hay bị nhiễm trùng.
Tóm tắt ý chính: GIAI ĐOẠN THIẾU NIÊN (TUỔI HỌC SINH CẤP 2)
- Sự phát triển sinh lý và thể chất: tuổi dậy thì với sự phát triển của cơ quan sinh dục, sự
nhảy vọt về tầm vóc, tim phát triển nhanh, tuyến nội tiết hoạt động mạnh → thanh niên
nhận ra mình không còn là trẻ con. Họ nhiệt tình nhưng sức bền và dẻo dai chưa tốt, dễ
bị kích động
- Đời sống cảm xúc: rung cảm giới tính, dễ xung đột với người lớn, chọn thần tượng
- Hoạt động học tập: bị phân hóa đáng kể, học đi đôi với tương tác với người khác
- Sự phát triển nhân cách: cái tôi hình thành và phát triển mạnh mẽ, khả năng đánh giá và
tự đánh giá nổi lên
- Những điểm cần lưu ý: dậy thì sớm và trẻ, quan hệ tình dục sớm, rối loạn chuyện
ăn uống, việc sử dụng các chất gây nghiện và hậu quả của nó, nghiện game ở tuổi
thiếu niên
T[Type text]
Tài liệu phát – Các giai đoạn phát triển của con người
SDRC - CFSI
Bài 5: GIAI ĐOẠN THANH NIÊN
(THỜI KỲ ĐẦU CỦA GIAI ĐOẠN TRƯỞNG THÀNH)
Đến nay, chưa có sự thống nhất hoàn toàn về thuật ngữ cũng như giới hạn lứa tuổi của
giai đoạn phát triển độ tuổi này. Nhìn chung, giai đoạn thanh niên được xác định là khoảng từ
16 đến 24 - 25 tuổi.
I. HOÀN CẢNH XÃ HỘI CỦA SỰ PHÁT TRIỂN
- Vai trò xã hội của thanh niên thay đổi một cách cơ bản: vai trò độc lập và mức độ
trách nhiệm đối với gia đình ngày càng rõ rệt. Thanh niên tham gia lao động, có ý
thức với việc chọn nghề nghiệp tương lai. Nhiều em đã làm ra của cải vật chất, có
vai trò khá quyết định đối với một số việc trong gia đình... Quyền lợi xã hội của
thanh niên được hiến pháp qui định: quyền bầu cử, quyền công dân, có trách nhiệm
thực sự trước xã hội như nghĩa vụ quân sự, chịu trách nhiệm về tội hình sự trước
những hành vi của mình. Như vậy xã hội coi họ là một thành viên chính thức, một
người trưởng thành.
- Tuy nhiên, đối với nhiều em, do đang ngồi trên ghế nhà trường, chưa tham gia trực
tiếp sản xuất ra của cải vật chất nên nhiều thanh niên chưa hoàn toàn là một người
tự lập về mọi mặt so với những người cùng độ tuổi phải vào đời sớm.
II. SỰ PHÁT TRIỂN THỂ CHẤT
- Đây là thời kỳ mà sự phát triển thể chất của con người đang đi vào giai đoạn hoàn
chỉnh. Trọng lượng não đạt mức tối đa, số lượng nơ-ron thần kinh lên tới mức cao
nhất (14 - 16 tỉ), với chất lượng hoàn hảo. Số lượng xi-nap của các tế bào thần kinh
đảm bảo cho một sự liên lạc rộng khắp, chi tiết, tinh tế và linh hoạt giữa vô số các
kênh làm cho hoạt động của não bộ trở nên nhanh, nhạy, chính x
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_cac_giai_doan_phat_trien_cua_con_nguoi.pdf