Phần lớn các tài liệu viết về việc sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu để phát triển ngôn
ngữ viết đều cho thấy khả năng thực hiện việc này và cho rằng đó là cách để trẻ bị điếc
biết đọc biết viết. Nhưng khả năng biết đọc biết viết lại không thể hiện nhiều thông qua
các bằng chứng về sự thành công hay thất bại.
Lindahl và Anderson (1990) đã mô tả phương pháp tiếp cận song ngữ được sử
dụng tại Thuỵ Điển và cho rằng: “thông qua ngôn ngữ dấu hiệu, họ (các học sinh điếc)
cũng có thể hiểu tiếng Thuỵ Điển tốt hơn và tự tin hơn khi sử dụng ngôn ngữ này. “Các
tác giả này không cung cấp cho chúng ta các bằng chức dựa trên các tiêu chuẩn của
Thuỵ Điển. Báo cáo về kinh nghiệm giáo dục song ngữ tại Đan Mạch, Hansen (1991)
cho rằng “khả năng đọc của trẻ bị điếc đã tăng lên đáng kể từ khi thực hiện phương
pháp tiếp cận song ngữ trong những năm 1980”. Nếu như vậy, tại sao chúng ta lại
không có được thông tin chính xác để xác nhận tình hình trên?
“Giải pháp” của những người thích sử dụng ngôn ngữ nói là phải phát triển ngôn
ngữ nói trước, sau đó sẽ học đọc học viết qua ngôn ngữ nói và cuối cùng mới học ngôn
ngữ dấu hiệu. Nói một cách ngắn gọn, người thích sử dụng ngôn ngữ nói cho rằng cách
học song ngữ tốt nhất là coi ngôn ngữ dấu hiệu như ngôn ngữ thứ hai. Ý kiến này hoàn
toàn trái ngược với những người thích sử dụng song ngữ. Cả người thích ngôn ngữ nói
lẫn người theo quan điểm giao tiếp tổng thể đều cho rằng tiếp cận bằng ngôn ngữ nói là
một cách làm hợp lý để phát triển khả năng ngôn ngữ ở trẻ điếc.
- Tranh luận về đạo đức khi sử dụng dấu hiệu như là ngôn ngữ đầu tiên:
Gần đây có những cuộc tranh luận giữa những người thích sử dụng ngôn ngữ nói
và những người theo quan điểm giao tiếp tổng thể về việc áp dụng ngôn ngữ nói như là
ngôn ngữ quan trọng hàng đầu trong giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn cần câu trả lời (hoặc
chí ít cũng có những cuộc thảo luận) về lời cáo buộc của những người theo phái song
ngữ về “âm mưu bình thường hoá” rằng những người thích sử dụng ngôn ngữ nói và
những người theo phe giao tiếp tổng thể đã cố tình tạo sự khuyết tật và biến trẻ bị điếc
thành một người mà chúng không bao giờ có thể trở thành - người có thính giác bình
thường.
Những người ủng hộ giao tiếp tổng thể và ngôn ngữ nói lại tin rằng lời cáo buộc
trên là không công bằng. Cũng giống như những người thích sử dụng song ngữ, họ tin
rằng trẻ bị điếc cũng có khả năng học ngôn ngữ như trẻ có thính giác bình thường và
việc “đánh thức” khả năng này là trung tâm của quá trình giáo dục trẻ bị điếc. Tuy
nhiên, họ lại tin rằng tiềm năng học ngôn ngữ của trẻ bị điếc có thể được hiện thực hoá
thông qua việc trực tiếp áp dụng ngôn ngữ nói (trực tiếp hoặc như trong giao tiếp tổng
thể) và sẽ hỗ trợ cho việc học dấu hiệu. Họ cho rằng có thể học được ngôn ngữ nói như
là ngôn ngữ đầu tiên và do đó không cần phải có những loại hình ngôn ngữ ít phổ biến
trong xã hội.
25 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 934 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Đại cương về giáo dục trẻ khiếm thính (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o các
khía cạnh của môi trường rộng lớn hơn, thì cha mẹ bắt đầu giao tiếp bằng dấu hiệu.
Những người chăm sóc phải làm dấu hiệu sao cho trẻ có thể tập trung vào những hình
ảnh liên quan đến thông tin về vật hay chú ý vào môi trường.
Để giúp trẻ tập trung có thể sử dụng rất nhiều chiến thuật khác nhau. VD: có thể
thu hút sự chú ý của trẻ đến mặt người chăm sóc bằng cách vỗ nhẹ đứa trẻ, hay dịch
chuyển đầu đứa trẻ, làm dấu thể hiện những gì được ám chỉ trong khi tay chỉ về phía đồ
- 34 -
vật. Một chiến lược khác là làm dấu hiệu về cơ thể trẻ và uốn tay của trẻ theo hình dạng
các dấu hiệu và hướng dẫn các chuyển động.
Thực tế, phần lớn trẻ khiếm thính được sinh ra trong gia đình có cha mẹ bình
thường. Một vấn đề đặt ra là liệu những bậc cha mẹ này có sử dụng hoặc có thể sử dụng
ngôn ngữ dấu hiệu để giao tiếp với đứa trẻ bị điếc không. Những người theo phương
pháp song ngữ cho rằng có rất nhiều cách để giải quyết vấn đề này. Họ cho rằng, rất
nhiều cha mẹ nếu được theo học các chương trình đào tạo, có sự khích lệ và hỗ trợ phù
hợp sẽ có thể thành công trong việc sử dụng dấu hiệu để giao tiếp với trẻ bị điếc một
cách thú vị.
- Học tập thông qua dấu hiệu: những năm học tại trường
Căn cứ vào việc trẻ phải tiếp xúc với ngôn ngữ dấu hiệu trong những năm đầu
đời, có thể giả định là khi đứa trẻ đến tuổi đến trường, nó có được những khả năng ngôn
ngữ cần thiết để có thể tiếp cận với bài giảng bình thường. Ngôn ngữ nói sẽ được dạy
như là ngôn ngữ thứ hai sau ngôn ngữ dấu hiệu và các phương pháp hướng dẫn tiếng
nói sẽ tận dụng khả năng ngôn ngữ dấu hiệu mà đứa trẻ có được.
3.2.2.3. Đánh giá phương pháp song ngữ
- Những người khiếm thính như là nhóm văn hoá thiểu số:
Đối với quyền của cộng đồng người điếc, không ai có thể phủ nhận rằng người
khiếm thính muốn và có quyền tạo nên một nhóm người. Như những người khác, người
khiếm thính tự do trong việc kết giao với bất cứ ai. Điều này cũng dẫn đến một ý tưởng
hấp dẫn là sự kết hợp thành nhóm của những người đồng cảnh ngộ, những người này có
thể giao tiếp và kết bạn dễ dàng hơn. Không thể phủ nhận những lợi ích về tâm lý và xã
hội của cộng đồng. Không thể chấp nhận được việc cô lập người điếc do họ không có
khả năng giao tiếp thông qua ngôn ngữ nói. Tuy nhiên, người khiếm thính có quyền
được nhận biết như một nhóm văn hoá và ngôn ngữ thiểu số nếu họ muốn và có thể
tham gia hoạt động chính trị để hỗ trợ cho lợi ích của họ.
- Vị thế của ngôn ngữ dấu hiệu:
Một khía cạnh của phương pháp song ngữ thường không được thừa nhận là vị
thế của ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên với vai trò là ngôn ngữ chính thống. Van Uden cho
rằng ngôn ngữ dấu hiệu không có khả năng như ngôn ngữ nói trong việc chuyển tải tri
thức, thông tin và các ý tưởng. Ngôn ngữ dấu hiệu quá ít nên không có nhiều cơ hội
phát triển mạnh mẽ như ngôn ngữ nói. Đặc biệt ngôn ngữ dấu hiệu khó mà diễn đạt
được ý tưởng hay suy nghĩ của con người.
- Việc tiếp thu ngôn ngữ dấu hiệu như là ngôn ngữ đầu tiên:
Bằng chứng được sử dụng để hỗ trợ cho tranh luận về trẻ khiếm thính được tiếp
xúc với ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên trong những năm đầu đời có thể tiếp thu dấu hiệu
giống như trẻ bình thường tiếp thu lời nói là một nét đặc biệt trong lý lẽ của những
người ủng hộ phương pháp song ngữ, nhưng hiện nay lý lẽ này không được chấp nhận.
Tuy nhiên, theo báo cáo từ những nghiên cứu được thực hiện tại Anh, Harris (1992) cho
rằng chúng ta cần có nhiều số liệu hơn nữa, các mẫu lớn hơn nữa về việc trẻ khiếm
thính tiếp thu dấu hiệu trước khi đưa ra bất cứ một kết luận nào về vấn đề này.
Nếu cứ tiếp tục duy trì quan điểm rằng ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên có thể giúp
trẻ điếc có được khả năng sử dụng ngôn ngữ phù hợp với độ tuổi thì sẽ có áp lực trong
- 35 -
việc phát triển những công cụ mới để đánh giá ngôn ngữ dấu hiệu ở những trình độ khác
nhau.
Những người lo lắng và nghi ngờ về phương pháp song ngữ có thể không đòi
hỏi bằng chứng rằng nếu trẻ bị điếc có những kinh nghiệm ngôn ngữ thích hợp có thể
phát triển dấu hiệu như những dấu hiệu như những đứa trẻ có thính giác bình thường.
Điều đáng quan tâm là liệu một đứa trẻ bị điếc có phát triển ngôn ngữ dấu hiệu đủ tốt để
hỗ trợ khả năng của chúng trong quá trình giáo dục và để biết đọc biết viết hay không.
Nghiên cứu của Harris (1992) cho thấy việc tạo một môi trường phát triển ngôn ngữ dấu
hiệu có thể là một vấn đề, thậm chí cho dù nếu cha mẹ cũng bị điếc và cũng sử dụng
ngôn ngữ dấu hiệu. Có bằng chứng cho thấy những bậc cha mẹ có thính giác bình
thường gặp nhiều khó khăn khi cố gắng duy trì các hoạt động giao tiếp tương hỗ với trẻ
bị điếc.
Dường như không dễ điều hoà “nhu cầu” của trẻ bị điếc trong việc có một gia
đình luôn hỗ trợ chúng và “nhu cầu” của trẻ bị điếc về ngôn ngữ sử dụng dấu hiệu tự
nhiên với vai trò là phương tiện xác định “cái tôi” của trẻ. “Quyền” của các bậc phụ
huynh đã trở thành một vấn đề. Vì bất cứ lý do gì, nếu cha mẹ không học ngôn ngữ dấu
hiệu một cách thuần thục và nếu họ không muốn mất mất đi đứa trẻ, biến nó thành
thành viên của cộng đồng người điếc thì liệu họ có quyền chọn một phương pháp giáo
dục khác hay không? Liệu họ có quyền “tước đoạt” của đứa trẻ ngôn ngữ đầu tiên của
chúng hay không? Câu hỏi xem ai là người có quyền quyết định loại hình giáo dục và
phương pháp giao tiếp mà trẻ điếc nên có không phải là riêng phương pháp song ngữ.
Tuy nhiên, xét về phương pháp song ngữ, vấn đề “quyền quyết định” thực sự là một vấn
đề đáng quan tâm.
- Tiếp cận chương trình giáo dục thông qua ngôn ngữ dấu hiệu:
Những thảo luận ở phần trên đã gây nghi ngờ về việc liệu có điều kiện “lý
tưởng” của một trẻ điếc bẩm sinh (được sinh ra trong một gia đình có cha mẹ bị điếc) có
lặp lại không với đa số trẻ bị điếc sinh ra trong những gia đình có thính giác bình
thường. Khi nhận thức về phương pháp tiếp cận song ngữ, người ta không chắc chắn
rằng trẻ bị điếc sẽ được giáo dục nhiều thông qua phương pháp ra dấu hiệu tự nhiên.
Những nghiên cứu đều chỉ ra rằng người có thính giác bình thường nhìn chung
đều không chuẩn bị tích cực để học và sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu tự nhiên. Do đó, triển
vọng rằng đa số cha mẹ và giáo viên của trẻ bị điếc sẽ thông thạo ngôn ngữ dấu hiệu
thật xa vời. Nếu cha mẹ bị điếc buộc phải phát triển ngôn ngữ dấu hiệu tại trường và
tiếp thu học vấn bằng ngôn ngữ dấu hiệu thì sẽ tuyển dụng thâm những người điếc khác
làm việc tại trường, không chỉ với vai trò là giáo viên mà còn là phiên dịch viên hay
người truyền đạt thông tin. Và người ta vẫn băn khoăn liệu có đủ thanh niên điếc sẵn
sàng làm việc tại các vị trí trên không.
Vấn đề giáo dục trẻ thông qua ngôn ngữ dấu hiệu không cần phải coi như là một
vấn đề “chung” tuy nhiên, những vấn đề giáo dục này bị ảnh hưởng từ những khó khăn
về tính khả thi những khó khăn này được chỉ rõ mà không được lảng tránh.
- Phát triển khả năng biết đọc biết viết:
Tuy nhiên, nếu chúng ta cho rằng ngôn ngữ dấu hiệu có thể trở thành phương
tiện giao tiếp vượt trội trong lớp học thì một trong những nhiệm vụ chính là phải phát
triển khả năng biết đọc biết viết.
- 36 -
Phần lớn các tài liệu viết về việc sử dụng ngôn ngữ dấu hiệu để phát triển ngôn
ngữ viết đều cho thấy khả năng thực hiện việc này và cho rằng đó là cách để trẻ bị điếc
biết đọc biết viết. Nhưng khả năng biết đọc biết viết lại không thể hiện nhiều thông qua
các bằng chứng về sự thành công hay thất bại.
Lindahl và Anderson (1990) đã mô tả phương pháp tiếp cận song ngữ được sử
dụng tại Thuỵ Điển và cho rằng: “thông qua ngôn ngữ dấu hiệu, họ (các học sinh điếc)
cũng có thể hiểu tiếng Thuỵ Điển tốt hơn và tự tin hơn khi sử dụng ngôn ngữ này. “Các
tác giả này không cung cấp cho chúng ta các bằng chức dựa trên các tiêu chuẩn của
Thuỵ Điển. Báo cáo về kinh nghiệm giáo dục song ngữ tại Đan Mạch, Hansen (1991)
cho rằng “khả năng đọc của trẻ bị điếc đã tăng lên đáng kể từ khi thực hiện phương
pháp tiếp cận song ngữ trong những năm 1980”. Nếu như vậy, tại sao chúng ta lại
không có được thông tin chính xác để xác nhận tình hình trên?
“Giải pháp” của những người thích sử dụng ngôn ngữ nói là phải phát triển ngôn
ngữ nói trước, sau đó sẽ học đọc học viết qua ngôn ngữ nói và cuối cùng mới học ngôn
ngữ dấu hiệu. Nói một cách ngắn gọn, người thích sử dụng ngôn ngữ nói cho rằng cách
học song ngữ tốt nhất là coi ngôn ngữ dấu hiệu như ngôn ngữ thứ hai. Ý kiến này hoàn
toàn trái ngược với những người thích sử dụng song ngữ. Cả người thích ngôn ngữ nói
lẫn người theo quan điểm giao tiếp tổng thể đều cho rằng tiếp cận bằng ngôn ngữ nói là
một cách làm hợp lý để phát triển khả năng ngôn ngữ ở trẻ điếc.
- Tranh luận về đạo đức khi sử dụng dấu hiệu như là ngôn ngữ đầu tiên:
Gần đây có những cuộc tranh luận giữa những người thích sử dụng ngôn ngữ nói
và những người theo quan điểm giao tiếp tổng thể về việc áp dụng ngôn ngữ nói như là
ngôn ngữ quan trọng hàng đầu trong giáo dục. Tuy nhiên, vẫn còn cần câu trả lời (hoặc
chí ít cũng có những cuộc thảo luận) về lời cáo buộc của những người theo phái song
ngữ về “âm mưu bình thường hoá” rằng những người thích sử dụng ngôn ngữ nói và
những người theo phe giao tiếp tổng thể đã cố tình tạo sự khuyết tật và biến trẻ bị điếc
thành một người mà chúng không bao giờ có thể trở thành - người có thính giác bình
thường.
Những người ủng hộ giao tiếp tổng thể và ngôn ngữ nói lại tin rằng lời cáo buộc
trên là không công bằng. Cũng giống như những người thích sử dụng song ngữ, họ tin
rằng trẻ bị điếc cũng có khả năng học ngôn ngữ như trẻ có thính giác bình thường và
việc “đánh thức” khả năng này là trung tâm của quá trình giáo dục trẻ bị điếc. Tuy
nhiên, họ lại tin rằng tiềm năng học ngôn ngữ của trẻ bị điếc có thể được hiện thực hoá
thông qua việc trực tiếp áp dụng ngôn ngữ nói (trực tiếp hoặc như trong giao tiếp tổng
thể) và sẽ hỗ trợ cho việc học dấu hiệu. Họ cho rằng có thể học được ngôn ngữ nói như
là ngôn ngữ đầu tiên và do đó không cần phải có những loại hình ngôn ngữ ít phổ biến
trong xã hội.
Những người thích sử dụng ngôn ngữ nói và những người ủng hộ giao tiếp tổng
thể không đồng ý với ý kiến của những nhà song ngữ rằng việc đưa ra hình thức ngôn
ngữ nói như một ngôn ngữ đầu tiên là phủ nhận tật điếc, không đếm xỉa tới sự khác biệt
giữa người điếc và người bình thường. Những người thích ngôn ngữ nói hoặc ủng hộ
giao tiếp tổng thể cho rằng họ đang tạo cho trẻ bị điếc những gì chúng cần nhất: ngôn
ngữ nói và khả năng biết đọc biết viết. Họ nhận thức được rằng “chẳng có gì sai nếu bị
điếc” cũng giống như chẳng có gì sai nếu lỡ bị mù hay bị lùn. Họ cũng cho rằng nếu có
- 37 -
gì có thể biện hộ cho các quan điểm trái ngược thì đó phải là sự khác biệt giữa những cá
nhân và mỗi người đều có những giới hạn và sự thương tổn nhất định: điều chúng ta cần
là một xã hội ý thức và chấp nhận sự khác biệt giữa các cá nhân - một xã hội không
phân biệt đối xử giữa những con người chỉ vì họ khác nhau. Những người thích ngôn
ngữ nói và ủng hộ giao tiếp tổng thể cho rằng các tranh cãi về đạo đức không chỉ xảy ra
trên khía cạnh những người thích sử dụng song ngữ.
Xét các trường hợp sử dụng song ngữ, dường như các ý kiến tranh luận về thứ tự
ưu tiên là rất đúng và xét trên cơ sở đạo đức thì thứ tự ưu tiên này được dựa trên những
nghiên cứu kỹ càng về ngôn ngữ và những kết quả giáo dục trẻ bị điếc. Tuy nhiên,
không có các bằng chứng xác thực về việc học song ngữ không có nghĩa là việc tiếp
cận bằng phương pháp song ngữ không thể đạt được các mục tiêu đề ra. Có thể mất
nhiều thời gian để thực hiện các chiến lược hiệu quả hoặc phát triển ngôn ngữ dấu hiệu
ở trẻ bị điếc ở những địa điểm mà ngôn ngữ dấu hiệu không được coi là một ngôn ngữ.
Như chúng ta đều thấy, việc hỗ trợ để áp dụng ngôn ngữ dấu hiệu như là ngôn
ngữ đầu tiên của trẻ bị điếc chủ yếu dựa trên các nguyên tắc đạo đức. Các nhà phê bình
có thể không đồng ý với mô hình song ngữ hiện nay nhưng tất nhiên họ cũng không thể
chê trách rằng những người thích sử dụng song ngữ bị sai về mặt đạo đức. Thực tế,
trong tình hình tư tưởng hiện nay, các nhà phê bình khó có thể tiếp tục tranh cãi rằng
bệnh điếc là một khuyết tật và là một vấn đề buộc phải vượt qua. Dường như sẽ sai nếu
tranh cãi, thậm chí càng sai nếu lên án ý tưởng học ngôn ngữ dấu hiệu như là ngôn ngữ
đầu tiên của trẻ bị điếc căn cứ trên ngông ngữ dấu hiệu đối với người điếc và sự tôn
trọng người điếc như một nhóm xã hội và văn hoá. Có nhiều vấn đề đang thách thức
chúng ta như làm sao để trẻ bị điếc thành thạo các dấu hiệu trước khi bước vào tuổi đến
trường hay vấn đề các giáo viên thực hiện các bài giảng về dấu hiệu và phát triển ngôn
ngữ thông qua dấu hiệu đều là những vấn đề hết sức thực tế nhưng chúng ta đều có thể
vượt qua. Với những người thích song ngữ, không thể bác bỏ rằng trẻ bị điếc có quyền
học ngôn ngữ của chúng như ngôn ngữ đầu tiên, ngôn ngữ duy nhất mà chúng không bị
coi là người khuyết tật và tính đạo đức chính là ở đây.
3.2.3 Phương pháp giao tiếp tổng hợp
3.2.3.1. Phương pháp giao tiếp tổng hợp bao gồm những gì?
Phương pháp giao tiếp tổng thể gồm việc sử dụng tất cả các phương thức giao
tiếp-dấu hiệu, đánh vần bằng ngón tay, phát âm, nghe, đọc hình miệng, biểu lộ thông
qua nét mặt và cử chỉ điệu bộ. Bằng cách tiếp cận với tất cả các kênh giao tiếp, người ta
tin rằng phương pháp này sẽ giúp trẻ bị điếc có thể sử dụng các cơ quan cảm giác để
phát triển ngôn ngữ và có những phương tiện để giao tiếp. Khía cạnh quan trọng nhất
của phương pháp này là việc chấp nhận nguyên tắc sử dụng bất cứ phương tiện giao tiếp
nào có thể phát triển giao tiếp hiệu quả và hiểu được ngôn ngữ. Nói chung, phương
pháp này sử dụng các dấu hiệu để giúp làm rõ ý nghĩa. Việc sử dụng rộng rãi các hình
ảnh và cảm nhận về hình ảnh của trẻ điếc sẽ nhấn mạnh vào cái mà trẻ có thể làm được.
3.2.3.2. Trường hợp tiếp cận giao tiếp tổng hợp
Không khó để hiểu được sự hấp dẫn của việc sử dụng phương pháp giao tiếp
tổng thể, đặc biệt là sau những nghiên cứu thành công của việc giáo dục trẻ bị điếc bằng
lời nói. Dù vậy, rất nhiều tình huống của phương pháp giao tiếp tổng thể lại căn cứ vào
những chỉ trích tiêu cực về phương pháp tiếp cận hoàn toàn bằng lời nói.
- 38 -
Những người ủng hộ giao tiếp tổng thể cho rằng phương pháp giao tiếp bằng lời
phải chịu trách nhiệm trực tiếp về chất lượng giáo dục, ngôn ngữ và lời nói thấp ở
những thanh niên điếc và vì vậy phương pháp giao tiếp bằng lời phải đối mặt với nhiều
vấn đề. Người ta tin rằng đã đến lúc phải có một phương pháp thay thế để cải thiện tình
hình.
Để phát triển các tình huống, những người ủng hộ giao tiếp tổng thể đã đưa ra
rất nhiều lý do cho thất bại “không thể tránh khỏi” của phương pháp giao tiếp hoàn toàn
bằng lời. Ngay từ đầu, trẻ bình thường sử dụng thính giác để có được ngôn ngữ và vì
vậy, khi đứa trẻ lên 5 và đi học thì chúng đã có nhiều năm kinh nghiệm ngôn ngữ. Tuy
nhiên, hầu như trẻ đã mất đi toàn bộ kinh nghiệm có được trong giai đoạn này. Nếu trẻ
bị tổn thương thính giác lớn hơn 70dB HL, chúng sẽ nghe được rất ít hay không nghe
thấy gì trước khi chúng được sử dụng các thiết bị hỗ trợ thính giác. Thậm chí khi sử
dụng các phương tiện hỗ trợ thính giác, những đứa trẻ bị điếc nặng cũng chỉ nghe được
những tiếng động nhỏ. Vì vậy, liệu trẻ bị điếc có thành thạo ngôn ngữ hay không khi đã
lên 3 tuổi chúng vẫn chưa có khả năng nói, hoặc nếu có thì khả năng này cũng rất kém.
Điều này trái ngược với những đứa trẻ 3 tuổi bình thường - những đứa trẻ có một lượng
từ vựng khoảng 1 000 từ và sử dụng ngôn ngữ để hỗ trợ suy nghĩ của chúng. Vì vậy, trẻ
bị điếc nặng và bị hạn chế trong giao tiếp sẽ có thể thiếu nhận thức và ngôn ngữ trong
những năm đầu đời.
Những người ủng hộ phương pháp giao tiếp tổng thể ý thức được rằng: mặc dù
có những thất bại, một số trẻ điếc sẽ tiếp tục phát triển ngôn ngữ giao tiếp qua lời nói và
sẽ phát triển “lời nói bên trong” (nội dung bên trong của lời nói). Tuy nhiên, có ý kiến
cho rằng đối với hầu hết trẻ bị điếc thì thông tin bắt nguồn từ môi trường lời nói bị giảm
giá trị do tổn thương thính giác của trẻ và do đó, thông tin này không thể hiện lời nói.
Các yếu tố âm thanh của lời nói không thể phân biệt rõ ràng để hỗ trợ ngôn ngữ nói: rất
nhiều giọng nói “giống nhau”. Những người ủng hộ giao tiếp tổng thể nhấn mạnh: khả
năng của trẻ bị điếc trong việc lĩnh hội ngữ pháp là rất hạn chế.
Theo quan điểm của phương pháp giao tiếp tổng thể, các thiết bị hỗ trợ khả năng
nghe giúp tăng cường một số yếu tố làm giảm khả năng nghe song những thiết bị đó
không thể bù đắp được những khó khăn do tổn thương hệ thống thính giác. Hơn nữa,
các thiết bị trợ thính chỉ khuếch đại môi trường thính giác: chúng không thể có những
chức năng mà cái tai bình thường có thể làm để phân biệt những dấu hiệu âm thanh từ
những tiếng ồn xung quanh. Vì vậy, những khó khăn khi nhận biết giọng nói của trẻ bị
điếc tăng lên gấp đôi.
Hơn thế nữa, có những tranh cãi xung quanh việc đọc được lời nói thông qua
nhìn môi. Thông tin nhận được từ việc nhìn môi người khác là rất hạn chế, một số âm
không thể phân biệt được khi nhìn môi người khác như p, b, m; một số âm không thể
quan sát được trên môi như r, g, n và những nguyên âm đọc lướt rất khó có thể phân
biệt. Phải nghe được lời nói thì mới có thể nhận biết được: việc nhìn môi người khác là
chưa đủ.
Theo lý lẽ của phương pháp giao tiếp tổng thể, việc cho rằng chỉ một số ít trẻ bị
điếc có thể vượt qua được “hàng rào âm thanh” là chưa đủ để chứng minh cho một
phương pháp giáo dục-phương pháp cho rằng số đông trẻ bị điếc đã hết hy vọng chữa
khỏi hoặc tốt nhất là trẻ bị điếc phải vượt qua một cuộc vật lộn vất vả để đạt được ngôn
- 39 -
ngữ thông qua thính giác. Với phương pháp kết hợp nghe và nhìn hình miệng, họ cho
rằng trẻ bị điếc có thể đạt được một vốn từ vựng một cách từ từ và siêng năng. Có ý
kiến cho rằng hiện nay chưa có một phương pháp nào có thể dự đoán được đứa trẻ nào
sẽ thành công theo phương pháp nhìn miệng. Cùng với niềm tin rằng không có những
ảnh hưởng tiêu cực tới cơ hội tiếp cận lời nói của trẻ bị điếc nếu sử dụng các dấu hiệu từ
khi trẻ còn nhỏ, tranh luận trên có nghĩa là không có một lý lẽ nào có thể từ chối các dấu
hiệu như là một phương tiện giao tiếp cho trẻ bị điếc trong quá trình phát triển.
Ngoài ra, những người ủng hộ giao tiếp tổng thể không có quan điểm tích cực
như những người theo phương pháp lời nói về khả năng của các thiết bị hỗ trợ thính
giác giúp trẻ bị điếc có thể nghe tốt hơn. Họ không chia sẻ với những người thích ngôn
ngữ nói rằng khi có thiết bị khuếch đại âm thanh tốt, trẻ bị điếc có thể có được thông tin
thông qua thính giác để phát triển ngôn ngữ. Vì thế, mặc dù có các tiến bộ khoa học
trong khuếch đại âm thanh, những người ủng hộ phương pháp giao tiếp tổng thể tin rằng
hầu hết trẻ bị điếc thường là quá điếc để có thể nhận được thông tin nếu chỉ thông qua
giao tiếp bằng lời. Họ tin rằng việc sử dụng các dấu hiệu sẽ có khả năng thay thế
phương pháp giao tiếp hoàn toàn thông qua miệng. Trước đây, phương pháp giao tiếp
thông qua lời nói đã thất bại với nhiều trẻ bị điếc và vì vậy cần phải có một phương
pháp thay thế nhạy cảm-phương pháp tiếp cận dễ dàng-nếu trong tương lai trẻ bị điếc
không tiếp tục thất bại.
Tuy nhiên, phương pháp giao tiếp tổng thể không chỉ dựa trên thất bại của
phương pháp giao tiếp hoàn toàn bằng ngôn ngữ nói. Những người ủng hộ phương pháp
giao tiếp tổng thể đưa ra một số lý do tích cực để có thể tin tưởng rằng phương pháp
giao tiếp tổng thể có hiệu quả hơn trong việc đem lại khả năng ngôn ngữ và giao tiếp
cho trẻ khiếm thính.
Đầu tiên việc sử dụng phương pháp giao tiếp tổng thể trong những năm trước
tuổi đến trường: nỗ lực của cha mẹ trẻ bị điếc để học giao tiếp bằng dấu hiệu đem lại
hiệu quả tích cực, cho thấy có thể giao tiếp với trẻ khiếm thính đang trong quá trình phát
triển dễ dàng hơn và vừa ý hơn. Trẻ bị điếc sẵn sàng sử dụng các điệu bộ và các dấu
hiệu, qua đó chúng có thể giao tiếp với người khác. Bằng cách sử dụng kết hợp cả dấu
hiệu và lời nói, việc giao tiếp với trẻ bị điếc không còn gặp khó khăn nữa. Nghịch lý là
người ta tin rằng nếu không có áp lực giao tiếp bằng lời nói, trẻ bị điếc có thể phát âm
và diễn đạt tự do hơn là khi sử dụng phương pháp lời kết hợp với thính giác. Bằng cách
sử dụng cả dấu hiệu cũng như cử chỉ, trẻ bị điếc sẽ học cách giao tiếp bình thường và
thoải mái. Trẻ bị điếc được khuyến khích giao tiếp bằng nhiều phương thức ngoài lời
nói đã tự tin hơn rất nhiều cho dù đó là những công việc khó khăn và trẻ có thể sử dụng
được ngôn ngữ nói. Bằng việc sử dụng dấu hiệu, quá trình hiểu và sử dụng ngôn ngữ
được thúc đẩy nhanh chóng giống như là quá trình đạt được khả năng ngôn ngữ của trẻ
bình thường.
Hơn thế nữa, họ cho rằng phương pháp giao tiếp tổng thể có ảnh hưởng tích cực
tới việc phát triển tình cảm của trẻ bị điếc và tránh được những tác động tâm lý xấu do
phương pháp giao tiếp chỉ sử dụng lời nói. Việc những người chăm sóc sử dụng ngôn
ngữ dấu hiệu trong những năm đầu đời của trẻ tăng cường mối liên hệ chặt chẽ giữa
người chăm sóc và đứa trẻ, đồng thời cũng khuyến khích mối quan hệ tình cảm gắn bó,
điều này dễ dàng hơn so với sử dụng phương pháp giao tiếp bằng lời với đứa trẻ.
- 40 -
Vì vậy, với cha mẹ đứa trẻ nhiệm vụ giao tiếp và đem lại khả năng ngôn ngữ cho
trẻ bị điếc dễ dàng hơn khi họ sử dụng các dấu hiệu. Điều này cũng đúng đối với những
giáo viên dạy trẻ khiếm thính. Những dấu hiệu được sử dụng trong lớp học sẽ giúp cho
việc tiếp thu bài giảng tốt hơn, tiếp thu từ vựng và giao tiếp thông thường hiệu quả hơn,
có thể tránh được thất bại khi giao tiếp và những hạn chế về ngôn ngữ trong lớp học chỉ
sử dụng phương pháp giao tiếp bằng lời.
Phương pháp giao tiếp tổng thể có thể tuân theo nguyên tắc của việc sử dụng
ngôn ngữ thông thường, như phương pháp kết hợp thính giác và lời nói. Ưu điểm của
phương pháp giao tiếp tổng thể là có thể nói một cách dễ dàng và tự nhiên khi các dấu
hiệu có thể hỗ trợ việc tiếp thu ý nghĩa. Việc trao đổi thông tin không thể thực hiện
được khi có sự hiểu lầm, nhắc lại và sửa lại. Vì thể giáo viên có thể giao tiếp tự nhiên,
thoải mái và không gò bó. Phát triển của khả năng đọc và viết được trợ giúp bởi việc sử
dụng các dấu hiệu để mã hoá và giải mã các từ đã viết. Tuy nhiên, trong suốt các năm
học tại trường phổ thông, những người theo phương pháp giao tiếp tổng thể cho rằng
phương pháp này giảm giá trị khi giáo viên giảng kiến thức mới, các khái niệm mới và
từ mới. Khi trẻ bị điếc được học tại trường cấp 1, các giáo viên hoặc người trợ giảng có
thể sử dụng các dấu hiệu trong thời gian thích hợp để giải thích các phần khó mà không
ảnh hưởng tới toàn bộ lớp học. Thông thường, phương pháp giao tiếp tổng thể có thể
giúp trẻ khiếm thính tăng khả năng tiếp cận với các bài giảng tổng quát.
3.2.3.3. Đánh giá phương pháp giao tiếp tổng hợp
Cũng như trường hợp những người ủng hộ phương pháp giao tiếp bằng lời,
phương pháp giao tiếp tổng thể có rất nhiều lý lẽ thuyết phục và hấp dẫn nhưng dựa trên
quan điểm có thể chấp nhận được và dựa trên “lý thuyết” thì chúng có vẻ đáng tin cậy.
Điều cốt yếu đối với phương pháp giao tiếp tổng thể là việc trẻ bị điếc sử dụng
các dấu hiệu đặc biệt trong những năm đầu đời và điều này không làm giảm việc phát
triển ngôn ngữ nói và năng lực nghe để nhận được thông tin ngôn ngữ quan trọng thông
qua thính giác.
Nếu như phương pháp giao tiếp tổng thể được coi như một phương pháp hiệu
quả trong việc chuyển tải ngôn ngữ đến trẻ bị điếc thì sẽ có một số thực nghiệm về
phương pháp này-đó là những nỗ lực để có thể sử dụng cả dấu hiệu và lời nói. Dựa trên
việc phương pháp giao tiếp tổng thể được sử dụng rộng rãi trong suốt 20 năm qua, đặc
biệt là tại Mỹ, chúng ta rất dễ để có thể đánh giá phương pháp này. Một số bản báo cáo
cho thấy các kết quả rất tích cực: chúng liên quan tới sự tiến bộ ngôn ngữ của trẻ bị điếc
và chủ yếu dựa trên những kinh nghiệm của phương pháp giao tiếp tổng thể trong
những năm 1970 hơn là những kinh nghiệm sử dụng trong những năm 1980.
Một bằng chứng hỗ trợ giao tiếp tổng thể có liên quan tới những kiến thức ngôn
ngữ thu thập được qua phương pháp giao tiếp tổng thể và quá trình đưa ra thông tin qua
các dấu hiệu và lời nói. VD: White và Stevenson (1975), Grove và Roda (1984) đã so
sánh phương pháp giao tiếp được áp dụng cho học sinh trung học tại Mỹ. Các phương
pháp đó là: giao tiếp chỉ sử dụng lời nói, giao tiếp chỉ sử dụng dấu hiệu, phương pháp
giao tiếp tổng thể và phương pháp đọc. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy sự vượt trội của
phương pháp giao tiếp tổng thể so với phương pháp giao tiếp chỉ sử dụng lời nói. Tuy
nhiên, 2 nghiên cứu trên cho thấy phương pháp đọc là phương pháp tốt nhất để thu
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_dai_cuong_ve_giao_duc_tre_khiem_thinh_phan_2.pdf