13-Đau đầu
14-Não rung lắc ( não chấn đãng )
15-Chóng mặt ( huyễn vận )
16-Chứng hồi hộp
17-Đau dạ dày
18-Sườn ngực đau đớn ( viêm gan )
19-Đau lưng đùi ( thần kinh toạ đau )
20-Vai và cánh tay đau
21-Đùi và đầu gối đau
22-Lưng trên và lồng ngực đau
23-Mất tiếng
24-Tiểu tiện nhiều lần
25-Đái dầm
26-Tạng thao ( bệnh is-tơ-ri )
27-Động kinh
28-Bàn tay và cánh tay tê bại ( thần
kinh quay tê bại )
200 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 499 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Điểm huyệt liệu pháp (Phần 2), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
không thể đưa ra sau lưng , cái đó
thuộc về chứng đau ngưng.
Cách chữa:
Đau vai và cánh tay lấy các huyệt
Hợp cốc, Liệt khuyết, Khúc trì, Kiên
ngung, Kiên tỉnh, Nhu du, Vân môn,
Kiên trung du. Đau vai, lấy huyệt ở
vùng vai. Đau cánh tay lấy huyệt ở
vùng cánh tay và phối hợp với một ít
số vùng ở vai. Bệnh mới đau dùng tả
pháp, bệnh lâu ngày dùng bổ pháp.
Đau đớn kiêm sợ lạnh, dùng bổ pháp
ở dương kinh, dùng tả pháp ở âm
kinh. Mỗi huyệt đều nắn day ngang
bằng, nhấn nhả 100 lần. Hư nhược thì
thêm phép chấm gõ ở da. điểm huyệt
xong thì thêm phép dựa theo nơi làm
thủ pháp dựa theo và phương pháp
như sau:
1- Một tay thầy thuốc lấy ngón cái
áp ấn chung quanh chỗ nối tiếp
vai với xương bả vai, ngón tay cái
còn lại áp ấn ở các huyệt Kiêm
tinh, Đại chuỳ, Cự cốt, ấn đi ấn
lại 3 –4 lần.
2- Hai ngón tay thầy thuốc áp ấn
qua lại một số lần ở chỗ nối khớp
vai.
3- Một tay thầy thuốc nắm tay
người bệnh, ngón tay cái còn lại
áp mái trên thủ dương mih kinh,
bốn ngón kia áp mái trên thủ thái
âm kinh, làm đi lầm lại lấy lần.
Lại xoay bàn tay màI áp đem ngón
bốn ngón trỏ và giữa áp ấn ở thủ
thái âm kinh, ngón cái áp theo
khoảng ở thủ dương minh kinh và
thủ thiếu dương kinh, làm phép ấn
theo mấy lần.
4- Bàn tay và cánh tay bị hoạt
động bị hạn thường có điểm ấn
đau ( áp thống điểm ) ở trước sau
khớp vai và cạnh phía ngón trỏ ở
khớp vai là chừng “ kiên ngưng “
lấy huyệt Vân môn ngoại ( Kỳ
huyệt ),các huyệt ấn đau ở Kiên
vu, Tý nhu, theo phéop nỗi tiếp
dùng ngũ hành.
( Phụ ) – vân môn ngoại ( tức là
điểm ấn đau phía ngoàI huyệt Vân
môn ) , dùng phép nối tiếp dùng ngũ
hành, chấm gõ phối huyệt Kinh cừ,
xoa đẩy phối huyệt Ngư tế. Nhấn nhả
sâu phối huyệtXí xích trạch , Ru lắc
phối huyệt thiếu thương. nắn day
ngang bằng sang trái sang phải phối
huyệt Thái uyên, huyệt Kiên vu, dùng
phép nối tiếp dùng ngũ hành chấm gõ
phốu huyệt Thương dương, xoa đẩy
phối huyệt Dương khê. Nhấn nhả sâu
phối huyệt Nhị gian, rung lắc phối
huyệt Tam gian, nếu day ngang bằng
sang trái sang phải phối huyệt Khúc
trì, Nhu du huyệt dùng thủ pháp nối
tiếpp ngũ hành, chamá gõ ở da phối
huyệt Thiếu trạch. Xoa đẩy phối
huyệt Dương cốc, nhấn nhả sâu phối
huyệt Tiền cốc, rung lắc phối huyệt
Hải khê, nắn day ngang bằng sang
phải sang trái phối huyệt Tiểu hải.
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên
Hiệu quả chữa:
Chữa 1 lần có thể thấy hiệu quả, vàI
ba lần sau thấy bệnh đã mất di quá
nửa, nhất loạt chữa 10 – 15 lần có
thể khỏi hết.
21. Đùi và đầu gối đau
Nguyên nhân bệnh:
Phần lớn do bị phong, thấp, hàn bên
ngoàI dẫn đến, nhưng cũng có do 6
kinh ở chân thuộc về tạng phủ có
bệnh biến mãn tính phản ứng ở kinh
lạc sở thuộc vùng đùi, gối đau đớn.
Phong thấp thì có quan hệ thời khí
biến hoá các tạ phủ nào đó ( của kinh
ở chân ) sinh ra bệnh biến mãn tính
cũng cõ hoặc thường, hoặc ít có phản
ứng kiểu đau đớn.
Cách chữa:
Lấy các huyệt Túc tam lý, Dương
lăng tuyền, Phong thị, Âm thị, Âm
lăng tuyền,Tam âm giao làm chủ, và
phối hợp với Tất nhãn, chỗ khớp nối
đầu gối. Hoặc là dùng phép “ bệnh
dưới lấy huyệt trên”, lấy các huyệt
Phong trì, Kiên tỉnh, Đại trữ. Phong
thấp thì ra phép dựa theo kinh lạc.
Bệnh thuộc tạng phủ thì phối hợp
huyệt theo quan hệ kinh lạc biểu lý,
âm dương.
Ví dụ như: Tiêu hoá không tốt gây
ra đau đầu gối phải lấy huyệt Túc
tam lý, Giải khê, trên kinh túc dương
minh vị, huyệt Tam âm giao trên kinh
túc thái âm tỳ. Các bệnh thuộc các tạ
phủ khác dẫn đến đau đầu gối có thể
dựa theo phương pháp trên theo
đường kinh lấy huyệt. Nhất loạt
dương kinh thường làm thuốc bổ, âm
kinh thường dùng phép tả. Mỗi huyệt
đều dùng các thủ pháp nắn day ngang
bằng, nhấn nhả, mỗi loại làm 100
lần. Nếu có sợ lạnh hoặc chứng hư,
mỗi huyệt đều thêm phép chấm gõ da
100 lần. Làm phép dựa theo đường
kinh lạc chừng 6 lần và làm phép
rung rẩy khớp ( theo phương pháp
rung rẩy huyệt vị hoặc rung rẩy chỗ
đau đớn ).
Điểm huyệt thứ tự: Giống như trên
Hiệu quả chữa: Chữa 1 –2 lần có
thể giảm nhẹ chứng, dựa theo bệnh
tình nặng hay nhẹ mà quyết định kỳ
hạn chữa.
22. Lưng trên và lồng ngực đau:
Nguyên nhân bệnh:
Nhất loạt là phong hàn gây ra bệnh,
cũng có thể do bệnh phổi gây ra,
cũng có khi do vị tổn thương ảnh
hưởng đến vùng ở ngực và vùng lưng
trên đau đớn, cũng có do va chạm
dẫn đến đau đơn.
Chứng trạng:
- Thuộc về phong hàn, thường có
quan hệ biến hoá khí hậu.
- Thuộc về bệnh phổi gây ra đau
đớn khi ho, thở hít sẽ thấy đau
đớn.
- Thuộc về bệnh dạ dày gây ra
đau đớn thường có quan hệ với
cơn đau tăng giảm của bệnh dạ
dày.
- Va chạm gây đau đớn thì đau
liên tục.
Cách chữa:
- Do phong thấp, lấy thư kinh
hoạt lạc làm chủ.
+ Ngực đau lấy huyệt Nội quan,
Khúc trạch, 2 lần chữa đầu dùng tả
pháp, sau khi thấy bệnh nhẹ bớt thì
dùng phép bổ.
+ Vùng lưng đau đớn, bổ huyệt Uỷ
trung, tả Thừa sơn, đó là dùng phép
bệnh ở trên lấy huyệt ở dưới, một bổ
một tả để đạt đến tác dụng thư cân
hoạt huyết, và phối hợp thêm A thị
huyệt.
- Bệnh phổi gây ra đau đớn, bổ
Thái uyên, tả Thiên lịch, bổ huyệt
Trung phủ để điều lý cái gốc của
bệnh ở phổi ( trị bản ), ngoàI ra
lấy thêm A thị huyệt để trị bản (
trị tiêu ).
- Bệnh dạ dày gây ra đau đớn,
bổ Túc tam lý, tả Trung quản, bổ
huyệt Thiên khu, đểu điều lý cái
gốc của bệnh ở dạ dày, ngoàI ra
lấy thêm huyệt cục bộ để chữa
ngọn ( trị tiêu).
Mỗi huyệt làm thủ pháp nắn day
ngang bằng và nhấn nhả đều 100 lần.
Khi cần thiết có thể theo thủ pháp
dựa theo đường kinh lạc. Va chạm
gây ra đau đớn, ngoàI việc lấy huyệt
theo chứng phong thấp là lấy huyệt
đường xa ra, còn phải làm thêm thủ
pháp ấn giữ kéo chia ở trên, dưới,
phải, trái của cục bộ nơi đau.
Thứ tư điểm huyệt: Giống như
trên
Hiệu quả chữa: Chữa từ 2 –4 lần
là thấy hiệu quả, nhẹ bớt. Nhất loạt
trên dưới 10 chữa thì khỏi.
23. Mất tiếng:
Nguyên nhân bệnh:
Ngực lép hẹp, đột nhiên gặp phải
kính động mà tối tăm té ngã, sau khi
tỉnh thấy chi thể vận động bình
thường nhưng lại mất tiếng.
Chứng trạng:
Tự nhiên rất nhanh chóng tối tăm té
ngã bất tỉnh nhân sự, hàm răng cắn
chặt tứ chi cứng đơ. Sau khi được
cứu chữa kịp thời đã tỉnh, mất đi
năng lực nói tiếng, miệng há không
được ta lắm nhưng ăn uống không
gặp khó khăn, đầu lưỡi không thể lè
ra ngoàI môi. Thính giác không trở
ngại, rõ ràng câm mà không điếc.
Cách chữa:
Trước hết cắt huyệt ở các huyệt 12
Tỉnh huyệt, Nhân trung, để thông khí
huyết toàn thân, làm cho chỗ bế tắc
của kinh lạc được giãn mở. Thứ đến
là cắt các huyệt Á môn, Phong phủ,
Bách hội, để tỉnh não, Tả các huyệt
Hợp cốc, Liệt khuyết, Phong trì để
thanh nhiệt trừ phong, Cắt Quan xung,
tả huyệt Thông lý để giải nhiệt ở
Thượng tiêu và trong tim. Tả các
huyệt Kỳ môn, Thái xung, để thư cái
uất kết của kinh can, Bổ huyệt Túc
tam lý để gián khí trừ đờm. Đơmd
nhiều gia bổ Chiên chung, tả Trung
quản, bổ Khí hải. Thần trí tỉnh táo thì
không dùng Bách hội, Liệt khuyết,
Nhân trung và 12 huyệt Tỉnh, mà
thêm tả Thần môn, Phong môn, Á
môn, bổ Phong trì, tả huyệt Giáp xa.
ăn uống như thường thì có thể không
dùng huyệt Túc tam lý. Mỗi huyệt
đều dùng thủ pháp nắn day ngang
bằng và nhấn nhả 100 lần. Thủ pháp
bổ trợ có thể tả theo thứ tự của kinh
thủ dương minh, cắt ở huyệt Thủ tam
lý và Quan xung, làm cho nâng cao
hiệu quả chữa ( bảo người bệnh lè
lưỡi ra lại thụt lưỡi vào làm cho lưỡi
vận động co duỗi ). Sau đó, cắt cắt (
bấm bấm móng tay ở các huyệt Giáp
xa, Ế phong, Liêm tuyền, lại dậy cho
người bệnh tập nói (từng tiếng một,
tiến tới nói hai tiếng một và dần tăng
thêm ). Nếu có thêm kèm các chứng
khác tuỳ chứng mà thêm huyệt chữa.
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên
Hiệu quả chưã: Mất tiếng đơn
thuần, hiệu quả chữa nhanh, điểm
huyệt mấy lần có thể khỏi.
24. Tiểu tiện nhiều lần
Nguyên nhân bệnh:
Mãn tính là hư hàn, cấp tính là thực
nhiệt. Người lớn và người già bị
thường là hư hàn, trẻ em thường là
thực nhiệt.
Chứng trạng:
- Hư chứng: ý về đái nhanh gấp,
khi nước tiểu ra không bị cảm
giác khó chịu, nước tiểu màu
trắng, khoảng trên dưới 1 giờ
đồng hồ thì đi tiểu 1 lần.
- Thực chứng: ý về đi tiểu bắt
phải thật nhanh, số lần đi tiểu
nhiều, lượng nước tiểu ít, màu
nước tiểu vàng, khi nước tiểu ra
có cảm giác khó chịu trong ống
đái.
Cách chữa:
- Hư chứng: Nên giữ chắc khí (
cố khí ), bổ Thái uyên, Khí hải.
Nếu khi tình huống khống chế tiểu
tiện không dừng thì thêm nhiều thủ
pháp chấm gõ ở da, bổ chân hoả,
bổ khí, thì dùng phép bổ ở các
huyệt Mệnh môn, Thận du.
- Thực chứng: Tả Hành gian,
Liệt khuyết, để thanh nhiệt, tả
Trung cực, Âm lăng tuyền để lợi
thấp.
Mỗi huyệt đều dùng các thủ pháp
nắn day ngang bằng và nhấn nhả,
chấm gõ ở da mỗi loại 100 lần. Hư
chứng, thủ pháp nên nhẹ mà nhanh.
Thực chứng, bỏ bớt thủ pháp chấm
gõ ở da, còn lại cần nặng mà chậm.
Thứ tự điểm huyệt: Từ trên xuống
dưới, thủ pháp chầm chậm.
Hiệu quả chữa: Người bệnh lớn
tuổi, trị 1 – 2 lần thì thấy hiệu quả, 5
lần thì thấy hiệu quả. Trẻ em, chữa từ
5 – 7 lần có thể khỏi.
25. Đái dầm
Nguyên nhân bệnh:
Nhất loạt do khí hư, cũng có do đột
nhiên bị lạnh mà gây ra đái dầm.
Chứng trạng:
Đêm ngủ không tỉnh, không biết,
không thấy đái ở trên giường hoặc có
thấy đi tiểu trong giấc mộng, một
đêm một lần hoặc một đêm 4 – 5 làn
không chừng. Mùa hạ bệnh nhẹ hơn,
mùa đông bệnh nặng hơn. chứng nhẹ
thì mấy ngày đái dầm 1 lần hoặc sau
khi làm mệt thì đái dầm.
Cách chữa:
Người khí hư, lấy cố khí, bổ hoả,
bổ thận làm chủ, lấy các huyệt Thái
uyên, Khí hải, Mệnh môn, Thận du
đều dùng bổ pháp. nhất loạt đái dầm
lấy huyệt Tam âm giao để an giấc
ngủ, lấy Quan nguyên, Khí hải để giữ
chắc khí, ước thúc bàng quang. Lấy
huyệt Liệt khuyết để tỉnh não, tất cả
đều dùng phép bổ. Mỗi huyệt đều
dùng các thủ pháp nắn day ngang
bằng, nhấn nhả, chấm gõ ở da, mỗi
loại từ 50 – 100 lần.
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên
Hiệu quả chữa:
Nhất loạt điểm huyệt trên dưới 10
lần có thể chữa khỏi. Nếu người bệnh
là tre em thì cần chú ý mấy điểm
dưới đây:
1 - Bữa đêm kiêng ăn chất lỏng,
trước khi đi ngủ không cho uống
nước mát hoặc ăn thức ăn mát.
2 - Cấm trẻ em xem phim khủng bố
và đánh nhau dữ dội, không để cho
ham chơi qúa mức.
3 - Sau khi ngủ chứng 2 –3 giờ
phải gọi trẻ em giậy đi tiểu 1 lần.
26- Tạng Thao (bệnh ís-tơ-ri )
Nguyên nhân bệnh:
Thường thuộc tình chí mất điều độ,
tâm thần không an, lâu ngày thì thành
bệnh này.
Chứng trạng:
Đầu tối, tim hồi hộp, hay quên, ưu
sầu, hay buồn bất thường, mất ngủ, tư
chi có lúc co quắp.
Cách chữa:
Bệnh này chủ yếu là đối chứng lấy
huyệt, tả Hợp cốc, bổ Liệt khuyết,
Phong trì, để thanh não trấn tĩnh. Bổ
Nội quan, Thông lý để tư âm an tâm,
bổ Chiên trung, tả Cự khuyết, Trung
quản, bổ Khí hải để thông khí của
Nhâm mạch. Tả Kỳ môn, bổ thái
uyên để thư can giải uất, và tương hỗ
phối hợp với các huyệt trên đều có
tác dụng trấn tĩnh. Nếu có kèm với
chứng khác thì tuỳ chứng mà gia
huyệt, mỗi huyệt nắn day ngang bằng,
nhấn nhả, mỗi thủ pháp từ 50 – 150
lần. Thủ pháp nhẹ mà chậm, liệu
chừng dùng thêm pháp đẩy xoay ở
vùng đầu, phép áp theo ở vùng lưng.
Thứ tự điểm huyệt: Trước hết,
điểm huyệt ở vùng trên, thủ pháp nên
nhẹ mà từ từ.
Hiệu quả chữa: Chữa bệnh này,
nếu phối hợp với an ủi tinh thần có
thể chữa khỏi được.
27. Động kinh:
Nguyên nhân bệnh:
Thường do tiên thiên bất túc, hậu
tiên nuôi dưỡng kém, chính khí hư
nhược, tinh thần thiếu tốt đẹp, đột
nhiên bị sợ hãI, bệnh lâu ngày tự
nhiên pháp thành, mà làm ra chứng
giảm, động kinh.
Chứng trạng:
Phát bệnh đột nhiên, trước khi phát
bệnh có cảm giác đầu đau hoặc đầu
tối, không do tự chủ mà ngã xuống
đất, tứ chi co rút. Chứng nhẹ có
chừng 10 phút thì tự tỉnh rút co quắp.
Chứng nặng, môi và mý mắt đều co
dật, đầu cũng lệch hướng về một bên,
miệng nôn ra đờm dãI uốn cong thân
ngực lại, cơn thì có cách ngày hoặc
cách tháng pháp bệnh, cũng có
trường hợp một ngày nhiều lần pháp
cơn.
Cách chữa:
Tình trạng pháp cơn động kinh là do
trung khu thần kinh nhất thời tán loạn,
do đó mà số lần điểm huyệt phải rõ
ràng, vòng trong nắn nhỏ phải rõ rệt.
Do chứng giản khi bị lâu ngày, trung
khu não tất bị tổn thương, cho nên thủ
pháp cần nhẹ. Thông qua thủ pháp và
phối huyệt, đối với chứng động kinh
phát cơn chứng trạng có thể giảm
nhẹ, chủ yếu là có công năng thúc
đẩy khôi phục trung khu não. Lấy
huyệt: bổ Thần môn, bổ Liệt khuyết,
bổ Hậu khê, tả Thái dương, bổ Phong
trì, bổ Bách hội, bổ Thái khê, bổ
Tam âm giao, bổ Túc tam lý, bổ Đới
mạch, bổ Chiên trung, bổ Cự khuyết,
tả Trung quản, bổ Khí hải, bổ Phế du,
bổ Tâm du, bổ Cách du, bổ Tỳ du, bổ
Thận du. Mỗi huyệt nắn day ngang
bằng, nhấn nhả đều làm 50 – 70 lần.
Thứ tự điểm huyệt: Từ trên xuống
dưới dựa theo thứ tự tiến hành.
Hiệu quả chữa:
Điểm huyệt từ 3 – 5 lần có thể thấy
hiệu quả, tứ là thời gian làm cơn dàI
có thể làm cho thời gian làm cơn
ngắn lại. Mỗi tuần chữa 3 lần, liên
tục chữa trong thời gian 2 -3 tháng có
thể làm cho bệnh tình chuyển biến tốt
lên. Bệnh nhẹ mà chữa kịp thờ, thì có
thể chữa khỏi. Trẻ em di chứng sau
khi bị sốt cao mà pháp sinh bệnh này
rất nhẹ, có thể dậy cho những người
trong nhà của đứa trẻ đó hàng ngày
điểm huyệt ở Bách hội 200 lần, nếu
kiên trì thời gian dàI tương đương từ
nửa năm trở nên thì có thể khỏi dứt.
28. Bàn tay và cánh tay tê bại (
thần kinh quay tê bại ).
Nguyên nhân bệnh:
Nhất loạt do khi lao động, làm cho
khớp quay cổ tay gấp khúc thời gian
rất dàI, tổ chức cục bộ mệt mỏi, lại
bị lạnh hoặc rửa nước lành, sau đó
dẫn đến tê bại.
Chứng trạng:
Ngón tay cái và ngón trỏ cùng với
khớp cổ tay quay có cảm giác đau
đớn, dần thành ra tê bại, mất năng
lực hoạt động.
Cách chữa:
Lấy huyệt trên kinh thủ dương minh
và kinh thủ thái âm làm huyệt chủ
yếu, bởi vì các huyệt Liệt khuyết,
Hợp cốc, Dương khê của hai kinh đó,
thích đáng với chỗ phụ cận khớp
quay cổ tay, và có thể phối hợp với
các huyệt Đại lăng, Nội quan, Dương
trì, Ngoại quan. Bổ trợ thêm thì lấy
thủ pháp dựa theo đường kinh lạc,
các huyệt đều nên dùng bổ pháp. mỗi
huyệt đều nắn day ngang bằng, nhấn
nhả, chấm gõ ở da các thủ pháp đều
làm 50 – 100 lần.
Thư tự điểm huyệt : Giống như
trên.
Hiệu quả chữa: Nhất loạt chữa 10
lần thì có thể khỏi,.
Chương II: BỆNH PHỤ KHOA
1. Kinh nguyệt không đều
Nguyên nhân bệnh:
Do ở suy nghĩ, làm lụng quá mức,
ngoại cảm phong hàn, hoặc phòng sự
không biết hạn chế, hoặc trong kỳ
hành kinh không biết chú ý vệ sinh
thật tốt, hoặc do các bệnh khác dẫn
đến.
Chứng trạng:
Kinh về không thuận, không đến
trước thì lại đến sau, có khi máu kinh
nhiều, có khi máu kinh ít. Màu máu
kinh không bình thường.
Cách chữa:
ĐIều kinh chủ yếu là lấy các huyệt
Hợp cốc, Túc tam lý của thủ, túc
dương minh kinh, Tam âm giao của
kinh túc thái âm tỳ , Cách du của kinh
túc thái dương làm huyệt chủ yếu.
Dương minh kinh là nhiều khí nhiều
huyết. Túc thái âm tỳ kinh chủ về
thống huyết. Huyệt hội của toàn thân
là Cách du, do đó đã lấy những huyệt
trên làm chủ. Kinh nhiều là nhiệt, bổ
Tam âm giao, áp Túc tam lý, tả Hợp
cốc, Cách du. Kinh ít là hàn, bổ Cách
du, Hợp cốc, tả Tam âm giao. NgoàI
ra, gia bổ Thiên khu, Nội quan, và
phải trợ bằng phép rung rẩy vùng
bụng. Khí hư thì gia bổ huyệt Thái
uyên, Chiên trung. Nếu kinh dừng
dứt, cách nhau một thời gian không
dàI lắm lại hành kinh là do khí hư
không thể nhiếp huyết, phải lấy cố
khí chỉ huyết làm chủ, bổ Ẩn bạch,
Tam âm giao, tả Hợp cốc, bổ Thái
uyên, Chiên trung, Cạnh du, Tỳ du,
Can du. Mỗi huyểt nắn day ngang
bằng, nhấn nhả đều 100 lần.,thủ pháp
nhẹ mà chậm. Trong kỳ hành kinh
mỗi ngày điểm huyệt 1 lần. Lúc bình
thường, một tuần điểm huyệt 3 lần.
Nếu huyết vẫn không dứt, thêm thủ
pháp chẫm gõ ở da tại huyệt Ẩn
bạch.
Thứ tự điểm huyệt: Dựa theo thứ
tự trước sau của huyệt vị đã trình bày
ở phần cách chữa bệnh này tiến hành
điểm huyệt.
Hiệu quả chữa: Điểm huyệt 1 – 2
lần là thấy hiệu quả, bệnh nhẹ,
khoảng trên dưới 3 tháng chữa có thể
khỏi.
2. Hành kinh đau bụng
Nguyên nhân bệnh:
Thường do khí trệ huyết ứ, hoặc
khí huyết hư hàn gây ra.
Chứng trạng:
Có trước khi hành kinh đau bụng
dưới, cũng có khi hành kinh xong
bụng dưới đau, hoặc la đau trong khi
hành kinh. Phần lớn là vừa mới bắt
đầu đợt hành kinh thì bụng dưới mới
đau đớn, đau buốt vùng thăt lưng đau
suốt tới khi dứt hành kinh. đàu kỳ
kinh nhiều, màu huyết tím đen là đau
thực chứng,. Cuooí kỳ kinh ít, màu
huyết nhạt là đau hư chứng.
Cách chữa:
Điểm các huyệt Hợp cốc ( kinh
nhiều dùng tả pháp, kinh ít dùng bổ
pháp ), bổ Túc tam lý, Huyệt Tam âm
giao (kinh nhiều dùng bổ pháp , kinh
ít dùng tả pháp ) . Như thế có thể
điều kinh dứt đau, đau do thực
chứng tả Hợp cốc, áp Túc tam lý,
bổ Tam âm giao. Đau do hư chứng ,
bổ Hợp cốc , Chiên trung, áp Tam âm
giao, bổ Túc tam lý, lại bổ Thiên
khu, Quan nguyên ,tả Trung quản và
lam phép rung rẩy ở vùng bụng tại
huyệt Quan nguyên (kinh nhiều không
thêm phép rung rẩy). Đau đớn tệ hại,
mặt trắng nhợt, tim hoảng hốt, gia bổ
các huyệt Nội quan, Tâm du, Cấh du.
Mỗi huyệt làm thủ pháp nắn day
ngang bằng, nhấn nhả, mỗi loại thủ
pháp 100 lần .
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên
Hiệu quả chữa: Nhất loạt sau khi
điểm huyệt là hoàn toàn dứt đau, kiên
trì chữa có thể khỏi.
3 - Bế kinh
Nguyên nhân bệnh:
Do thân thể hư nhược, huyết mạch
ít dần, hoặc do suy nghĩ phẫn nộ,
huyết mạch ứ trệ không hành mà gây
nên.
Chứng trạng:
Tinh thần không vui vẻ, bụng dưới
có cảm giác trứng, buốt vùng thắt
lưng, đùi đau, trong tim thổn thức,
lòng bàn tay bàn chân bóng
Cách chữa: Bệnh này lấy bổ khí
làm chính, Khí là soái của huyết, khí
hành thì huyết hành, khí hư thì huyết
cũng hư, bổ khí thì huyết vựng, bổ cả
khí lẫn huyết thì huyết tự được đầy
đủ mà dễ hành. Tâm chủ huyết, phế
chủ khí do đó lấy bổ nguyên huyệt
Thần môn ở tâm kinh, nguyên huyệt
Thái Uyên của phế kinh, là đã có tác
dụng bổ mạnh thêm cả khí và huyết.
Bổ nguyên huyệt Hợp cốc của thủ
dương minh kinh, và dùng phép đẩy
theo 81 lần, có tác dụng thêm mạnh
sự bổ. Lại tả huyệt Tam âm giao của
túc thái âm tỳ kinh, và đẩy theo tả 36
lần để giúp thêm hiệu quả tả huyệt
Tam âm giao, làm lực thống huyết
của tỳ kinh dược buông thả, huyết bị
ứ chệ được giải. Phối với huyệt Thuỷ
đạo của túc dương minh vị kinh làm
phép bổ, thì có thể giải cái ứ của cục
bộ, lại có thể làm cho thông hoạt cơ
năng tạo máu. Kế đó là tả các huyệt
Trung quản, Trung cực của nhâm
mạch, và từ bụng đẩy theo đến huyệt
trung cực 36 lần, vùng bụng có dùng
lòng bàn tay xoa sát 200 lần để hoạt
đọng cơ năng các tổ chức cục bộ. Lại
nắn vùng bụng 100 lần có thể giúp
cho xoa sát có thêm hiệu quả, các
huyệt Hợp cốc, Thần môn, Thái uyên,
mỗi huyết ray ngang bằng , nhấn nhả,
mỗi loại đều 100 lần.
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên
Hiệu quả chữa: Chứng khí trệ
huyết ứ thì thấy hiệu quả nhanh,
chứng huyết ít thì thấy hiệu quả chậm.
Mỗi tuần chữa 3 lần, chữa liên tục 2
tháng lấy việc hành kinh trở lại làm
hiệu quả. Kinh ít cần tiếp tục ít
khoảng trên dưới 3 tháng thì chữa
khỏi.
4 – Băng lậu huyết
Nguyên nhân bệnh:
Do phấn nộ mà hại gan, bệnh của
can phạm sang tỳ, bởi vậy mà can
không tàng huyết, tỳ không thống
huyết, hoặc do vào kỳ hành kinh mà
lỡ phạm vào hoạt động tình dục, dạ
con bị thương mà thành bệnh. Tóm
lại là do màng trong dạ con (nội mạc
tử cung) tăng sinh, huyết quản rách
vỡ, hình thành băng lậu.
Chứng trạng:
Kinh nguyệt tự nhiên về nhiều mà
không dứt gọi là “Băng huyết”, kinh
nguyệt ra nhỏ giọt không dứt gọi là
“lậu huyết”. Băng thì sắc mặt trắng
nhợt, có những chứng đầu tối, đầu
xoay, tim hồi hộp của chựng trạng hư
thoát. Lởu huyết do huyết ra không
dứt, cùng dần dàn hư nhược.
Cách chữa:
Lấy lý luận thì tỳ không thống
huyết, can không tàng huyết và huyết
hội Cách du, bổ cách huyệt ẩn bạch,
Tam âm giao, mỗi huyệt nắn day
ngang bằng và nhấn nhả đều 100 lần,
ẩn bạch gia chấm gõ ở da 100 lần,
Tả các huyệt cách du, tỳ du, can du,
mỗi huyệt nắn day ngang bằng và
nhấn nhả đều 100, lần, tả huyệt Hợp
cốc của kinh đại trường là tả nhiệt
của dương minh. Dựa vào lý luận
huyết nhiệt vọng hành, nguyên tắc
làm tả pháp ở dương kinh, làm bổ
pháp ở âm kinh. Khi chấm gõ ở da
tại huyệt ẩn bạch, trước hết chấm gõ
một huyệt ở một bên rồi lại điểm ở
huyệt bên còn lại. Trước khi chấm
gõ, dùng ngón tay cái và trỏ cố định
ngón chân cái người bệnh, huyệt ẩn
bạch sau khi qua chấm gõ của thủ
pháp điểm huyệt, làm cho huyết quản
cục bộ huyệt vị giãn trương ra, do tác
dụng của cơ năng huyết quản tương
đối giãn trương ra và co lại, thúc cho
huyết quản vùng xuất huyết co lại. Do
đó huyệt ẩn bạch phối với huyệt tỳ du
lại có thể đạt đến tác dụng tỳ thồng
huyết, làm cho huyết dứt. Khí hư, gia
bổ huyệt Thái uyên, Chiên trung.
Thận hư, gia bổ huyệt Thái khê, Thận
du. Tỳ hư, gia bổ các huyệt Thần
môn, Túc tam lý.
Lại có thể phối bổ ẩn bạch, bổ
Thái khê, Tam âm giao, Túc tam lý,
Chương môn, tả Hợp cốc, bổ Thái
uyên, bổ Chiên trung, bổ Cách du,
Thận du, Tỳ du, Can du. Ba huyệt
Cách du, Can du, Tỳ du, nếu huyết
nhiệt thì tả, khí hư huyết mát thì bổ.
Mỗi huyệt nắn day, ngang bằng, nhấn
nhả từ 50 – 70 lần, vòng nắn nhỏ, thủ
pháp nhẹ mà chậm, một huyệt ẩn
bạch hơi nặng một ít.
Thứ tự điểm huyệt:
Từ dưới mà lên trên theo đúng
thứ tự ghi trong bàI chữa.
Hiệu quả chữa: Nhất loạt tử cung
xuất huyết, chữa 1 –2 lần thì thấy
hiệu quả, 5 –6 lần có thể chữa mới
khỏi.
5 - Nước hôi không dứt
Nguyên nhân bệnh: Đẻ xong
nước hôi không dứt, chủ yếu là do
thân thể hư nhược, huyết không thu
nhiếp (tức là huyết trong tử cung
không thể thâu gom lại ), đưa đến
nước dầm dề không dứt.
Chứng trạng :
Có rất ít máu màu nhạt tromg am
đao nhỏ ra, nhiều ngày không dứt.
Huyết ứ thì màu máu bầm, có hiện
tượng đau bụng.
Cách chữa :
Nước hôi ra máu, lấy bổ hư làm
chủ . Bổ các huỵệt ẨN bạch, Tam âm
giao, Túc tam lý,Thiên khu, Khí hải,
Thận du, Cách du, Tỳ du, Can du, tả
huyệt Hợp cốc. Có huyết ứ giảm bỏ
các huyệt Thiên khu, Khí hải, mà
dùng bổ huyệt Hợp cốc, tả huyệt Tam
âm giao. Mỗi huyệt nấn day ngang
bằng, nhấn nhả 100 lần, riêng huyệt
Ẩn bạch thêm chấm gõ ở da 100 lần,
thủ pháp cần nhẹ mà chậm.
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên.
Hiệu quả chữa: Chữa 2-3 lần
nước hôi có thể dứt.
6- Có mang nôn mửa
Nguyên nhân bệnh:
Do thai khí ngược lên vị, do đó mà
quặn bụng nôn mửa.
Chứng trạng:
Người đàn bà nhất loạt sau khi có
chửa được một tháng, hàng ngày buổi
sáng có nôn mửa hoặc ăn vào xong
thì nôn mửa. Trường hợp nghiêm
trọng thì người thấy mùi thức ăn hoặc
mùi cơm thì đã nôn mửa, đến nỗi đầu
nặng, mắt hoa, tứ chi mệt mỏi.
Cách chữa:
Lấy huyệt Nội quan làm bổ pháp, kế
đó là làm thủ pháp áp theo ở vùng
lưng, lại điểm huyệt Cách du theo bổ
pháp, để ức chế vị khí ngược lên.Bổ
huyệt Thận du có thể làm yên tĩnh
thai khí. Bổ túc tam lý đẻ dẫn vị khí
đi xuống, tả huyệt Thái xung có tác
dụng dứt nôn. nếu có đau đầu , thêm
phép đẩy xoay vùng trước trán. Mội
huyệt nắn day ngang bằng và nhấn
nhả mỗi loại 100 lần.
Thứ tự điểm huyệt: Giống như
trên.
Hiệu quả chữa: Người nhẹ, nôn
mửa mấy ngày không chữa cũng tự
khỏi. Người nặng, điểm huyệt 4 – 5
lần thì sẽ khỏi.
7 –Dấu hiệu báo trước của sẩy
thai (tiên triệu lưu sản)
Nguyên nhân bệnh:
Khí hư người yếu, hoặc sau khi có
chửa, trên các mặt hoạt động của đời
sống không chú ý được hết, có khi
dùng tay với vật gì đó trên cao, có
khi bước chân không cẩn thận ở chỗ
bờ nghiêng dẫn tới sẩy thai. Có khi
lần thứ nhất bị sẩy thai lần thứ hai có
thai không đến nửa tháng hoặc ba
tháng lại đã sẩy thai làm thành tập
quán sẩy thai
Chứng trạng:
Thoạt đầu bụng dưới trứng, trụt
xuống hoặc đau bụng dưới, lưng đau,
âm đạo có khi có chẩy ra một ít nước
máu.
Cách chữa:
Lấy tác dụng dứt huyệt bổ thận , cố
khím nâng lên làm nguyên tắc . Phối
hợp các huyệt ẩn bạch, Phục lưu,
Chương môn, thái uyên, Chuyên
trung, Bách hội. Mội huyệt đều nắn
day ngang bằng , nhấn nhả, mỗi loại
thủ pháp 100 lần đều dùng phép bổ.
Hiệu quả chữa:
Chửa lần đầu, điểm huyệt 3 – 5 lần
thì trừ hết chứng trạng, có thể làm
cho an thai. Nếu là tập quán sẩy thai,
thì cần phải kế tục điểm huyệt giữ
thai, mỗi tuần có thể điểm từ 2 – 3
lần khi không có cảm giác nào khác
mỗi tuần có thể điểm một lần. Sau
khi đủ 6 tháng thì dừng điểm huyệt.
Chương thứ ba: BỆNH TRẺ EM
1 – Trẻ em phát sốt
Nguyên nhân bệnh:
Trẻ em phát sốt nhất loạt thuộc
ngoại cảm, hoặc do tích đồ ăn (tích
thực), ngoàI ra trên lâm sàng cũng có
trườg hợp sốt tìm không thấy nguyên
nhân.
Chứng trạng;
Thường thấy thương phong cảm
mạo phát sốt, nóng, ở da dẻ. Trẻ nhỏ
đau đầu , tắc mũi hoặc chẩy nước
mũi trong, mu bàn tay nóng lên. Nếu
tích đồ ăn mà phát sốt thì để không
phát nóng quá nhiều, lòng bàn tay bàn
chân phát nóng, kèm theo không nghĩ
đến ăn ( không thấy đói ), tiêu hoá
không tốt. Phát sốt không rõ nguyên
nhân thì buổi sớm nhẹ, về chiều nặng,
về đêm càng nặng, có phát sốt trên
10 ngày không khỏi, có uống thuốc và
tiêm thuốc kháng sinh mà sốt vẫn
không lui.
Cách chữa:
Cảm mạo phát sốt thì tả Hợp cốc để
thanh nhiệt giải yểu, bổ Túc tam lý
để dẫn n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_diem_huyet_lieu_phap_phan_2.pdf