CÁCH TIẾP CẬN MARKETING VÀ QUAN ĐIỂM DỰA TRÊN NGUỒN LỰC
Khi thếgiới chuyển từtrạng thái dưcầu đến trạng thái dưcung, thì các lựa chọn marketing
chiến lược cũng phải thay đổi. Các quan điểm của những năm 1980, mà tiêu biểu là Porter,
cho rằng các đặc tính và động lực ngành là căn bản cho marketing thành công và hiệu suất
kinh doanh, trong khi đến những năm 1990, các tác giảnhưPrahalad và Hamel lại tập trung
vào khảnăng của tổchức khai thác các năng lực cốt lõi. Điều này dẫn đến việc tập trung hơn
vào các tài sản vô hình nhưthương hiệu, kiến thức, kỹnăng, các năng lực của nhân viên và
kiến thức quản trị. Điểm bắt đầu của thảo luận vềgia tăng giá trịthông qua sửdụng các tài sản
hữu hình và vô hình là xem xét lại ba cách tiếp cận marketing quen thuộc Hooley và các cộng
sựnhận diện
265 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2801 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Marketing chiến lược, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cho việc các sản phẩm đang được tiêu dùng theo cách thức tương tự nhưng với công
dụng mới thay đổi đáng kể lại được khách hàng chấp nhận một cách tự động. Việc giới
thiệu các thực phẩm biến đổi gien làm tăng sự lo sợ trong tâm trí khách hàng và họ mua
sắm rất miễn cưỡng.
Các cải tiến liên tục một cách năng động
Cải tiến liên tục một cách năng động có một hiệu ứng phá vỡ nhiều hơn về các thức sử
dụng sản phẩm hay dịch vụ. Ví dụ, việc đưa ra máy fax yếu cầu thay đổi lề thói làm việc
văn phòng để bảo đảm sử dụng nó hiệu quả. Một máy ảnh kỹ thuật số có thể rơi vào cả
loại này và các loại sau. Nếu máy ảnh kỹ thuật số được dùng để chụp ảnh và sau đó thẻ
nhớ có thể đưa đến một cửa hàng để rửa ảnh, nó sẽ có ít hiệu ứng về sử dụng và mua
sắm, nhưng chống lại sự suy giảm đáng kể doanh số các công ty rửa ảnh đã phải giải
thích rằng dịch vụ của họ cũng đã mở rộng đối với ảnh kỹ thuật số. .
Các cải tiến không liên tục
Các cải tiến không liên tục có một hiệu ứng phá vỡ cao đối với các mô thức mua sắm và
sử dụng, yêu cầu marketing ở mức cao để giải thích các ích lợi và hướng dẫn khách hàng
về cách thức sử dụng sản phẩm. Các máy quay Video và các lò vi sóng đã có một hiệu
ứng đáng kể đến phong cách sống của khách hàng. Máy MP3 cho nhạc tải từ Internet
với một máy tính hay máy in chuyên dùng để rửa ảnh có một hiệu ứng phá vỡ mạnh hơn
đến việc mua sắm và sử dụng. Cải tiến càng phá vỡ các mô thức mua sắm, sử dụng và
thải loại bình thường của khác hàng càng cần đầu tư để hướng dẫn khách hàng về lý do
họ cần cải tiến, lợi ích mà họ sẽ nhận được từ cải tiến và cách thức sử dụng cải tiến. Ví
dụ, trong những ngày đầu của lò vi sóng, các nhà cung cấp đã lơ là trong việc nói với
khách hàng rằng chúng không thích hợp với việc làm khô nhanh mọi thứ sau khi đã bị
nhúng ướt. Nếu cải tiến cần một sự thay đổi căn bản trong các quá trình quản trị của
doanh nghiệp chẳng hạn như chế tạo, kênh phân phối và marketing thì có thể cần phải
tái định hướng hay thậm chí đổi mới hoàn toàn mô hình kinh doanh của doanh nghiệp.
Tác động của công nghệ
Nhiều bước tiến lớn trong những năm gần đây liên quan đến việc đưa ra các công nghệ
chẳng hạn như hỗ trợ thương mại điện tử, quản trị thông tin, viễn thông, máy tính trợ
giúp thiết kế, quá trình công nghệ, quản trị tồn kho và hậu cần. Những điều này là các
công nghệ trong marketing cho phép cung cấp các giải pháp cho các vấn đề cũ chẳng
hạn cách thức để khách hàng ngay ở nhà có thể điều khiển từ xa trên khắp thể giới đóng
góp nhiều nhất vào thiết kế sản phẩm mới toàn cầu, và làm cách nào để một đơn vị kinh
doanh chỉ có 10 người lại thương mại hóa sản phẩm của nó đến các khách hàng tiềm
tàng ở 40 hay 50 nước? Việc quản trị thâm nhập thị trường trong nhiều quốc gia như vậy
thông qua các đại diện các nhà phân phối có lẽ sẽ vượt quá nguồn lực của hầu hết các
doanh nghiệp nhỏ. Công nghệ không làm thay đổi các yếu tố, các thách thức và những
khó xử liên quan đến quá trình ra quyết định marketing, chẳng hạn tác động văn hóa đến
marketing quốc tế và yêu cầu đạt được sự cân đối giữa tiêu chuẩn hóa và thích ứng trong
các chương trình và quá trình marketing, nhưng nó có tác động lớn đến bản chất của
chiến lược marketing và phát triển các giải pháp.
Chúng ta đã nó đến một số trong các thách thức này ở các chương trước, nên rất có ích
khi tập trung một cách rõ ràng vào các thức mà công nghệ giúp các doanh nghiệp và các
nhà quản trị của họ giải quyết các thách thức này. Công nghệ vừa dẫn dăt sự thay đổi và
vừa cung cấp một phương tiện để đáp ứng sự thay đổi. Phát triển của một công nghệ
hiện tại và mới cho phép làm nhiều điều tốt hơn, nhanh hơn trước. Tuy nhiên, lúc đầu
điều quan trọng là nhấn mạnh rằng công nghệ sẽ không có giá trị đến chừng nào nó có
ứng dụng thực tiễn. Như diễn tả trong hình 7.2, những người tiên phong là những doanh
nghiệp đầu tiên nắm lấy công nghệ mới thành công và tìm ra ứng dụng thực tiễn cho nó,
trong việc tạo ra sản phẩm hay dịch vụ mới hay con đường mới để thương mại hóa ví dụ
Amazon trong việc bán lẻ sách, sẽ giành được một nguồn lợi thế cạnh tranh mới. Tuy
nhiên, điều này có thể thiết lập các chuẩn mực mới cho lãnh vực ngành mà có nghĩa là
các đối thủ cạnh tranh, chẳng hạn Barnes và Noble, cũng sẽ phải đạt được các chuẩn
mực đó nếu họ muốn cạnh tranh trong tương lai. Vì vậy tất cả các đối thủ cạnh tranh
trong lãnh vực sẽ phải đuổi theo bằng việc nắm bắt công nghệ mới. Hậu quả là, doanh
nghiệp cải tiến lại phải tìm một cải tiến mới hay tiến bộ công nghệ cho phép họ giành lại
vị trí đứng đầu. Dell Computerslà một ví dụ về doanh nghiệp đã cố gắng liên tục để nắm
bắt công nghệ mới xuyên suốt hoạt động kinh doanh của nó để tìm ra lợi thế cạnh tranh
mới và các ứng dụng định hướng vào khách hàng.
Công nghệ truyền thông giúp mọi người trên khắp thế giới trở nên nhận thức tốt hơn các
thay đổi về điều kiện thị trường và các đáp ứng khác nhau của các công ty trên khắp thế
giới với các thay đổi này. Các khác hàng dễ bị nhàm chán với các sản phẩm và dịch vụ
hiện và luôn luôn tìm kiếm các sản phẩm và dịch vụ mới đem lại lợi ích cho họ. Họ ít
trung thành nhãn hiệu và nếu một doanh nghiệp không đáp ứng các nhu cầu của khách
hàng quốc tế thì các đối thủ cũng sẽ làm điều đó. Khách hàng tìm ra sự phát triển của
các sản phẩm mới hay cách thức mới để đến với thị trường họ muốn hưởng lợi từ các
thay đổi. Khách hàng cần nó và cần nó ngay bây giờ.
Các nguồn cải tiến
Trong khi công nghệ mới có thể đuợc tạo ra bởi một tổ chức, các cơ hội để thương mại
hóa sản phẩm hay dịch vụ mới phát sinh từ điều kiện thị trường dưới dạng nhu cầu
khách hàng. Để phù hợp tổ chức phải nhận diện nguồn gốc cơ hội và đáp ứng nhanh hơn
các đối thủ cạnh tranh để giành lợi thế cạnh tranh
Có hai quan điểm về các nguồn gốc cải tiến của Ansoff và Drucker (1985). Ansoff nhấn
mạnh hiệu ứng của các sự kiện gây sốc đến cải tiến. Ông cho rằng các sự kiện gây sốc
đến một cách đột ngột, đặt ra các vấn đề mới và triển vọng làm thiệt hại lớn trong kinh
doanh.3 Ví dụ về điều này là việc tải các file nhạc sử dụng máy tính và chơi MP3. Các
website cá nhân cho phép khách hàng chia sẻ các file nhạc và do đó khỏi phải trả tiền
cho nhạc bản quyền. Về phía các nghệ sĩ họ đã mất tiền tác giả, còn các công ty sao
chép nhạc như Sony, Universal, Warner Brothers, EMI và Bertelsmann lại lỗ lớn hơn,
họ đã đáp ứng rất chậm chạp với các đe dọa (hay cơ hội) tăng lên và kết quả là chịu thiệt
đáng kể về thu nhập. Nhiều đối thủ hiện nay đang cạnh tranh trực tiếp hay thông qua liên
minh với các nhà khổng lồ về phần mềm, phần cứng và bán lẻ như Apple, Dell, Hewlett
Packard vàWal-Mart4 (Schwartz and Markoff 2004).
Drucker đã nhận ra các nhân tố như:
− Sự kiện không mong đợi làm bùng nổ một nhu cầu mới ( ví dụ thay đổi khí hậu
và thiếu hụt dầu lửa tiềm tàng)
− Một điều phi lý giữa cái sẵn có và cái khách hàng cần
3 Ansoff, I. (1965) Corporate Strategy, New York: McGraw-Hill.
4 Schwartz, J.; Markoff, J. (2004) ‘Power players’, New York Times, 12 January
Công nghệ mới
Các ứng dụng thực
tiễn được áp dụng
Doanh nghiệp nắm
bắt công nghệ mới
Khách hàng có các
kỳ vọng mới
Doanh nghiệp phát
triển lợi thế cạnh
tranh mới
Thay đổi chuẩn
mực trong ngành
Các đối thủ cạnh tranh
theo đuổi bắt chước
Hình 7-2 Công nghệ và lợi thế cạnh tranh
− Một quá trình cần thiết để đáp ứng nhu cầu mới đáng kể của khác hàng (ví dụ
phần mềm bảo đảm an toàn cho thương mại điện tử)
− Thay đổi trong cấu trúc ngành ( ví dụ sự bái bỏ các qui định)
− Sự thay đổi về nhân khẩu học ( Ví dụ tăng số người giá trong các nước phát triển
đang cung cấp các cơ hội cho sản phẩm mới)
− Thay đổi về quan niệm hay mô thức của công đồng (ví dụ marketing xanh)
− Phát triển kiến thức mới ( ví dụ, sinh học)
Các kỹ thuật nhận diện cơ hội
Rõ ràng rằng công nghệ đóng vai trò như là chất xúc tác cho thay đổi lớn, nhưng cải
tiến không chỉ tùy thuộc vào các phát minh hay tiến bộ công nghệ lớn. Nhiều tổ chức có
tinh thần doanh nhân đã có những cải tiến lớn không phải trong lĩnh vực công nghệ. Về
điểm này, điều có giá trị là xem xét các thức nhận diện các cơ hội cho cải tiến, đánh giá
và phát triển về mặt thương mại. Nhiều tác giả đã thảo luận về các kỹ thuật để nhận
diện cơ hội. Các kỹ thuật đó bao gồm:
− Khai thác khoa học được dẫn dắt bởi sự hiếu kỳ và bắt đầu trong tâm trí với ứng
dụng không trực tiếp rõ ràng, hay lợi ích khách hàng. Các trường đại học và các
công ty khai thác công nghệ sinh học thường được tài trợ bởi các công ty dược phẩm
đa quốc gia là ví dụ cho điều này
− Phân tích các nhu cầu khác hàng hiện tại và dự đoán là một điểm bắt đầu rõ
ràng. Việc hỏi khách hàng những gì họ muốn thường nhận ra việc phát triển sản
phẩm và dịch vụ mới, nhưng thường khó cho khác hàng để kết nối những gì họ
không biết là có thể. Bốn mươi năm trước một số khách hàng đã có thể giải thích
rằng họ muốn mua sản phẩm và dịch vụ theo cách điện tử
− Việc phân đoạn thị trường sâu hơn so với đã làm từ trước dẫn đến việc phát triển
các sản phẩm hay dịch vụ đáp ứng hữu hiệu hơn với các nhu cầu của các phân đoạn
khách hàng bộ phận. Đôi khi phân đoạn bộ phận có thể dấn đến cơ hội thị trường
qui mô lớn như trường hợp xe hai bánh đa dụng
− Việc nhận diện một phân đoạn mới phát sinh từ sự khai sinh của các thay đổi
trong mô thức, thái độ, và các kỳ vọng của khác hàng và sự không thỏa mãn với các
giải pháp hiện tại. Việc khai thác thành công đòi hỏi cải tiến có khả năng lường
được điều này trước khi tình thế được khớp nối và viết lại đầy đủ trên trên báo chí.
Điều này thường khó đạt được thành công vì thông thường các mô thức và thái độ
thay đổi đáng kể trong các giai đoạn đầu của sự phát triển và vì thế các cơ hội
thương mại cuối cùng thường khác so với dự tính ban đầu. Bodyshop định thời hạn
thâm nhập thị trường đúng đắn phản ánh đúng lúc mô thức.
− Áp dụng các kỹ thuật hiện tại trong lĩnh vực mới. Các nhà quản trị có thể tạo kết
nối giữa các ý tưởng dường như không liên quan hay áp dụng một công nghệ, quá
trình hay kỹ thuật từ một lĩnh vực kinh doanh này sang lĩnh vực khác, thường
thường thông qua các đối tác giữa các lính vực
− Hội nhập dọc trong chuỗi cung cấp của một tổ chức có thể loại trừ một liên kết
trong chuỗi hay tạo ra con đường mới giá trị hơn đến thị trường.
− Hợp lý hóa hay sáp nhập hoạt động kinh doanh thường dẫn đế sự chấm dứt một
số sản phẩm hay dịch vụ và điều này có thể để lại đằng sau một nhu cầu thị trường
chưa được thỏa mãn hay có thể là một cấu hình sản phẩm, dịch vụ hoạt toàn mới
− Tách biệt một hoạt động kinh doanh hiện tại. Đôi khi cải tiến không phù hợp với
hoạt động kinh doanh cốt lõi của các doanh nghiệp vì vậy doanh nghiệp bị kéo ra
một cách tách biệt, ví dụ Lexmark từ IBM và các hãng hàng không chi phí thất từ
BA, rốt cuộc là bị mua lại bởi easyJet, và Buzz từ KLM, bị mua lại bởi Ryanair.
− Cải tiến trong lĩnh vực bão hòa. Các cải tiến thành công nhất thường thực hiện
trong các lĩnh vực bão hòa nhờ việc cung cấp cho khác hàng một sự đột biến về giá
trị
Các kỹ thuật tư duy sáng tạo
Các nhà quản trị trong một tổ chức hiện tại có thể áp dụng các kỹ thuật tư duy sáng tạo
để quan sát các khuynh hướng, hiểu được các nguyên nhân căn bản của các phàn nàn
phổ biến, áp dụng các kiến thức tiên tiến và ý tưởng chuyên gia trong lĩnh vực, và chỉ ra
các độ lệc thị trường, các nhu cầu chưa thỏa mẫn. Có thể sử dụng kỹ thuật tấn công não
trong một nhóm các chuyên gia và nhân viên. Một trong các vấn đề của nhiều cách tiếp
cận đó là cải tiến thường được đặt điều kiện bởi quan điểm truyền thống về ngành của
các nhân viên và các chuyên gia
Kim và Mabourgne cho rằng thành công tăng trưởng cao không phải gây ra từ việc cố
gắng đánh bại các đối thủ, mà từ việc làm cho đối thủ không còn thích hợp với khách
hàng bởi cung cấp một sự đột biến về giá trị. Về căn bản, điều này cần các nhà cải tiến
tư duy về ngành theo một cách thức hoàn toàn mới bằng các đặt câu hỏi:
− Các nhân tố nào mà ngành của bạn cho là hiển nhiên nên loại bỏ đi?
− Các nhân tố làm ngành của bạn cạnh tranh bị giảm xuống dưới tiêu chuẩn là gì?
− Nhân tố nào đưa vào cạnh tranh trong ngành của bạn sẽ làm tăng lên trên mức
tiêu chuẩn?
− Các nhân tố nào nên được tạo ra mà ngành chưa bao giờ có
Nếu các câu hỏi này được áp dụng với các ngành trước điểm ngắt gần đây, chẳng hạn
đưa ra hoạt động ngân hàng bằng điện thoại và hãng hàng không giá thấp, dễ hiểu tại sao
các cải tiến mới không đến từ các nhà cung cấp các nhà cung cấp truyền thống cho thị
trường, những người mà luôn tin rằng mô hình kinh doanh hiện tại nên được duy trì.
Cũng rõ ràng tại sao các doanh nghiệp mới có thể đến với thị trường và thỏa mãn các
khác hàng hơn các đối thủ truyền thống.
Ra các quyết định cải tiến thành công
Đến đây chúng ta đưa ra một số phương pháp có tính quan điểm và có lẽ là hợp lý về
việc tìm kiếm các cơ hội trên thị trường. Tuy nhiên, cải tiến không nhất thiết theo các
qui tắc và cách thức mà các doanh nhân và các tổ chức dám nghĩ dám làm nhận ra và
phát triển các cơ hội, thường rất chủ quan và cá nhân chứ không phải là khách quan và
hợp lý.
Thường thường các tổ chức tin rằng một cơ hội mà rõ ràng và hiển nhiên với họ phải là
rõ ràng và hiển nhiên đối với nhiều tổ chức khác, nhưng không phải như vậy. Cùng một
cơ hội không phải luôn luôn hiển nhiên với mọi người và thường thường một ý tưởng
đơn giản có thể được đưa ra mà không có sự cạnh tranh trực tiếp. Thậm chí nếu có sự
khai thác, cạnh tranh theo các yếu tố của giải pháp sản phẩm tổng thể có thể cung cấp
một sự độc đáo vượt trội. Ví dụ, Starbucks vận hành các quán cà phê là một phần của
điều mà về cơ bản vẫn coi là thị trường hàng thông thường. Mặc dù, họ có cạnh tranh
đáng kể, song họ cung cấp một sản phẩm khác biệt mà có giá trị với khách hàng ngay cả
khi khách hàng phải trả một giá cao hơn cho sản phẩm.
Các cơ hội dường như không giống nhau với mọi người và không phải mọi người đều
theo đuổi những gì xuất hiện hiển nhiên như là các cơ hội thương mại. Thường thường
nhà cải tiến có trong tâm trí một sản phẩm hay dịch vụ rất đặc biệt để thỏa mãn độ lệch
thị trường nhưng các khách hàng có thể không chấp nhận giải pháp theo một dạng thức
cụ thể nào đó. Do đó, điều căn bản để nhà cải tiến tập trung vào cơ hội hay độ lệch thị
trường là linh hoạt về giải pháp cung cấp sản phẩm dịch vụ. Ví dụ, trong khi tư duy về
điều này, nguyên tắc là các cải tiến phải tạo giá trị cho khách hàng có thể được các nhà
cải tiến giải thích theo các cách thức khác nhau. Các công ty khác nhau, các công ty sẽ
tạo ra các định đề giá trị để khai thác cùng một cơ hội thị trường. Ngoại trừ điều này
xuất hiện khi các đối thủ cạnh tranh hướng đến cùng một cơ hội trong các thị trường
tăng trưởng cao mà đã được thừa nhận trên các báo. Các sản phẩm và dịch vụ đã phát
triển để khai thác các cơ hội phức tạp thường bị đổ vỡ bởi vì nó trở nên khó giải thích
các lợi ích với khách hàng. Nhân tố quan trọng nhất khi ra các quyết định cải tiến thành
công là nhận thức tầm quan trọng của hướng dẫn khách hàng thông qua truyền thông
marketing. Không có gì là đột biến và các lợi ích tiềm tàng cho khách hàng, họ phải
được giải thích theo một cách đơn giản và rõ ràng.
Đánh giá và khai thác các cơ hội thị trường
Trong khi ra các quyết định để đánh giá và khai thác các cơ hội thị trường có một số cân
nhắc. Nói chung, tốt hơn là tập trung vào việc tạo giá trị cho khách hàng, chứ không
phải là giảm thấp chi phí, bởi hạ thấp chi phí có thể đơn giản là dẫn tới chiến tranh giá,
sói mòn giá trị và sự không hài lòng cho khác hàng. Ví dụ, có những ngoại lệ khi các
nhà cung cấp hiện tại trong ngành đã đưa các chi phí không cần thiết vào hoạt động.
Các hãng hàng không chi phí thấp và những nhà bán lẻ thực phẩm có giá trị chẳng hạn
như Lidl, Aldi và Netto, là những ví dụ về việc khai thác cơ hội thị trường, trong đó một
phân đoạn khách hàng đang tìm kiếm giá trị tăng thêm dưới dạng sản phẩm, dịch vụ giá
thấp không “rườm rà” Trong khi ra các quyết định cải tiến chủ yếu giải quyết các câu
hỏi then chốt sau:
− Khách hàng là ai?
− Định đề giá trị có thể giải thích một cách rõ ràng và đơn giản với khác hàng như
thế nào?
− Bao nhiêu khách hàng bạn có thể có thể chuyển đổi
− Nhanh đến mức nào (đường cong phổ biến)
− Ai cần chịu ảnh hưởng (khách hàng và kênh phân phối)?
− Con đường nào đến thị trường?
− Các rào cản nào khi đưa ra cải tiến
− Các đối thủ cạnh tranh phản ứng và bạn sẽ là một đe doạ như thế nào?
Nhấn mạnh vào sự nhận diện các cơ hội nên đứng trên quan điểm của khách hàng về
giá trị tăng thêm. Điều quan trọng cần nhấn mạnh là nhiều sản phẩm được đưa vào thị
trường không thực sự tính đến quan niệm của khách hàng. Sinclair C5 và mobile phone
thế hệ ba là một ví dụ về các nhà cải tiến yêu công nghệ hơn là hiểu về khách hàng đánh
giá sản phẩm như thế nào.
Nhấn mạnh vào cải tiến nên là đưa ra những sản phẩm có giá trị tăng thêm thậm chí giá
cao hơn các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh mà chúng nhằm vào để thay thế. Gillette
đưa ra lưỡi dao cạo Sensor như một sự đột phá cho thị trường sản phẩm thông thường.
Khách hàng sẵn sàng trả cao đáng kể cho các lợi ích thực sự- trong trường hợp này là
lưỡi dao cạo nhẵn hơn và thuận tiện hơn – và Mach 3 đã được giới thiệu như một sự
phát triển hơn nữa.
CÁC CHIẾN LƯỢC TĂNG TRƯỞNG NHANH
Sau khi xem xét bản chất và nguồn gốc của cải tiến chúng ta chuyển sang nghiên cứu
các chiến lược của tổ chức đáp ứng các cơ hội và đe dọa từ cải tiến như thế nào. Có sự
khác biệt đáng kể giữa các tổ chức có thể mô tả như sau:
− Những người tiên phong theo dõi các thay đổi môi trường, nhận ra các độ lệch,
các cơ hội thị trường và nỗ lực ở vị trí hàng đầu
− Các doanh nghiệp hạng nhì theo dõi những người tiên phong và theo sau sự lãnh
đạo của họ về cải tiến, học tập từ những sai lầm của họ và cố gắng cải thiện các giải
pháp sáng kiến của người tiên phong
− Những doanh nghiệp bắt chước đơn giản là cố gắng sao chép các cải tiến về sản
phẩm, dịch vụ và cung cấp các phương án “đáng giá về tiền bạc”
− Các doanh nghiệp phòng thủ có khuynh hướng theo đuổi con đường của mình và
chỉ đáp trả các sáng kiến trong thị trường khi thấy thật sự cần thiết.
Ở đây, chúng ta quan tâm đến những người tiên phong, nhưng có những khác biệt giữa
hai loại tổ chức đạt được hiệu suất trên trung bình.
Các tổ chức tăng trưởng nhanh
Các tổ chức tăng trưởng nhanh có một chiến lược hữu hiệu, được quản trị tốt , khác
hàng được hướng dẫn và cải tiến trong khắp tổ chức. Khách hàng chọn mua từ họ hơn là
từ các đối thủ. Các đặc tính của họ là:
− Sản phẩm hay dịch vụ vượt trội
− Khách hàng nhận thức được các giải pháp cung cấp tốt hơn so với các đối thủ
thường là bởi nhãn hiệu
− Các năng lực và kỹ năng toàn cầu, tốc độ học tập nhanh
− Các tài sản và nguồn lực lớn hơn
− Các lợi thế pháp lý vượt hơn các đối thủ
− Các lợi thế về giá trị và chất lượng
− Tính kinh tế về quy mô và nền tảng chi phí thấp hơn
− Quan hệ với các bên hữu quan tốt hơn
− Lãnh đạo tích cực và tiếp cận quản trị tin cậy
Các tổ chức có tính doanh nhân
Khai thác và tạo ra các điểm ngắt thị trường
Một số doanh nghiệp định kỳ làm điều này bằng cách cung cấp cho khách hàng các giá
trị đột biến ( Ví dụ: Dell, Microsoft, Virgin và Dyson), đôi khi thông qua cải tiến công
nghệ và thông qua các hoạt động sáng tạo mang tính doanh nhân.
Tư duy về khách hàng theo một cách khác biệt.
Một số tổ chức đã dự đoán những gì mà khách hàng có thể cần đến trong tương lai,
thường thường khách hàng không có khả năng tự sáng tác ra điều đó (ví dụ Sony với
Walkman và Napster làm cho việc tải nhạc với nguyên bản chất lượng cao).
Quản trị khách hàng và các kinh nghiệm về khách hàng ở trình độ cao hơn nhiều.
Hầu hết các thành công trong giai đoạn đầu của công viên Disney là kết quả của mức độ
phục vụ đặc biệt và việc sáng tác rất con người
Tư duy về tổ chức rất khác biệt.
Các công ty này sử dụng các mối quan hệ của họ và các quan hệ đối tác với các tổ chức
khác để tạo giá trị theo cách thức khác biệt. Như một sự lựa chọn, họ phát triển các mô
hình kinh doanh mới tạo giá trị cho khác hang (Ví dụ, eBay và Lastminute.com).
Các chiến lược marketing mang tính doanh nhân
Marketing và quản trị mang tính doanh nhân cần thiết trong các tổ chức cả lớn lẫn nhỏ
để thiếp lập, tái định hướng, và sáng tạo tổ chức. Thường thường, marketing và quản trị
tăng trưởng nhanh cần thiết trong thời kỳ mà việc tạo lập thị trường thông qua tăng
trưởng hay củng cố sau một thời kỳ thay đổi để đảm bảo cho ý tưởng giành thắng lợi có
thời cơ để thành hiện thực. Trong khi các tổ chức có thể thất bại trong việc nhận diện
nhu cầu tái tổ chức và tái lập, thì nhiều tổ chức lại bỏ lỡ cơ hội xây dựng một tổ chức an
toàn và bền vững bởi họ thiếu khả năng quản trị mạnh mẽ để có thể chống lại mong
muốn những tái cấu trúc nội bộ không cần thiết, không có lợi và tốn kém thay vì phải tập
trung vàoviệc tạo dựng các quan hệ bên trong và bên ngoài có khả năng sinh lợi.
Bolton và Thompson5 tập trung vào việc phát triển chiến lược mang tính doanh nhân
như hình 7.3. Cần có sự quản trị mang tính doanh nhân để nhận ra một khoảng hở của
cơ hội thị trường và khả năng chiến lược để định vị giải pháp cung cấp trong thị trường
theo cách thức hấp dẫn và có lợi cho khách hàng. Để tạo ra một cải tiến mới cho một
kinh doanh bền vững tổ chức phải sẵn lòng và có khả năng thay đổi đến mức cần thiết
với hoạt động kinh doanh đang tăng trưởng. Dyson là một tổ chức được tạo ra như vậy.
Nó chứng tỏ với bước tiến độ biến đầy ấn tượng, bằng sự định vị chiến lược hữu hiệu và
các cải thiện liên tục về vận hành như trong hình 7-4. Trường hợp của Dyson cũng chỉ ra
rằng các đột phá khác sẽ cần thiết trong tương lai để duy trì xung lượng.
Sự phổ biến của cải tiến
5 Bolton, B. Thompson, J. (2000) Entrepreneurs, Talent, Temperament, Technique, Oxford: Butterworth
Heinemann.
Định vị
chiến lược
Khả năng
chiến lược
Khoảng hở
cơ hội
Nhận thức
cơ hội
Khả năng và
sự sẵn lòng
thay đổi
Quản trị
mang tính
doanh nhân
Hình 7-3. Phát triển chiến lược mang tính doanh nhân
Đã đưa ra cải tiến, nhân tố thành công cơ bản là cải tiến có thể tạo ra ngân quỹ dương
nhanh đến mức nào. Ngân quỹ âm do chi phí nghiên cứu và phát triển, tái cấu trúc các
hoạt động cao, chi phí marketing liên tục để hy vọng ngân quỹ trở nên dương khi khác
hàng bắt đầu mua và mua lại các giải pháp mới. Việc mua các dịch vụ, sản phẩm mới có
khuynh hướng đi theo đường cong phổ biến trong hình 7.5. Một số khách hàng tiềm
năng là các nhà cải tiến, luôn cố gắng với bất kỳ sự phát triển mới, và họ sẽ là người đầu
tiên cam kết với cải tiến và được thuyết phục để mua sắm, nhưng vấn đề là những người
chấp thuận đầu tiên và bộ phần đầu tiên sẽ mua nhanh đến mức nào. Nhân viên
marketing và bán hàng thường lạc quan quá mức về việc họ có thể thuyết phục nhanh
chóng khối lượng lớn khách hàng về lợi ích của cải tiến, bởi vì sự trung thành và tính ì
của khách hàng với sản phẩm mà họ đã quen thuộc có thể làm giảm tốc độ chuyển đổi.
các khách hàng thường không sẵn lòng bỏ ra khoản tiền lớn cho điều gì đó có thể chưa
có đầy đủ chứng cứ. tất nhiên, nếu các nhà cải tiến không được thuyết phục về sản phẩm
mới, phần đông khách hàng ban đầu sẽ không đi theo và sản phẩm hay dịch vụ sẽ chết.
Những
nhà cải
tiến
2.5%
Những người
chấp nhận
sớm
13.5%
Đa số chấp
nhận sớm
34%
Người
chậm
chạp
16%
Đa số chấp
nhận trễ
34%
Hình 7-5 Đường cong phổ biến cải tiến
Thời gian
H
iệ
u
su
ất
Cải tiến càng phá vỡ mô thức mua sắm và tiêu dùng, càng tốn kém trong việc hướng dẫn
khách hàng và thuyết phục họ mua. Một sản phẩm hay dịch vụ mới phức tạp có thể cần
đến sự giải thích nhiều hơn, sự tin cậy lớn hơn, và một sự biến đổi lớn trong trí tưởng
tượng về phía khách hàng trước khi hok mua của tổ chức. Hơn nữa, các sản phẩm và
dịch vụ dựa trên công nghệ mới đáng kể mà không thực sự cung cấp các lợi ích có thể
nhận thấy được cho khách hàng trong so sánh với các sản phẩm và dịch vụ hiện tại, cũng
sẽ không hấp dẫn khách hàng nhanh chóng. Thành công có thể khó hơn dự kiến nếu cải
tiến cũng phụ thuộc và sự sẵn có của các sản phẩm bổ sung. Có lẽ phần lý do thất bại
của mobile phone thế hệ ba là sự thiếu các dịch vụ internet thích hợp. Tốc độ chấp thuận
nhanh hơn hay chậm hơn so với dự đoán có thể gây ra vấn đề về ngân quỹ. Trong thực
tế, dự đoán hiếm khi chính xác và quan trọng hơn việc dự đoán chính xác nhất có thể
được điều chủ yếu là phải lập kế hoạch dự phòng khi doanh số không đúng như dự đoán.
Nếu sản phẩm thực hiện (Hình 7.6) các lựa chọn quyết định là loại bỏ “kẻ thua cuộc”
khỏi thị trường, cố thuyết phục khách hàng mua sản phẩm mà có thể là một thành công
về cô
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_marketing_chien_luoc_357.pdf