MỤC LỤC
Bài Trang
Giai đoạn đầu của sự phát triển mầm . 1-4
Mầm răng ở giai đoạn chuông răng . 5-9
Sự tạo men răng . 10-17
Sự sinh ngà răng . 18-23
Sự kiến tạo chân răng . 24-30
Men răng. 31-39
Ngà răng . 40-52
Cement răng. 53-60
Xương ổ răng . 61-68
Tủy răng . 69-73
Dây chằng nha chu . 74-82
Nứu . 83-88
Biểu mô bám dính . 89-95
97 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 500 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Mô phôi răng dành cho sinh viên răng hàm mặt, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ừ nguyên bào ngà.
Nhuộm hoá mô cho thấy vùng này giàu proteoglycan.
-Những nghiên cứu về lâm sàng và mô bệnh học cho thấy ngà vỏ là nơi dễ bị sâu
răng nhất.
2.2. Đường tiếp giáp men-ngà:
Đường tiếp giáp men-ngà là đường bao bọc trên phần ngà vỏ. Là nơi mà phần
men răng áp vào ở trên và phần ngà răng áp vào ở dưới.
Ở tiêu bản mài, phần tiếp giáp men-ngà có những nhánh bào tương của nguyên
bào ngà xâm nhập và được gọi là chùm men, xâm nhập sâu 3-7m.
2.3. Đường nối ximăng-ngà:
Ở chân răng, đường nối ximăng-ngà là một cấu trúc khó xác định: bị khoáng hoá,
không có cầu calci, ở phần này chất căn bản không đồng nhất, vùng này được gọi là
lớp hạt Tomes.
2.4. Ngà quanh tuỷ(Dentine circum pulpaire):
40
Đặc tính của ngà tuỷ là có những vi quản ngà chạy từ vùng nối men ngà xuống
tuỷ răng. Các vi quản ngà bao quanh nhánh bào tương của nguyên bào ngà. Vi quản
ngà chứa chất căn bản quanh nhánh bào tương của nguyên bào ngà, tạo thành một
đơn vị đóng vai trò nuôi dưỡng các nhánh bào tương này. Giữa hai vi quản ngà là
ngà gian ống.
2.4.1. Tiểu quản ngà:
Các tiểu quản ngà chạy song song, ở vùng cổ răng chúng tạo thành những đường
hình chữ S. Ở chân răng là những ống chạy song song thẳng góc với chân răng,
những tiểu quản ngà nối với nhau bằng các tiểu quản thứ cấp, số lượng các tiểu
quản thứ cấp khoảng 20.000-65.000/mm2 , đường kính 0,5-2,5. Ở vùng tiếp giáp
men ngà chúng tận cùng bằng 2 hoặc 3 nhánh.
Thành của tiểu quản ngà càng xa vùng tuỷ thường bị khoáng hoá bên trong, tạo
các tiểu quản bị xơ hoá, điều này làm tính thấm của vùng càng xa tuỷ càng giảm.
2.4.2. Sự kéo dài của nguyên bào ngà:
Những nhánh bào tương của nguyên bào ngà chạy trong tiểu quản ngà.
Ở phần tận cùng của nhánh bào tương thường chứa ít bào quan, chỉ một ít ty thể
nhưng nhiều vi ống và vi sợi, túi xuất bào.
Cùng với sự khoáng hoá của ngà răng, bộ máy bào quan và ty thể càng giảm,
màng bào tương của những nhánh thường gấp nếp.
2.4.3. Khoảng quanh bào tương của nguyên bào ngà:
Được lấp đầy bởi các nhóm polysaccharid và các protein không collagene, một
vài sợi collagene mảnh bao quanh nhánh bào tương nguyên bào ngà.
Chất căn bản quanh ống được xem như là con đường liên lạc bảo đảm quá trình
biến dưỡng các nhánh bào tương và là nơi dự trữ chất căn bản cho quá trình khoáng
hoá ngà gian ống. Ở 1/3 trong của chất căn bản quanh ống ngà chứa những sợi thần
kinh cảm giác không myeline, những sợi này bao quanh nhánh bào tương của
nguyên bào ngà.
2.4.4. Ngà quanh ống:
Ngà quanh ống là vùng ngà bao quanh các ống ngà, thấy rõ cách vùng khoáng hoá
chừng 100m, độ dày càng tăng khi chúng càng ở xa vùng tiếp giáp men ngà.
Sự khoáng hoá ngà quanh ống diễn ra trên chất căn bản .. chất căn bản này gồm:
-Protein không collagene (phosphoprotein, sialoprotein) và glycoprotein kết hợp
với saccharid mà thành phần chính là chondroitin 4 và 6 sulfate.
-Tinh thể hdroxyapatite nhỏ hơn nhiều so với tinh thể của ngà gian ống.
Khảo sát bằng tia X cho thấy ngà quanh ống có một độ khoáng cao hơn ngà gian
ống và rất nhạy cảm với acid.
41
Độ dày của ngà quanh ống gia tăng ở vùng sát với đường giáp men ngà, kết quả là
giảm đường kính của ống ngà, sự đắp thêm ngà quanh ống dẫn đến bít hoàn toàn
ống ngà (xơ trong ống ngà).
Tiền ngà
Sợi Von Korff
Nguyên bào ngà
Đám nối Retterer
Sự tân tạo mạch máu
dưới nguyên bào ngà
Sơ đồ vùng tạo ngà trong giai đoạn đầu
Nguyên bào ngà Nhánh bào tương của nguyên bào ngà
42
2.4.5. Ngà gian ống:
Ngà gian ống nằm giữa hai ống ngà là kết quả khoáng hoá chất căn bản ngà,
khung hữu cơ của ngà gian ống gồm:
-Collagene type I (90%) gồm những sợi chạy theo nhiều hướng.
-Protein không collagene: phosphoprotein, sialoprotein.
-Phức hợp protein-polysaccharid kết hợp với sợi hoặc nằm giữa các sợi.
-Muối citrate, phospholipid.
-Nước (9%).
Ở pha khoáng hoá tinh thể hydroxyapatite, được thành lập là những trụ lục giác
100nm x 2 đến 3,5nm chiều dày.
-Các thành phần vi lượng: Mg, Ca, Cl, Fe...Tổng lượng khoáng của ngà gian ống
chừng 70% (18% thành phần hữu cơ, 12% nước). Mật độ 2,14.
Trong quá trình khoáng hoá các tinh thể hydroxyapatite hình thành dọc theo sợi
collagene, tinh thể dần dần lấp đầy khoảng gian bào nằm giữa các sợi collagene.
Các tinh thể hydroxyapatite hình cầu kết hợp với nhau thành khối lớn hơn gọi là cầu
calci, cầu calci vùi các ống ngà, mỗi cầu calci vùi từ 5-12 ống ngà (hình 7,8).
Ở vùng ngoài của ngà vỏ thường không có cầu calci, đó là do sự khiếm khuyết
của quá trình khoáng hoá tạo vùng czermack, vùng này chứa nhiều proteoglycan
không khoáng hoá.
Ở sát vùng tiếp nối men ngà tốc độ khoáng hoá và đắp vào lớp ngà đạt 5m trong
24 giờ. Nhịp độ khoáng hoá tạo ra các đường tăng trưởng, đường Owen và Von
Ebner chạy vòng quanh răng.
Hình ảnh ngà cắt ngang
43
Đường nối men ngà
Vi quản ngà
Ngà quanh ống
Ngà gian ống
Ống ngà thứ cấp
Gian bào quanh vi ống
Bào tương kéo dài của tế bào
Giớingà hạn vùng khoáng hóa
Tiền ngà
Thân tế bào ngà
Sơ đồ 1 đơn vị ngà
Cầu calci của ngà nhuộm Toluidine
44
Cầu calci của ngà dưới kính hiển vi điện tử tia quét
Trụ men qua kính hiển vi điện tử tia quét (tâm trụ bị khử calci)
45
Men
Ngà vỏ
Tiểu quản ngà thứ cấp
Ngà quanh tủy
Tiểu quản ngà
Tủy răng
Lớp hạt Tomes
Cement
Sơ đồ ngà răng
Phần ngà không khoáng hóa Czermack (mũi tên chỉ vào)
46
Ngà bị thương tổn do vi khuẩn
Hình ảnh ngà vỏ
47
Ngà
Lớp hạt Tomes
Cement
Hình ảnh ngà chân răng
Gia tăng ion khoáng hóa
Ca ++ lấy từ mạch máu từ ty thể phân
hủy từ glycosamino glycans
Giai đoạn ion
Giai đoạn calcium-
phosphate vô định hình
Gia tăng ức chế
Nhân tinh thể Túi gian bào
Màng lipoprotein
của túi gian bào
Gia tăng Hình thành tinh thể
tinh thể
Tăng cầu calci
Cầu calci
48
3. MÔ SINH LÝ HỌC NGÀ RĂNG
3.1. Sự tái cấu trúc ngà răng:
Ngược với men răng, ngà răng tái cấu trúc liên tục trong suốt quá trình tuỷ răng
tồn tại. Sự tái cấu trúc gồm những hiện tượng:
- Ở vùng quanh tuỷ, tế bào ngà luôn luôn tổng hợp, chế tiết chất căn bản ngà và
khoáng hoá, điều này làm tuỷ răng càng ngày càng hẹp lại.
- Ở vùng sát tuỷ răng luôn luôn có một lớp nguyên bào ngà dự trữ cho quá trình
tái cấu trúc.
- Ở ngà cũng có quá trình tái cấu trúc ngà quanh ống.
- Sự tái cấu trúc ngà răng là kết quả của quá trình đắp vào hoặc tái hấp thụ ngà.
Hiện tượng tái cấu trúc có thể là do điều kiện sinh lý hoặc “phản ứng” đáp ứng
kích thích san chấn do bệnh lý hoặc điều trị. Ngoài ra cần phân biệt với quá trình tái
tạo xương, tái cấu trúc ngà phụ thuộc vào độ dày của ngà hoặc vùng quanh ngà, độc
lập với quá trình biến dưỡng Calciphosphate.
Ngà bị tiêu biến do sâu răng
49
Sơ đồ các cơ chế kích thích ngà khác nhau
A: Kích thích trực tiếp sợi thần kinh trong vi quản ngà
B: Sự thay đổi thủy động học lên dịch quanh tiểu quản ngà, kích thích thứ cấp lên
sợi thần kinh
C: Kích thích tế bào ngà, truyền trực tiếp lên sợi thần kinh tận cùng quanh tế bào
ngà
3.2. Sự đắp ngà quanh tuỷ sinh lý:
Sự đắp ngà quanh tuỷ sinh lý là kết quả của quá trình khoáng hoá chất căn bản
ngà do nguyên bào ngà tổng hợp và chế tiết.
Quá trình này xảy ra trong suốt quá trình phát triển của răng sữa dẫn đến đóng lỗ
chóp.
Ở răng vĩnh viễn, quá trình này xảy ra liên tục tạo ngà quanh tuỷ. Quá trình này
làm hẹp tuỷ răng, quá trình đắp vào giống như răng sữa, tuy nhiên do giảm thể tích
không gian (hẹp tuỷ) đường ngà thường không đều.
3.3. Sự đắp ngà trong ống sinh lý:
Do sự đắp ngà quanh ống tiến triển và phụ thuộc vào khoảng gian bào quanh
nhánh bào tương của nguyên bào ngà mà đường kính của ống ngà bị giảm dần.
-Theo đà phát triển của ngà, sự đắp vào ngà gian ống thường bắt đầu ở vùng cách
đường men ngà khoảng 100m.
-Với sự gia tăng tuổi vùng đắp vào trong ống tăng dần từ vùng cổ đến vùng chân
răng.
-Sự đắp thêm ngà quanh ống có thể khởi đầu cho sự khoáng hoá hoàn toàn hoặc
không hoàn toàn- đó là quá trình xơ hoá ngà.
Sự khoáng hoá ngà quanh ống khi quan sát trên tiêu bản xương mài sẽ không thấy
ống ngà: vùng ngà đồng nhất, còn gọi là ngà trong suốt.
50
3.4. Sự đắp ngà phản ứng quanh vùng tuỷ răng:
Tất cả các tác nhân ảnh hưởng đến răng sẽ được lan truyền và ảnh hưởng đến sự
biến dưỡng của tế bào tuỷ răng (nguyên bào ngà, tế bào dự trữ) tạo nên sự đắp ngà
phản ứng. Tuỳ cường độ và thời gian mà các tác nhân “phản ứng” không vượt quá
ngưỡng mà tế bào chịu đựng, bằng không sẽ xảy ra phản ứng đắp ngà. Những tác
nhân gây ra có thể là:
-San chấn và những san chấn đa vi thể: các vết đường trong thức ăn đọng lại (đồ
ngọt).
-Thói quen áp lên răng những lực: ngậm bút, tẩu thuốc...
-Nguyên nhân bệnh lý: sâu răng tiến triển chậm, tật nghiến răng.
-Nguyên nhân điều trị: bịt răng, trám răng.
Giới hạn của sự đắp ngà phản ứng và sinh lý được đánh giá bằng sự hiện diện của
đường calci san chấn.
-Đắp ngà phản ứng có thể chế tiết bởi các nguyên bào ngà, tạo những ống ngà
không đều đặn, sắp xếp lộn xộn hoặc do các nguyên bào ngà dự trữ, trong trường
hợp lớp nguyên bào ngà bị thương tổn. Trong trường hợp này, ngà phản ứng tạo
một hàng rào calci, thường không có ngà ống nằm giữa ngà và tuỷ. Ngoài vùng ngà
không ống có thể có dạng ngà tuỷ với những ống ngà ít nhiều đều đặn chạy song
song ở vùng ngà sát dưới nối men ngà, có thể thấy những “xác” do sự thoái biến của
đuôi ngà, với những ống rỗng. Trên tiêu bản răng mài xuất hiện những vết đen là
những đường ngà chết.
3.5. Đắp ngà phản ứng trong ống ngà:
Đắp ngà phản ứng trong ống ngà là quá trình khoáng hoá trong ống ngà hoặc xơ
hoá trong ống, biểu hiện bằng:
-Xảy ra ở vùng đa thương tổn vi thể.
-Ở vùng sâu răng tiến triển chậm.
-Dưới vùng trám răng.
Xơ hoá ngà trong ống tạo nên sự kết tủa những tinh thể whitlockite.
3.6. Sự tái hấp thụ ngà sinh lý ngà quanh tuỷ:
Sự tái hấp thụ ngà sinh lý ngà quanh tuỷ là quá trình cần thiết để tiêu chân răng
sữa, cần cho quá trình phát triển răng vĩnh viễn.
Quá trình này tương tự quá trình tái hấp thụ xương, kết quả là hình thành những
rảnh khuyết giống như khoảng Howship của xương.
3.7. Sự tái hấp thụ ngà phản ứng quanh tuỷ:
Sự tái hấp thụ ngà phản ứng quanh tuỷ là hậu quả của quá trình ly giải mô có
nguồn gốc từ tế bào, gồm:
-Do phản ứng viêm mãn tuỷ răng.
-Sự ly giải do mô phản ứng tạo huỷ cốt bào thường xảy ra ở vùng chân răng (do
san chấn).
51
-Nhiễm trùng tuỷ răng gây tái hấp thụ vùng quanh lỗ tuỷ chân răng.
3.8. Sự tái hấp thụ ngà quanh ống:
Là quá trình tái hấp thụ ngà quanh ống làm khử khoáng vùng này, hậu quả là gia
tăng đường kính ống ngà. Hiện tượng này xảy ra thường do nguyên nhân sâu răng
bởi các vi khuẩn sinh acid hoặc do các men của vi khuẩn tạo nên. Ống ngà phì đại
tạo nên các vi xoang.
4. SỰ NHẠY CẢM CỦA NGÀ
Khi ngà răng không được men bảo vệ thường bị kích thích gây đau buốt. Nguyên
nhân kích thích có thể là các nguyên nhân sau:
-Nhiệt độ (nóng, lạnh).
-Dung dịch acid, đường, nhược trương, ưu trương.
-Áp lực lên răng hoặc áp lực do viêm tuỷ răng.
-Kích thích điện (test đánh giá sự sống của tuỷ răng).
Phản ứng đau của ngà là do những sợi thần kinh không có myelin bao quanh các
khoảng quanh ống ngà ở 1/3 trong, cứ 200-2000 tiểu quản ngà tận cùng bằng một
đầu thần kinh trần, điều này giải thích ngưỡng đau của mỗi người mỗi khác.
Người ta nhận thấy các chất trung gian hoạt dịch gây đau như: acétylcholine,
bradikinine, histamine, chlorure de pxotassium thường không gây đau, do đó người
ta nghĩ rằng cơ chế kích thích thần kinh ngà răng gây đau khác với những nơi khác.
Các tác nhân acid, vật lý (ép) sẽ bộc phát sự thay đổi thuỷ động học dịch gian bào
ống ngà, hoặc kích thích đám rối quanh tế bào ngà tạo ra đau.
Người ta cũng cho rằng kích thích từ đuôi nguyên bào ngà sẽ lan truyền đến thân
nguyên bào ngà đóng vai trò của một cơ quan tiếp thụ dẫn truyền kích thích đau qua
đám rối thần kinh nằm dưới thân nguyên bào ngà.
52
XIMĂNG RĂNG (CÉMENT)
1. ĐẠI CƯƠNG
Ximăng là một mô bị khoáng hóa bao quanh mặt ngoài của ngà chân răng, mặt
ngoài lớp ximăng được phân phối bởi các sợi tạo thành dây chằng nha chu – đó là
những dây chằng nối xương ổ và lớp ximăng.
Sự tạo ximăng bắt đầu ở vùng cổ răng, ở vùng ngà ngoại vi của chân răng. Người
ta nhận thấy:
- Khởi đầu là sự ngừng tiến triển của bao biểu mô Hertwig von Brunn.
- Tiếp đến là sự biệt hoá các nguyên bào sợi của bao răng thành nguyên bào
ximăng.
Những nguyên bào ximăng tổng hợp và chế tiết những tiền chất hữu cơ tạo thành
chất căn bản của lớp ximăng. Chất căn bản ngoại bào hay mô dạng ximăng trải qua
quá trình khoáng hoá để tạo ximăng.
Những sợi collagene của bao răng sẽ được gắn vào lớp ximăng trong quá trình
khoáng hoá tạo thành những sợi neo đầu tiên của dây chằng nha chu. Trong quá
trình tiến triển ximăng hoá, một vài nơi lớp ximăng có khuynh hướng dày lên (vùng
lỗ chóp). Quá trình sinh ximăng đi liền với sự cốt hóa mào xương ổ; dây chằng nha
chu hình thành và liên kết 2 tổ chức này lại.
Khi răng mọc, có sự tái cấu trúc răng và dây chằng nha chu. Sự tái cấu trúc này
xảy ra suốt đời của một răng để đáp ứng lại những thay đổi về sinh lý, điều trị hoặc
bệnh lý.
2. CẤU TRÚC MÔ HỌC
2.1. Thành phấn cấu tạo của ximăng:
Ximăng gồm một khuôn hữu cơ chiếm tỷ lệ 25%, 65% khoáng và nước 10%.
2.1.1. Khuôn hữu cơ:
Gồm collagene type I kết hợp với phức hợp glycoprotein và mucopolysaccharid.
Thành phần collagene gồm những sợi mảnh chạy theo nhiều hướng, được tổng
hợp và chế tiết từ nguyên bào ximăng được gọi là những sợi nội sinh, những sợi này
về sau sẽ bị vùi vào chất căn bản ximăng khi quá trình khoáng hoá xảy ra.
Những bó sợi collagene được tổng hợp từ nguyên bào sợi của bao quanh răng
trong quá trình tạo chân răng được gọi là những sợi ngoại sinh, những sợi này dần
bị vùi trong lớp ximăng. Sự khoáng hoá những sợi này không hoàn toàn, chạy sâu
vào ngay lớp ximăng và thẳng góc với trục của chân răng. Hướng của chúng phản
ánh quá trình chuyển dịch của răng.
53
Quá trình tạo cement răng
A: Sự tồn tại bao biểu mô Hertwig
B: Sự tan rã bao biểu mô Hertwig
C: Sự biệt hóa tế bào cement
D: Sự lắng cement và hình thành dây chằng nha chu
54
Ngà
Lớp hạt Tomes
Cement không tế bào
Nguyên bào cement
Sợi nội sinh
Mô Cement
Sợi ngoại sinh
Sơ đồ ximăng không tế bào
Men
Ngà
Cement
Sơ đồ mối quan hệ giữa cement và men:
A: Gối đầu B: Không khớp C: Phủ
55
Sợi Sharpey
Cement
Biểu mô sót lại malasser
Nguyên bào cement
Biểu mô sót lại Malasser
2.1.2. Giai đoạn khoáng hoá:
Giai đoạn khoáng hoá là sự kết tụ của muối calcium và phosphate để hình thành
những tinh thể hydroxyapatite nhỏ chứa 1 lượng lớn fluor và một lượng magnésium
tương đương với xương (0,70%).
Sự khoáng hoá gia tăng theo tuổi, ngoài ra theo tuổi già cùng với sự long chân
răng, mặt ngoài của lớp ximăng bị tiếp xúc với môi trường của xoang miệng,
ximăng răng bị tẩm nhuận các ion ngoại sinh nhỏ: Ca, P, Mg, F thường do tính chất
của nước bọt quyết định.
2.1.3. Những tế bào ximăng:
* Nguyên bào ximăng: là những tế bào đáp ứng tạo ximăng. Người ta phân biệt:
56
- Trong quá trình tạo chân răng, những nguyên bào sợi của bao răng tiếp xúc và bị
lớp ngà chân răng cảm ứng.
- Ngay sau khi mọc răng, những nguyên bào sợi nằm sát với lớp ximăng dưới ảnh
hưởng của ngà răng sẽ bị biệt hoá, ban đầu chúng có hình trứng, về sau chúng có
cấu tạo như nguyên bào xương, nhân lệch tâm, bờ tự do hay bờ chế tiết màng tế bào
gấp lại thành nhiều nếp, bào quan rất phát triển, nằm quanh nhân và cực chế tiết,
chất tiền chế tiết được đổ vào gian bào ở cực ngọn theo cơ chế xuất bào.
Cuối cùng nguyên bào ximăng bị vùi trong chất gian bào và biến thành tế bào
ximăng. Sự khoáng hoá ximăng diễn ra như quá trình khoáng hoá tế bào xương.
* Tế bào ximăng: có hình sao và bị vùi trong chất căn bản ximăng, liên lạc với
nhau bởi các tiểu quản, bên trong tiểu quản là các nhánh bào tương của tế bào
ximăng. Quanh các tiểu quản ximăng là chất căn bản chứa nhiều
glycosaminoglycan, những sợi collagène.
Bộ máy bào quan trong tế bào ximăng phản ánh hoạt động của tế bào, những tế
bào ximăng lớp ngoài cùng thường có 1 hệ thống bào quan phát triển phong phú,
trong lúc lớp tế bào trong cùng có bộ máy này kém phát triển, bộ golgi thoái triển,
ty thể giảm số lượng chỉ còn lại 1 ít túi tiêu thể.
Ở vùng sát ngà răng, tiểu quản ximăng và ngay cả tế bào ximăng dần dần biến
mất và thường được lấp đầy bằng một chất vô định hình.
Ở vùng ximăng bị tái hấp thu người ta thấy nhiều vi quản, những mảnh khoáng
rỗng kết hợp với những tế bào đa nhân có cấu trúc như một huỷ cốt bào.
2.2. Cấu trúc của ximăng:
2.2.1. Ximăng không tế bào (ximăng sợi):
Ximăng không tế bào hiện diện nhiều vùng ở sát ngà răng, được tạo nên ở vùng
sát ngà ngoại vi của chân răng, vùi trong đó là các sợi collagene, các sợi này có thể
là nội sinh hoặc ngoại sinh, sợi ngoại sinh tạo ra các bó sợi Sharpey nối với mào
xương ổ.
2.2.2. Ximăng có tế bào:
Ximăng có tế bào bao quanh ximăng không có tế bào tạo thành một tấm bọc
quanh mặt ngà răng.
Ximăng có tế bào có cấu trúc thay đổi theo thời gian và không gian, phản ánh
những kích thích mang tính chức năng. Trước tiên ximăng có tế bào phát triển ở
vùng chóp chân răng, chân răng và cổ răng dày dần theo tuổi. Ở vùng chóp, lớp này
có thể dày từ 200-6000μm.
Đặc tính của ximăng có tế bào là tế bào ximăng bị vùi trong chất căn bản ximăng.
Các tế bào nối với nhau bằng các nhánh bào tương nằm trong tiểu quản ximăng.
Do đặc tính về nguồn gốc ximăng có thể tự tái cấu trúc dọc theo đường mà chúng
đắp vào, ớ lớp sâu của ximăng có tế bào, tế bào ximăng thường thoái triển theo thời
gian, hoạt động chuyển hoá của tế bào chậm lại hoặc không còn nữa, ngược lại lớp
tế bào ximăng ở ngoài rất hoạt động, sự hoạt động này phản ánh tình trạng gia tăng
57
mức độ tạo ximăng ở ngoài rất hoạt động và đồng thời là quá trình cấu trúc lại vùng
ngoại vi.
Lớp ximăng có tế bào thỉnh thoảng chứa các hạt vùi đặc biệt, đó là các hạt do sự
thoái hoá của bao biểu mô Hertwig, sự thoái hoá này tạo ra những tấm tròn thường
nằm gần vùng đã ngà hoá.
Những sợi collagene nằm trong lớp ximăng không tế bào tiếp túc hiện diện trong
lớp ximăng có tế bào. Chúng chí được khoáng hoá 1 phần và bị vùi trong các tiểu
quản, những tiểu quản này chạy ngang qua lớp ximăng trong suốt quá trình đắp dày
lớp ximăng. Đường chạy của chúng là đường thẳng góc với lớp ximăng so với trục
của chân răng, phản ánh quá trình định hướng của dây chằng nha chu trong quá
trình chuyển dịch chậm chạp của răng đang phát triển.
Những sợi collagene có nguồn gốc từ những nguyên bào sợi của dây chằng nha
chu khác những sợi có nguồn gốc từ nguyên bào ximăng, thường bị khoáng hoá và
chạy song song với chân răng.
Trên bề mặt của lớp ximăng đang hoạt động người ta nhận thấy:
- Vùng sinh ximăng, sát cạnh bên những nguyên bào ximăng đang hoạt động, giữa
những tế bào là vùng khoáng hoá, 1 lớp ximăng dày chừng 10μm. lớp ximăng này
là vùng ban đầu do các nguyên bào ximăng tiết ra các thành phần hữu cơ của nó vào
khoảng gian bào, sau đó bị khoáng hoá, nguyên bào ximăng bị nhốt trong các ổ
ximăng và các tiểu quản ximăng, biến thành tế bào ximăng. Ở trong vùng này người
ta cũng quan sát được những sợi collagene tạo thành từng bó có nguồn gốc từ
nguyên bào sợi của dây chằng nha chu cắm sâu vào, những sợi này chạy ra ngoài và
cắm vào mào xương ổ.
- Vùng không hoạt động chứa nhiều tế bào sợi, vùng này có cấu trúc ximăng hầu
như đồng nhất.
- Vùng tái hấp thụ: chất căn bản ximăng bị tái hấp thụ bởi các tế bào có cấu tạo
như huỷ cốt bào, chúng có nhiều nhân, tạo nên những rảnh gọi là khoang Howship.
2.2.3. Ximăng không sợi không tế bào:
Cấu trúc này thường có ở vùng giáp men- ximăng, bao quanh một phần nhỏ vùng
phủ men răng ở cổ răng.
Ở người lớp này thường không có cấu tạo tế bào.
2.2.4. Vùng giáp men- ximăng:
Ở cổ răng, vùng giáp men- ximăng có cấu trúc hơi khác nhau ngay trên 1 răng:
- 30% trường hợp men răng và ximăng tiếp xúc “đầu gối đầu” giữa men và
ximăng.
- 5% trường hợp men răng và ximăng không tiếp xúc với nhau, ở vùng cổ không
tạo được ximăng răng do hậu quả thiếu tiêu biến biểu mô Hertwig và không có sự
biệt hoá tạo nguyên bào ximăng. Sự bộc lộ vùng ngà răng thường gây ra cảm giác
đau và chính vùng này răng rất dễ bị thương tổn (sâu răng).
- 65% trường hợp ximăng phủ lên một vùng nhỏ men răng, thường là ximăng
không tế bào không sợi. Trong trường hợp này men răng thường mất tính chất đồng
58
nhất sáng bóng và sần sùi dưới dạng mảng. Ở vùng này lớp ximăng thường dày 0,5-
1mm.
3. MÔ SINH LÝ HỌC XIMĂNG RĂNG
Khác với mô xương, ximăng không có mạch máu, không tham gia vào quá trình
điều hoà hằng định calci máu.
Sự tái cấu trúc của ximăng răng là quá trình đắp thêm hoặc tái hấp thulà một đáp
ứng mang tính chất vận động tại chỗ, có nguồn gốc kích thích từ ngà răng hoặc nha
chu. Sự tái cấu trúc ximăng răng bị cảm ứng bởi:
- Lực tác động lên các dây chằng nha chu.
- Quá trình viêm nha chu.
3.1. Sự đắp thêm ximăng răng:
3.1.1. Sự đắp thêm ximăng răng sinh lý:
Cung răng tồn tại trong một thời gian rất dài, điều này làm cho tủy răng tồn tại và
theo thời gian lớp ximăng này ngày càng dày hơn, nhưng sự đắp thêm ximăng răng
không xảy ra trên toàn bộ bề mặt chân răng: sự đắp thêm rất ít ở vùng cổ, thường
xảy ra sự đắp thêm ximăng răng theo thời gian ở lỗ chóp.
Ở chóp răng, sự sinh ximăng răng bị kích thích do quá trình tiêu mòn của răng, sự
tạo ximăng được hình thành bằng các đường tăng trưởng đồng tâm, phản ứng này là
do cùng tuỷ răng kích thích nhưng đồng thời cũng do phản ứng của hệ thống nha
chu và vùng khớp răng. Điều có lợi là tăng cường sự vững chắc của khớp răng ổ
răng nhưng đồng thời là quá trình đóng chóp lỗ đỉnh- điều này có nghĩa là tuỷ răng
sẽ không còn được cung cấp máu.
3.1.2. Sự đắp thêm ximăng phản ứng:
Sự đắp thêm ximăng phản ứng xảy ra khi:
- Có sự bịt lỗ chân răng, hậu quả là tạo sự khoáng hoá ở vùng lỗ chóp, làm thành
một sẹo calci hoá đóng lỗ chóp chân răng.
- Khi xảy ra tình trạng bệnh lý quanh chóp hoặc viêm nha chu mãn tính gây quá
sản hoặc thiếu sản sinh ximăng, cũng có thể là một đáp ứng của quá trình tái hấp thụ
xương ở vùng kế cận dưới chân răng- khi đó sự sinh ximăng răng quanh vùng nha
chu làm thay đổi quanh vùng chóp.
- Trong trường hợp thiểu năng và sự bắt đầu thoái hoá răng dẫn đến hậu quả là sự
đắp thêm ximăng răng kém hiệu quả, làm sự tạo ximăng không bình thường hoặc vô
tổ chức.
Phản ứng tạo ximăng răng là phản ứng của tế bào sinh ximăng, những đường tăng
trưởng chạy vòng cung được đắp thành từng lớp song song với nhau, nhưng trong
trường hợp này chúng mất đi những tính chất đó, tạo thành những đường không thứ
tự làm biến dạng chân răng.
59
Sự quá sản ximăng thường kèm theo những khối ximăng không tế bào bị khoáng
hoá dán sát vào chân răng, đôi khi người ta thấy những khối ximăng không tế bào
nằm tự do trong vùng nha chu.
3.2. Sự tái hấp thụ ximăng:
3.2.1. Sự tái hấp thụ ximăng sinh lý:
Trong quá trình tự tiêu của chân răng sữa, những rãnh liên tục bị đào sâu bởi các
huỷ cốt bào. Sự tái hấp thụ chân răng sữa làm bộc phát các phản ứng viêm ở mô
dưới chân răng. Phản ứng tiêu mòn chân răng sữa làm thay đổi lớp cấu trúc lớp
ximăng đắp ngoài chân răng, cuối cùng chân răng sữa bị mất đi. Sự tiêu mòn chân
răng thường xảy ra ở ngoài vùng quanh chân răng.
3.2.2. Sự tái hấp thụ ximăng bệnh lý hay phản ứng:
Sự tái hấp thu ximăng bệnh lý hay phản ứng thường xảy ra do:
- Quá trình bệnh lý nha chu
- Ở những nơi mà răng quá sản tạo những khối bịt gây nên những vi san chấn lặp
đi lặp lại.
- Những lực ép một cách thái quá và lâu dài: răng bị bịt, trồng răng hoặc trám
răng.
Sự tái hấp thụ khởi đầu bằng sự rối loạn sắp xếp các bó sợi dây chằng nha chu và
sự dịch chuyển của răng khi nguyên nhân bệnh lý kéo dài hoặc gia tăng. Sự tạo
ximăng bổ sung sẽ bị ức chế do môi trường xung quanh bị viêm hoặc nhiễm trùng
trong quá trình chuyển dịch răng sinh lý hoặc gây ra trong quá trình chỉnh nha.
Sự sửa chữa chức năng của hệ thống nha chu được bảo đảm nhờ vào một phần sự
đáp ứng của mào ổ răng và một phần của ximăng. Khi trạng thái cân bằng giữa răng
và ổ răng được thực hiện, khi áp lực đè nén được phân phối một cách hợp lí và tôn
trọng thích hợp với biến dưỡng của tế bào thì sự bù đắp và tái hấp thụ xương răng
và ximăng răng sẽ xảy ra theo một quá trình thuận lợi và các dây chằng nha chu sẽ
được duy trì trong một tình trạng gần như bình thường.
60
XƯƠNG Ổ RĂNG
Xương ổ r
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_mo_phoi_rang_danh_cho_sinh_vien_rang_ham_mat.pdf