Các yếu tố miễn dịch:
Hệ thống miễn dịch liên quan với đái đường qua đáp ứng miễn dịch
tự miễn sau những tác động của các yếu tố môi trường. Đáp ứng tự miễn
nầy gồm cả đáp ứng miễn dịch thể dịch và miễn dịch tế bào.
Các tự kháng thể kháng tế bào đảo tụy đã được phát hiện trong
phần lớn các bệnh nhân đái đường giai đoạn khởi phát (60-90%), sau đó
giảm dần.
Kháng thể tự miễn đặc hiệu nhất bắt đầu xuất hiện để chống lại một
protein có trọng lượng phân tử 64.000 ở trên bề mặt tế bào bêta tuyến tụy,
protein nầy hình như rất đặc trưng cho tế bào bêta, nó không có trên các tế
bào khác của đảo tụy.
Không thể xác định được các tự kháng thể kháng đảo tụy nầy là
nguyên phát hay thứ phát sau những thoái biến của tế bào bêta nhưng nó là
những chất chỉ điểm có vai trò hết sức quan trọng đói với sự hoạt hóa
miễn dịch trong đái đường.
Miễn dịch qua trung gian tế bào cũng có vai trò tương tự, điều nầy
đã được minh chứng qua nhiều nghiên cứu trên chuột, tiến hành nhờ các
kháng thể đơn clon. Nghiên cứu cho thấy trong đái đường có giảm số
lượng các tế bào lympho T ức chế (Ts), gia tăng tỷ lệ Lympho T hỗ trợ
(Th) trên lympho T ức chế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy có bệnh lý miễn dịch ở đảo tụy
và bệnh lý miễn dịch nầy đã diễn tiến chậm nhưng liên tục và rõ ràng là nó
đã có từ trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng.
Thật vậy, người ta có thể bảo vệ được chuột thí nghiệm không mắc
phải bệnh đái đường bằng nhiều phương pháp khác nhau : cắt bỏ tuyến ức
ở chuột sơ sinh, ghép tủy xương sơ sinh, truyền tế bào lympho T, chiếu tia
tổ chức lympho, dùng huyết thanh chống tế bào lympho, dùng corticoid,
cyclosporin,.38
Các nghiên cứu nầy là cơ sở cho lâm sàng đặt vấn đề điều trị đái
đường bằng các liệu pháp ức chế miễn dịch.
Bệnh sinh của đái đường type II:
Đái đường type II chiếm 85-90% các trường hợp đái đường.
85 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Sinh lý bệnh học người (Phần 1), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơng đối hoặc tuyệt đối
insulin, thể hiện với tình trạng tăng glucose máu trường diễn và những bất
thường về chuyển hóa glucide, lipide, protide.
2.2. Bệnh nguyên
2.2.1. Đái đường nguyên phát
Lâm sàng phân biệt các thể đái đường nguyên phát như sau:
- Đái đường thể trẻ (đái đường type I, đái đường thể phụ thuộc
insuline): khởi phát từ thời thơ ấu hoặc trưởng thành, phối hợp với sinh
ketone và cần thiết phải điều trị bằng insuline. Thể nầy là hậu quả của sự
thiếu bài tiết insuline hoàn toàn, thường diễn tiến đến tử vong sau vài
tháng trong bệnh cảnh suy kiệt và nhiễm acid nếu không được điều trị.
- Đái đường thể già (đái đường type II, đái đường thể không phụ
thuộc insuline): thường khởi phát ở những người đứng tuổi bị béo phì
hoặc trước đó đã có béo phì. Thể nầy là hậu quả của sự tăng đề kháng với
tác đụng của insuline, thường không sinh ketone và không cần thiết phải
điều trị bằng insuline.
- Đái đường thể hỗn hợp (đái đường thể Mody): khởi phát sớm
(dưới 20 tuổi) nhưng tính chất của bệnh lại thuộc thể già hay nói một cách
khác đây là đái đường thể già nhưng lại khởi đầu vào thời tuổi trẻ.
Bệnh sinh của đái đường type I
Có 3 yếu tố tham gia: Di truyền, môi trường, miễn dịch
- Các yếu tố di truyền:
Nghiên cứu cho thấy khi mẹ mắc đái đường thì có 11,3% số con bị
đái đường. Khi cha bị đái đường thì có 11,6% số con bị đái đường. Khi cả
cha và mẹ bị đái đường thì có đến 36,6% số con bị đái đường, vậy rõ ràng
đái đường có tính di truyền.
Di truyền trong đái tháo đường có thể được quy định bởi một hoặc
36
nhiều gen (bởi lẽ đã có trên 20 hội chứng, có kiểu di truyền khác nhau
nhưng chúng đều có liên quan đến đái đường như hội chứng Turner, hội
chứng Trisomie 21, hội chứng múa giật Huntington, hội chứng bất phối
hợp đồng tác Friedreich, hội chứng teo thị thần kinh phối hợp với điếc, ...).
Các gen nầy có mối quan hệ với MHC trên nhiễm sắc thể số 6, phối
hợp mật thiết với locus D, đặc trưng nhất là phối hợp với tính đa hình
(polymorphisme) của locus DR như DR3, DR4 (95% trường hợp đái
đường typ I thuộc nhóm HLA-DR3 hoặc DR4 và 50% thuộc nhóm HLA
dị hợp tử DR3/DR4).
Yếu tố di truyền giải thích tại sao bệnh nhân bị đái đường lại thường
hay có những đáp ứng miễn dịch lệch lạc.
Các đáp ứng miễn dịch sai lệch bất thường nầy làm dễ cho tác động
của virus, độc tố lên tế bào bêta của tuyến tụy và cuối cùng là phá hủy
hoàn toàn gây thiếu tuyệt đối insuline.
Tuy nhiên nếu duy nhất chỉ dựa vào những tiền tố di truyền thì
không đủ để giải thích tần suất mắc bệnh trong quần thể bằng cớ là:
+ Những trẻ sinh đôi đồng hợp tử cùng trứng (monzygotic twins)
bị mắc đái đường không đồng đều chiếm gần 50% trường hợp.
+ Những người Ấn Độ sống ở Alaska mắc đái đường ít hơn thân
nhân của họ sinh sống ở quê nhà.
điều nầy gợi ý có sự can thiệp của các yếu tố môi trường.
- Các yếu tố môi trường:
Các yếu tố môi trường có thể chia làm 2 nhóm:
+ Virus:
Có rất nhiều bằng chứng lâm sàng, dịch tễ, xét nghiệm,... chứng
minh rằng sự nhiễm virus đã làm đái đường khởi phát như:
* sự xuất hiện của bệnh đái đường chịu ảnh hưởng theo mùa với
hiện tượng gia tăng hiệu giá kháng huyết thanh của một vài virus đặc biệt
(các virus sinh đái đường ái tụy tạng-pancreatotrope diabetogenic viruses-
như: Rubella, Mumps, Coxackie-B4),
* hình ành giải phẫu bệnh học của viêm đảo tụy do virus (thâm
nhiễm bạch cầu đơn nhân ở tụy),
* sự phá hủy tế bào bêta của tuyến tụy trong môi trường nuôi cấy
một số virus.
37
+ Độc tố:
Một vài hợp chất hóa học cũng có khả năng gây thoái biến tế bào
bêta, đặc biệt là các hợp chất có chứa nitơ (nitrit, nitrat,...).
Nghiên cứu dịch tễ học ở Island đã cho thấy rõ rằng nguy cơ bị đái
đường gia tăng ở các đứa trẻ con của những bà mẹ đã ăn nhiều thịt cừu
hun khói trong thai kỳ hoặc đã sử dụng một lượng lớn nitrat và nitrit trong
bảo quản thịt hun khói.
- Các yếu tố miễn dịch:
Hệ thống miễn dịch liên quan với đái đường qua đáp ứng miễn dịch
tự miễn sau những tác động của các yếu tố môi trường. Đáp ứng tự miễn
nầy gồm cả đáp ứng miễn dịch thể dịch và miễn dịch tế bào.
Các tự kháng thể kháng tế bào đảo tụy đã được phát hiện trong
phần lớn các bệnh nhân đái đường giai đoạn khởi phát (60-90%), sau đó
giảm dần.
Kháng thể tự miễn đặc hiệu nhất bắt đầu xuất hiện để chống lại một
protein có trọng lượng phân tử 64.000 ở trên bề mặt tế bào bêta tuyến tụy,
protein nầy hình như rất đặc trưng cho tế bào bêta, nó không có trên các tế
bào khác của đảo tụy.
Không thể xác định được các tự kháng thể kháng đảo tụy nầy là
nguyên phát hay thứ phát sau những thoái biến của tế bào bêta nhưng nó là
những chất chỉ điểm có vai trò hết sức quan trọng đói với sự hoạt hóa
miễn dịch trong đái đường.
Miễn dịch qua trung gian tế bào cũng có vai trò tương tự, điều nầy
đã được minh chứng qua nhiều nghiên cứu trên chuột, tiến hành nhờ các
kháng thể đơn clon. Nghiên cứu cho thấy trong đái đường có giảm số
lượng các tế bào lympho T ức chế (Ts), gia tăng tỷ lệ Lympho T hỗ trợ
(Th) trên lympho T ức chế.
Các nghiên cứu gần đây cho thấy có bệnh lý miễn dịch ở đảo tụy
và bệnh lý miễn dịch nầy đã diễn tiến chậm nhưng liên tục và rõ ràng là nó
đã có từ trước khi xuất hiện các triệu chứng lâm sàng.
Thật vậy, người ta có thể bảo vệ được chuột thí nghiệm không mắc
phải bệnh đái đường bằng nhiều phương pháp khác nhau : cắt bỏ tuyến ức
ở chuột sơ sinh, ghép tủy xương sơ sinh, truyền tế bào lympho T, chiếu tia
tổ chức lympho, dùng huyết thanh chống tế bào lympho, dùng corticoid,
cyclosporin,...
38
Các nghiên cứu nầy là cơ sở cho lâm sàng đặt vấn đề điều trị đái
đường bằng các liệu pháp ức chế miễn dịch.
Bệnh sinh của đái đường type II:
Đái đường type II chiếm 85-90% các trường hợp đái đường.
- Yếu tố di truyền:
Các yếu tố di truyền được gợi ý qua các nghiên cứu trên những trẻ
sinh đôi đồng hợp tử, xác định một tỷ lệ phù hợp gần như 100%.
Sự mẫn cảm di truyền với đái đường trong trường hợp nầy hình như
có liên quan với những biến đổi di truyền trên nhánh ngắn của nhiễm sắc
thể số 11 rất gần với gen tổng hợp insuline.
- Yếu tố môi trường:
Liên quan với tuổi, độ béo phì và những người ít hoạt động chân
tay.
Đái đường type II có biểu hiện rất không thuần nhất: một số bệnh
nhân có biểu hiện thiếu hụt tế bào béta và có nguy cơ nhiễm ketone, trong
khi một số khác chỉ biểu hiện một sự đề kháng với tác dụng của insuline
thể hiện qua nồng độ insuline trong máu cao hơn rất nhiều so với bình
thường.
PHÁ HỦY
(Viêm tụy nhiễm độc, viêm tụy KT kháng receptor
đái đường type I: virus, độc tố, tự miễn) Bất thường của receptor
(bẩm sinh, mắc phải)
TẾ BÀO BÉTA INSULINE TẾ BÀO
CỦA ĐẢO TỤY Receptor ĐÍCH
KT kháng insuline
(nội sinh, ngoại sinh) PROTEASE
Bất thường sau Receptor
ỨC CHẾ (bẩm sinh, mắc phải)
(Adrenergic, prostaglandine, peptides)
Đái đường type II?, Đái đường thể MODY?
THIẾU INSULIN ĐỀ KHÁNG INSULIN
Hình 5.4: Bệnh nguyên-bệnh sinh của các thể đái đường
39
Một số các nghiên cứu về sự kết hợp giữa insuline với thụ thể
(receptor) của insuline và những nghiên cứu về những tác dụng của
insuline bên trong tế bào sau khi kết hợp với receptor hình như bị gián
đoạn ở những bệnh nhân đái đường type II có tăng cân và ít hoạt động thể
lực.
Kết quả cuối cùng là mất đáp ứng với insuline. (xem hình 4)
2.2.2. Đái đường thứ phát
-Sau phẫu thuật hoặc bệnh lý của tụy:
Phẫu thuật cắt bỏ tụy (một phần hoặc toàn phần), thương tổn tụy cấp
hoặc mãn (viêm tụy, ung thư tụy,...)
- Sau các bệnh nội tiết:
Cường phó giáp nguyên phát, tăng aldosteron nguyên phát, u tế bào
ưa crôm, cường giáp, tăng năng vỏ thượng thận và bệnh to cực.
- Sau các tình huống:
Như liệu pháp corticoides, thai nghén, xơ gan,... đều có thể khởi
phát cho một đái đường thoáng qua hoặc vĩnh viễn.
3. Cơ chế sinh lý bệnh của đái đường
Thiếu insulin
(tương đối hoặc tuyệt đối)
Tăng huỷ glycogen Tăng tân sinh đường Tăng tạo thể ketone Tăng tiêu mỡ
Giảm sử dụng glucose ngoại vi Giảm sử dụng thể ketone
Tăng glucose trường diễn trong máu Tăng quá mức các thể ketone trong máu
Đa niệu thẩm thấu, ketone niệu
Mất nước, điện giải,
Các biến chứng thứ phát giảm thể tích máu, giảm huyết áp Nhiễm acide chuyển hoá
Hình 5.5: Cơ chế sinh lý bệnh của các triệu chứng trong đái đường
40
Tình trạng thiếu insulin (tương đối hoặc tuyệt đối) sẽ làm cho:
- Gan giảm sản xuất glucose và giảm khả năng bắt giữ glucose từ
thức ăn.
- Giảm sử dụng glucose ngoại biên.
- Tăng tân sinh đường và tăng một cách đáng kể sự dị hóa nitơ.
- Tăng tiêu mỡ (trường hợp thiếu nhiều) dẫn đến tích tụ các acid
béo tự do trong tế bào gan và gây nhiễm ketone nặng nề thứ phát.
Có thể tóm tắt theo sơ đồ (hình 5)
4. Cơ chế của các biến chứng thứ phát trong đái đường
Nổi bật là những thương tổn thoái hóa thần kinh và mạch máu, có
lẽ là hậu quả của một sự tích lũy trong tổ chức những phức hợp kép có
chứa glucose hoặc những dẫn xuất của nó.
Trong các tế bào Schwann của các dây thần kinh người ta tìm thấy
có sự tích lũy của các đường-cồn như sorbitol và fructose gây ra do quá
trình thấm lậu một cách thụ động và bất thường của glucose một cách thứ
phát do tăng đường máu mãn tính.
Quá trình tương tự cũng xảy ra ở thủy tinh thể, ở thành các mạch
máu lớn như động mạch chủ. Những thương tổn nguyên phát ở các mao
mạch hình như do sự tích tụ trong màng cơ bản các glycoprotein bất
thường về mặt cấu trúc vì chứa quá nhiều glucose và galactose làm cho
màng cơ bản dày lên và làm biến chất về sinh hóa cũng như về hình thái
đặc biệt là làm tăng tính thấm của màng (hội chứng Kimmelstiel-Wilson).
Tốc độ xuất hiện xơ vữa (atheroma) có liên quan với tình trạng
tăng lipid máu xảy ra vào thời kỳ mà sự kiểm soát đường máu đã bị rối
loạn hoàn toàn.
Ngoài ra bệnh nhân đái đường còn hay bị nhiễm trùng, thường gặp
là lao phổi, cơ chế do giảm sức đề kháng, giảm tạo kháng thể và giảm khả
năng thực bào vì thiếu năng lượng, vì môi trường đường cao, ...
Hôn mê do ketosis là một biến chứng không thể tránh khỏi của
bệnh đái đường thể trẻ. Tình trạng rối loạn ý thức nầy có thể là do nhiều
cơ chế phối hợp:
- Dị hóa mạnh protid, lipid làm tăng tích lũy các mẫu acetyl-CoA
không vào chu trình Krebs, có xu hướng chuyển hóa thành các thể ketone.
Ngoại trừ aceton, chúng đều là các acid mạnh nên làm giảm pH máu gây
nhiễm acid chuyển hóa mất bù và gây nhiễm độc thần kinh.
41
- Tình trạng tăng glucose máu lúc đầu làm tăng áp lực thẩm thấu
ngoại bào kéo nước ra ngoài gây mất nước nội bào. Mặt khác do tăng
nồng độ glucose máu nên gây đa niệu thẩm thấu và tình trạng tăng thông
khí (do nhiễm acid) gây cả mất nước ngoại bào. Hậu quả làm giảm cung
cấp máu cho não.
- Dẫn truyền thần kinh bị rối loạn do các chất điện giải quan trọng
như Na+, K+, Ca++ bị mất qua nước tiểu do tác dụng đệm.
Thiếu insulin Tế bào thiếu glucose Tăng tạo các thể ketone
Tăng glucose máu Tăng áp lực thẩm thấu Thải qua nước tiểu với Na+,K+,Ca++ đệm
Đa niệu thẩm thấu Mất nước nội bào Rối loạn điện giải Giảm pH máu
Giảm thể tích máu Rối loạn chuyển hóa nội bào não Rối loạn dẫn truyền thầnkinh
Nhiễm độc acide
Giảm tưới máu não
HÔN MÊ
Hình 5.6: Cơ chế bệnh sinh của triệu chứng hôn mê trong đái đường
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Trần Thị Chính. Rối loạn chuyển hoá glucid. 110-120. Sinh lý bệnh học.
Nhà xuất bản Y học. 2002
2.Sheila M Willatte. 1986. Lecture Notes on Fluid and Electrolyte
Balance. PG Asian Economy Edition.
3. Gary G. Singer/ Barry M. Brenner. 2002. Fluid and Electrolyte
Disturbances. 271. Principles of internal Medicine. Harrison, 15 th
Edition. Volume 1. International Edition.
42
4. Thomas D. Dubose, Jr. 2002. Acidosis and Alkalosis. 283. Principles of
Internal Medicine. Harrison, 15 th Edition. Volume 1. International
Edition.
43
Chương 6
Rối loạn chuyển hóa Lipid
I. Nhắc lại sinh lý và hóa sinh
1. Vai trò của lipid trong cơ thể
Lipid là nguồn năng lượng trực tiếp cho cơ thể. Với khẩu phần ăn
hợp lý lipid tham gia cung cấp 25-30 % năng lượng cơ thể. Lipid được đốt
để tạo năng lượng tại các tế bào cơ thể dưới dạng các mẫu acetyl coenzym
A từ sự thoái biến acid béo. Riêng tại gan, một lượng nhỏ acetyl coenzym
A được chuyển thành các thể ketone (acetoacetate, β-hydroxybutyrate và
acetone). Các thể ketone một phần được các tế bào não, thận và cơ tim
đốt, phần còn lại được thải qua phổi (acetone) và ra nước tiểu. Bình
thường nồng độ các thể ketone trong máu rất thấp vào khoảng 30 mg/L.
Một số trường hợp bệnh lý như trong bệnh đái đường, đôi khi có thể bị
nhiễm toan máu do các thể ketone.
Lipid là nguồn năng lượng dự trữ lớn nhất trong cơ thể. Dạng dự trữ
là triglycerid (mỡ trung tính) tại mô mỡ. Mô mỡ chiếm khoảng 15-20%
trọng lượng cơ thể ở người trưởng thành. Bình thường khối lượng mỡ thay
đổi theo tuổi, giới và chủng tộc. Nhìn chung khối lượng mỡ ở nữ giới cao
hơn nam giới và tăng dần theo tuổi. Nếu cơ thể tích trữ quá nhiều lipid sẽ
bị béo phì.
Lipid tham gia cấu trúc cơ thể và là bản chất của một số hoạt chất
sinh học quan trọng như: phospholipid tham gia cấu trúc màng tế bào và là
tiền chất của prostaglandin và leucotrien; cholesterol cần cho sự tổng hợp
acid mật, các hormon steroid thượng thận và sinh dục; mô mỡ đệm dưới
da và bọc quanh các phủ tạng.
2. Nhu cầu về lipid
2. 1. Nhu cầu về lượng lipid
Nhu cầu về lượng chưa được xác định chính xác, vào khoảng 1g/kg
thể trọng/ngày. Tăng nhu cầu khi cần chống lạnh. 1g lipid cung cấp đến
9,1 kcal (cao hơn hẳn so với glucid và protid).
2.2. Nhu cầu về chất
Cần đủ acid béo chưa bảo hòa (trong công thức có dấu nối đôi giữa
hai carbon), nhất là acid linoleic. Khuyên nên dùng lượng lipid cung cấp
dưới 30% nhu cầu năng lượng cơ thể với tỉ lệ dầu thực vật là 2/3 và mỡ
động vật là 1/3, trong đó lượng cholesterol phải dưới 300mg/ngày.
44
Hiện nay các nước phương tây có thói quen dùng nhiều lipid hơn
nhu cầu. Lipid bao gồm nhiều chất: acid béo, cholesterol, phospholipid,
triglycerid. Mỡ động vật chứa nhiều acid béo bảo hòa như acid palmitic
(C15), acid stearic (C17) với công thức chung là CnH2n+1COOH.
Cholesterol có nhiều trong lòng đỏ trứng và dầu gan cá, có liên quan đến
chứng xơ vữa động mạch. Ăn nhiều acid béo bảo hòa làm dễ xơ vữa động
mạch. Mỡ thực vật chứa nhiều acid béo chưa bảo hòa như acid oleic
(C18), acid linoleic (C18) với công thức tổng quát là CnH2n-1COOH khi có
một dấu nối đôi, CnH2n-3COOH khi có hai dấu nối đôi.
Ăn nhiều acid béo chưa bảo hòa làm hạn chế sự gia tăng cholesterol
máu và do đó làm giảm tỉ lệ chế biến chứng xơ vữa động mạch.
3. Chuyển hóa lipid
Mỡ ăn vào chủ yếu là triglycerid. Dưới tác dụng của acid mật và
lipase dịch tụy, triglycerid bị thủy phân thành acid béo và monoglycerid.
Tại tế bào niêm mạc ruột, hầu hết acid béo và monoglycerid được tái tổng
hợp thành triglycerid rồi kết hợp với apo-B48, phospholipid và cholesterol
để tạo thành hạt dưỡng trấp (chylomicron).
Hạt dưỡng trấp được hấp thu vào mạch bạch huyết rồi qua ống ngực
đổ vào tuần hoàn chung. Riêng acid béo chuỗi ngắn (dưới 12 carbon) và
glycerol được hấp thu trực tiếp vào tĩnh mạch cửa.
Hạt dưỡng trấp chứa nhiều triglycerid, khi vào máu thì nhận thêm
apo-CII từ HDL (lipoprotein tỷ trọng cao). Apo-CII là cofactor của
lipoprotein lipase thủy phân triglycerid đưa axid béo đến các tế bào ngoại
vi để tiêu thụ. Sau đó hạt dưỡng trấp được bổ sung apo-E rồi được gan thu
nhận (qua trung gian thụ thể của LDL và thụ thể của apo-E trên bề mặt tế
bào gan với apo-E trên hạt dưỡng trấp).
Tế bào gan thu nhận acid béo từ hạt dưỡng trấp và mô mỡ, tổng hợp
thêm acid béo từ các mẫu acetyl coenzym A, kết hợp acid béo với
glycerolphosphat để tạo triglycerid.
Sau đó tế bào gan kết hợp triglycerid với apo-B100, phospholipid và
cholesterol đưa vào máu dưới dạng VLDL (lipoprotein tỷ trọng rất thấp).
VLDL cũng chứa nhiều triglycerid, được HDL chuyển apo-CII qua
để kích hoạt lipoprotein lipase nhằm thủy phân triglycerid đưa acid béo
đến các tế bào ngoại vi tiêu thụ.
Sau đó, VLDL do giảm tỉ lệ triglycerid chuyển thành IDL
(lipoprotein tỷ trọng trung gian). IDL chịu hai khả năng chuyển hóa: (1)
chuyển trở lại tế bào gan (qua trung gian thụ thể của LDL và thụ thể của
apo-E trên bề mặt tế bào gan với apo-B100 và apo-E trên IDL), (2) chuyển
45
thành LDL (lipoprtein tỉ trọng thấp) nhờ tác dụng của HTGL (hepatic
triglycerid lipase) thủy phân bớt triglycerid trên IDL.
LDL không có các apo nào khác ngoài apo-B100, chứa nhiều
cholesterol nhất, được vận chuyển trong máu, đến cung cấp cholesterol
cho những tế bào có thụ thể của LDL, đặc biệt là tại tuyến thượng thận và
tuyến sinh dục để tổng hợp các hormon steroid.
HDL do gan và ruột tạo. Vai trò của HDL là thu nhận cholesterol
thừa từ các tế bào ngoại vi (vai trò của HDL3). Khi cholesterol được hấp
phụ vào bề mặt HDL3 thì được chuyển thành este cholesterol nhờ tác
dụng của LCAT (lecithin cholesterol acyl transferase). Khi este cholesterol
di chuyển vào bên trong lõi HDL thì HDL3 trở thành HDL2.
Sau đó HDL2 được thu nhận trở lại vào gan hoặc chuyển este
cholesterol qua VLDL để trở thành HDL3. Sự chuyển este cholesterol từ
HDL2 qua VLDL cần tác dụng của CETP (cholesterol ester transfer
protein).
Apo(a) do gan tạo, kết hợp với apo-B100 trên LDL hình thành
lipoprotein(a). Vai trò của lipoprotein (a) chưa rõ, nhưng khi tăng thì làm
dễ nguy cơ xơ vữa động mạch.
Mỗi loại lipoprotein máu cấu tạo bởi một lõi kỵ nước gồm
triglycerid và este cholesterol, một vỏ bọc ái nước gồm phospholipid,
cholesterol tự do và apolipoprotein (gọi tắt là apo).
Triglycerid và cholesterol không hòa tan trong nước, do vậy chúng
phải được vận chuyển trong các hạt lipoprotein, nói cách khác lipoprotein
là dạng vận chuyển triglycerid và cholesterol trong máu.
LDL chứa tỉ lệ cholesterol cao nhất (45%) so với các loại lipoprotein
khác, tải 70% lượng cholesterol máu.
HDL có vai trò chính là thu nhận cholesterol thừa ở các tế bào ngoại
vi. Tăng LDL hoặc giảm HDL làm dễ nguy cơ xơ vữa động mạch.
46
Bảng 6.1: Thành phần cấu tạo lipoprotein máu
Thành phần Hạt dưỡng trấp VLDL LDL HDL
Cholesterol 6% 8-13% 45% 20%
Phospholipid 4% 6-15% 22% 30%
Triglycerid 88% 64-80% 10% 4%
Glucid 1% 1-2% >2% <1%
Apolipoprotein 1% 8-10% 20% 46%
Protein / Lipid 1 / 100 1 / 9 1 / 4 1 /1
Các apolipoprotein trên lipoprtein máu có thể giữ chức năng: (1)
tham gia và ổn định cấu trúc lipoprotein, (2) hoạt hóa hoặc ức chế
lipoprotein lipase dẫn đến tăng hoặc giảm thủy phân triglycerid.
Bảng 6.2: Ðặc điểm và chức năng của một số apolipoprotein
Apo-AI Trên lipoprotein Chức năng
Apo-AI HDL, hạt dưỡng trấp Tham gia cấu trúc; hoạt hóa LCAT
Apo-AII HDL, hạt dưỡng trấp Không rõ
Apo-B48 Hạt dưỡng trấp Tham gia cấu trúc
Apo-B100 VLDL, LDL Tham gia cấu trúc; gắn với thụ thể của
LDL
Apo-CII HDL, VLDL, hạt dưỡng Hoạt hóa lipoprotein lipase
trấp
Apo-E HDL, VLDL, hạt dưỡng Gắn với các thụ thể của LDL và apo-E tại
trấp gan
II. Rối loạn chuyển hóa lipid
Có hai vấn đề lớn: (1) tình trạng béo phì, rất phổ biến tại các nước
phương tây, có xu hướng ngày càng tăng ở nước ta, (2) rối loạn
lipoprotein máu, tình trạng bệnh lý đang được nghiên cứu nhiều. Các rối
loạn này dễ dẫn đến một số biến chứng, dẫn đến tăng tỉ lệ bệnh tật và tỉ lệ
tử vong.
1. Béo phì
Vai trò của mô mỡ là dự trữ năng lượng, đồng thời tạo thành lớp mô
đệm chống chấn thương cơ học.
47
Bình thường mô mỡ phân bố thành ba vùng: (1) lớp mỡ dưới da,
phân bố nhiều hơn tại vùng ngực, mông và đùi ở nữ giới, (2) lớp mỡ sâu
như tại mạc nối, mạc treo ruột và sau phúc mạc, (3) lớp mỡ tại hốc mắt và
lòng bàn tay và gan bàn chân.
Béo phì là tình trạng tích mỡ quá mức bình thường trong cơ thể. Mỡ
tích lại chủ yếu dưới dạng triglycerid tại mô mỡ.
1.1. Phương pháp đánh giá béo phì
1.1.1. Phương pháp đo khối lượng mỡ trong cơ thể
Tùy theo phương pháp, có thể đánh giá khối lượng mỡ toàn phần
hoặc sự phân bố mỡ trong cơ thể. Sự tăng khối lượng mỡ toàn phần hoặc
rối loạn phân bố mỡ đều dẫn đến bệnh lý.
Bảng 6.3: Phương pháp đo khối lượng mỡ
Phương pháp Khối lượng mỡ Phân bố mỡ Ðộ chính xác
Chiều cao cân nặng + - cao
Nếp gấp da + + thấp
Siêu âm + + cao
Chụp cắt lớp tỷ trọng + + cao
Chụp cộng hưởng từ + + cao
1.1.2. Phương pháp tính toán
Dựa vào một số công thức được xây dựng trên cơ sở thống kê:
(1) Công thức Lorentz
[Chiều cao cơ thể (cm) - 100] - [Chiều cao cơ thể(cm) / 4 (nam)
hoặc 2 (nữ)]
Bảng 6.4: Ðánh giá tình trạng dinh dưỡng theo công thức Lorentz
Lorentz Mức độ béo phì
>20-30 Béo phì nhẹ
>30-50 Béo phì rõ
>50 Quá béo phì
(2) Chỉ số khối cơ thể (BMI: Body Mass Index)
BMI (kg/ m2) = Trọng lượng cơ thể / (Chiều cao cơ thể)2
Theo khuyến cáo của Tiểu ban dinh dưỡng Liên Hiệp Quốc về đánh
giá tình trạng dinh dưỡng của người trưởng thành tại các nước đang phát
triển thì khi BMI từ 25 trở lên được xem là béo phì. Tại một số nước phát
48
triển khi BMI bằng 25-27 hoặc 25-30 thì gọi là tăng thể trọng, khi BMI
trên 27 hoặc trên 30 mới gọi là béo phì, tuy nhiên tỉ lệ bệnh tật và tỉ lệ tử
vong đã bắt đầu gia tăng khi BMI từ 25 trở lên.
Bản chất của béo phì là do tăng khối lượng mỡ, do vậy người tăng
trọng do tăng khối cơ bắp không phải bị béo phì. Khi đánh giá tình trạng
béo phì cần dựa thêm vào lâm sàng vì trọng lượng cơ thể còn phụ thuộc:
(1) tuổi, (2) giới, (3) kích thước bộ xương, (4) khối cơ, (5) tình trạng giữ
muối nước và (7) tác dụng của một số thuốc.
Bảng 6.5: Ðánh giá tình trạng dinh dưỡng của người trưởng thành theo BMI
BMI Tình trạng dinh dưỡng
< 16 Suy dinh dưỡng độ III
16 - 16,9 Suy dinh dưỡng độ II
17 - 18,4 Suy dinh dưỡng độ I
18,5 - 24,9 Bình thường
25 - 29,9 Béo phì độ I
30 - 39,9 Béo phì độ II
> 40 Béo phì độ III
1.2. Cơ chế béo phì
Béo phì là hậu quả của sự gia tăng số lượng và kích thước tế bào
mỡ, có liên quan đến các yếu tố di truyền và môi trường.
1.2.1. Vai trò của yếu tố di truyền.
Nếu cha mẹ đều bị béo phì thì tỉ lệ béo phì của con là 80% (so với
nhóm chứng là 15%). Nghiên cứu trên chuột nhận thấy có một số gen đột
biến gây béo phì. Ðột biến gen ob mã cho một loại peptid là leptin (leptin
từ tiếng Greek là leptos, nghĩa là gầy). Bình thường leptin do tế bào mỡ
tiết đến tác dụng tại thụ thể của nó tại vùng dưới đồi gây cảm giác no. Khi
tích nhiều triglycerid, tế bào mỡ tiết nhiều leptin hạn chế ăn nhiều nhằm
điều hòa trọng lượng cơ thể. Ở chuột bị đột biến gen ob thì cơ chế điều
hòa cảm giác no bị rối loạn, dẫn đến ăn nhiều gây béo phì. Gen mã cho thụ
thể của leptin gọi là gen db. Chuột bị đột biến gen db cũng bị béo phì do
giảm nhạy cảm với leptin. Gen ob cũng đã được phát hiện ở người, nhưng
vai trò của nó trong cơ chế bệnh sinh của các thể béo phì còn chưa rõ.
Trên lâm sàng có một số hội chứng di truyền gây béo phì kết hợp
với giảm trí lực và rối loạn nội tiết.
49
Bảng 6.6: Các hội chứng di truyền gây béo phì
Hội chứng Kiểu di truyền Béo phì Nhược năng Giảm trí
sinh dục lực
Prader-Willi ? toàn thân + nhẹ
Lauren-Moon- tự thân lặn toàn thân + ?
Biedl
Ahlstrom tự thân lặn thân chỉ + ở nam -
Cohen tự thân lặn thân + hoặc - nhẹ
Carpenter tự thân lặn thân, mông + nhẹ
1.2.2. Vai trò của các yếu tố môi trường
Béo phì do ăn nhiều ( do thói quen cá nhân hoặc cộng đồng). Tại đa
số các nước phát triển chế độ ăn thường quá giàu năng lượng. Các mẫu
acetyl coenxym A thừa không thể chuyển ngược lại thành acid pyruvic vì
phản ứng một chiều, do vậy đi vào con đường tổng hợp acyl-CoA rồi hình
thành mỡ dự trử là triglycerid. Tuy vậy ăn nhiều chưa phải là yếu tố đủ
gây béo phì, vì (1) có người ăn nhiều vẫn không bị béo phì, (2) tăng trọng
lượng chỉ do ăn nhiều sẽ giảm lại nhanh khi giảm khẩu phần ăn, (3) người
béo phì cố ăn ít để giảm cân nhưng sau đó lại thèm ăn nên lại ăn nhiều.
1.2.3. Yếu tố bệnh lý
Béo phì do rối loạn thần kinh trung ương. Thực nghiệm trên mèo
cho thấy tại vùng dưới đồi có cặp nhân bụng giữa (ventro-medial) chi phối
cảm giác chán ăn, cặp nhân bụng bên (ventro-lateral) chi phối cảm giác
thèm ăn. Nếu gây tổn thương cặp nhân bụng giữa thì mèo chỉ còn lại cảm
giác thèm ăn, mèo ăn nhiều và tăng cân nhanh (sau 4 tháng nặng 1080g
trong khi ở con chứng chỉ nặng 520g). Ngược lại nếu gây tổn thương cặp
nhân bụng bên thì mèo chán ăn. Một số người hồi phục sau chấn thương
não, viêm não trở nên ăn nhiều và béo phì có thể liên quan đến cơ chế này.
Béo phì do rối loạn nội tiết. Béo phì là một triệu chứng của bệnh rối
loạn nội tiết như trong hội chứng Cushing có tích mỡ chủ yếu ở mặt và cổ,
trong nhượ
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_sinh_ly_benh_hoc_nguoi_phan_1.pdf