Cấu trúc của năng lục tổ chức
Dựa theo quan điểm của tâm lý học nhân
cách, khi nghiên cứu nhân cách người lãnh đạo, có
thể nêu cấu trúc năng lực tổ chức của người lãnh đạo
như sau:
* Các đặc điểm chung:
Đây là những đặc điểm làm cơ sở, nền tảng
cho sự hình thành năng lực tổ chức ở người lãnh đạo.
Các đặc điểm này bao gồm xu hướng cá nhân, sự đào
tạo về chuyên môn, hoạt động tổ chức và những phẩm
chất chung cần thiết khác.- Xu hướng cá nhân:
+ Nổi bật trước hết là lý tưởng, lập trường giai
cấp, tính tư tưởng và niềm tin.
+ Kết quả đào tạo về chuyên môn và tổ chức
của người quản lý. Bao gồm vốn kiến thức văn hoá và
khoa học (chuyên môn, và nhất là khoa học quản lý)
cùng kinh nghiệm tương ứng với yêu cầu của công tác
được giao.
- Một số phẩm chất chung.
+ Sự nhanh trí;
+ Tính cởi mở;
+ Óc suy xét sâu sắc;
+ Tính tích cực hoạt động;
+ Óc sáng kiến;
+ Tính kiên trì;
+ Tính tự kiềm chế;
+ Khả năng làm việc bền lâu;
+ Tính tổ chức, tính tự lậ
251 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 816 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Tâm lý học quản lý, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của tổ
chức. Sự tương hợp về nhu cầu là sự kết hợp hài hoà
giữa nhu cầu cá nhân và nhu cầu chung của tổ chức.
Sẽ là không thực hiện khi ê-kíp chỉ quan tâm đến việc
thực hiện nhu cầu tổ chức mà không tính đến các nhu
cầu riêng của các thành viên ê-kíp. Song nếu các
thành viên ê-kíp chỉ lo thoả mãn nhu cầu riêng của
mình mà không tính đến các nhu cầu của tổ chức, của
xã hội, thì sẽ không tồn tại vì sớm muộn nó sẽ dẫn tới
hành vi lệch chuẩn.
- Sự tương hợp về lợi ích:
Có thể nói lợi ích là yếu tố quan trọng hàng
đầu đối với sự phát triển của ê-kíp lãnh đạo cũng như
bất cứ nhóm xã hội nào. Sẽ không tồn tại một ê-kíp
lãnh đạo khi ở đó yếu tố lợi ích không được tính đến.
Trong lịch sử của làng xã cũng như trong thời kỳ bao
cấp, yếu tố lợi ích của cộng đồng, lợi ích của tập thể
được chú ý nhiều hơn và nó được đặt trên lợi ích của
các cá nhân. Trong bối cảnh lịch sử đó, với sự thống trị
của chủ nghĩa bình quân thì việc chú ý dẫn lợi ích của
tập thể nhiều hơn lợi ích cá nhân là chấp nhận được.
Song trong diều kiện của nền kinh tế thị trường hiện
nay thì chúng ta không thể xem nhẹ lợi ích cá nhân,
mà phải đặt nó trong mối tương quan chung với lợi ích
của tập thể xã hội.
Sự thống nhất về lợi ích trong ê-kíp lãnh đạo
thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, là sự thống nhất về lợi ích của tất cả
các thành lên trong ê-kíp. Khi sự phân chia lợi ích
không hợp lý có thể dẫn đến các mâu thuẫn, xung đột
trong ê-kíp. Sự "ăn chia không sòng phẳng" là cơ sở
nảy sinh xung đột trong nhiều nhóm lãnh đạo hay
nhiều tổ chức. Sự xung đột này đã làm hiệu quả hoạt
động của ban lãnh đạo hay tổ chức suy giảm, thậm chí
có thể dẫn đến tan rã ê-kíp.
Thứ hai, người đứng đầu ê-kíp cần tính đến
lợi ích của các thành viên, để đảm bảo cho sự hài hoà
giữa lợi ích toàn ê-kíp và lợi ích của mỗi thành viên
trong ê-kíp. Nếu lợi ích của các thành lên không được
tính tới thì sẽ không tạo ra động lực làm việc cho họ. Ở
đây không chỉ đảm bảo hài hoà giữa lợi ích tập thể ê-
kíp và lợi ích của các thành viên, mà cần đảm bảo hài
hoà giữa hai loại lợi ích này với lợi ích chung của xã
hội. Điều này đàm bảo cho ê-kíp hoạt động phù hợp
với các chuẩn mực xã hội.
4.2.2. Phối hợp hành động ê-kíp lãnh đạo
Khác với hoạt động của mỗi cá nhân, ê-kíp
lãnh đạo là một nhóm xã hội - một nhóm xã hội phát
triển cao. Do vậy, hoạt động quản lý của ê-kíp lãnh đạo
là sự phối hợp hành động một cách chặt chẽ giữa các
thành viên. Sự phối hợp hành động giữa các thành
viên trong ê-kíp lãnh đạo cũng giống như sự phối hợp
hành động trong một dây chuyền sản xuất. Nó thể hiện
ở sự đồng bộ, ăn khớp giữa các thành viên trong hoạt
động chung của ê-kíp. Sự phối hợp hành động của
một ê-kíp khác với sự phối hợp hành động của một
dây chuyền sản xuất là ở sự linh hoạt, uyển chuyển.
Để phối hợp hành động tốt, trước hết giữa
các thành viên của ê-kíp phải thống nhất về quan điểm
làm việc. Quan điểm làm việc được xây dựng trên cơ
sở thống nhất về định hướng giá trị, về nhu cầu, động
cơ, mục đích hoạt động của ê-kíp.
Biện pháp cụ thể giải quyết vấn đề của các
thành viên ê kíp có thể khác nhau, song quan điểm
làm việc phải thống nhất, đặt mục tiêu của tập thể lên
trên hết. Quan điểm làm việc của một ê-kíp lãnh đạo
của một doanh nghiệp là những người lãnh đạo phải
đồng lòng nhất trí hợp tác với nhau để phát triển hoạt
động kinh doanh, ngày càng nâng cao thu nhập của
doanh nghiệp. Nói cách khác, phối hợp hành động
giữa các thành viên của ê-kíp vì sự phát triển của
doanh nghiệp. Dựa vào các nhiệm vụ được phân
công, mỗi người lãnh đạo có thể hành động một cách
sáng tạo theo khả năng và hoàn cảnh cụ thể để thực
hiện các mục tiêu chung của tổ chức.
Để có sự phối hợp hành động chặt chẽ giữa
các thành viên của ê-kíp lãnh đạo, đòi hỏi mỗi thành
viên phải làm một cách tự giác và có trách nhiệm cao.
Tinh thần tự giác của các thành viên ê-kíp thể hiện ở
chỗ mỗi người tự nỗ lực và phấn đấu hết mình để
hoàn thành các nhiệm vụ được phân công. Một khẩu
hiệu hành động đã có từ lâu ở nước ta mà đến nay vẫn
có giá trị về tinh thần trách nhiệm đó là “mình vì mọi
người, mọi người vì mình". Mỗi người biết sống vì
nhau và sống vì tập thể. Sự phối hợp hành động của ê-
kíp lãnh đạo cũng giống như sự vận hành của các bộ
phận trong một cơ thể. Nếu một bộ phận bị trục trặc thì
sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của cả cơ thể.
Để có sự phối hợp tốt giữa các thành viên
trong ê-kíp lãnh đạo thì sự phân công công việc trong
ê-kíp phải dựa trên năng lực, sở trường của mỗi người
và tất nhiên trong sự phân công này không thể không
tính đến tính cách của từng cá nhân. Sự phân công
này sẽ phát huy được ưu điểm của mỗi người, hạn
chế được những nhược điểm của từng thành viên.
Một yếu tố có ý nghĩa với việc phối hợp hành
động của ê-kíp lãnh đạo là các thành viên trong ê-kíp
lãnh đạo phải có tinh thần kỷ luật. Theo A.G. Kovaliop,
kỷ luật không chỉ là hành động có vị trí nhằm đạt tới
một cách có kế hoạch mục tiêu đã định, mà còn là
năng lực kìm hãm, kiềm chế các yếu tố gây trở ngại
cho việc thực hiện mục tiêu chung của tập thể. Kỷ luật
tà ý thức về nghĩa vụ của cá nhân đối với công việc
được giao là tinh thần trách nhiệm trước tập thể, là thói
quen thực hiện một cách nghiêm túc chuẩn mực lao
động (A.G. Kôvaliop, 1976). Kỷ luật sẽ làm các thành
viên của ê-kíp hành động một cách thống nhất có kế
hoạch. Điều khác nhau giữa kỷ luật của ê-kíp lãnh đạo
với kỷ luật của những người lao động trong tổ chức là
kỷ luật của ê-kíp mang tính tự giác và ý thức trách
nhiệm cao đối với nhiệm vụ được giao.
4.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA TƯƠNG HỢP TÂM
LÝ VÀ PHỐI HỢP HÀNH ĐỘNG CỦA Ê-KÍP LÃNH ĐẠO
Tương hợp tâm lý và phối hợp hành động
giữa các thành tiên có liên quan chặt chẽ với nhau,
phụ thuộc và đan xen vào nhau. Đây là hai yếu tố quyết
định sự hình thành và tồn tại của ê kíp lãnh đạo.
Tương hợp tâm lý là tiền đề, là điều kiện tiên
quyết để dẫn tới sự phối hợp hành động. Bởi lẽ, sự
thống nhất về khí chất tinh cách, nhu cầu, động cơ,
định hướng giá trị, lợi ích,... sẽ dẫn tới sự thống nhất,
phối hợp hành động một cách chặt chẽ của các thành
viên. Trái lại, sự phối hợp hành động không có hiệu
quả khi giữa các thành viên không có sự hoà hợp về
các khía cạnh tâm lý trên.
Tương hợp tâm lý làm cho sự phối hợp hành
động trở nên chặt chẽ hơn, đồng bộ hơn, hiệu quả
hơn. Sự tương hợp này làm giảm bớt sự bất đồng,
tăng khả năng khắc phục trở ngại, khó khăn của các
thành viên trong quá trình tổ chức hoạt động của tập
thể.
Mặt khác, phối hợp hành động làm cho tương
hợp tâm lý của các thành viên trong ê-kíp lãnh đạo
ngày càng phát triển ở mức cao hơn. Sự phối hợp
hành động một cách chặt chẽ sẽ làm cho các thành
viên càng đồng cảm với nhau nhiều hơn, hiểu nhau
hơn và từ đó có sự cố kết hơn. Sự phối hợp hành động
cũng làm cho tương hợp tâm lý ngày càng phong phú
hơn.
Có thể nói tương hợp tâm lý là cái bên trong,
còn phối hợp hành động là cái bên ngoài các hình
thức của ê-kíp lãnh đạo; Đây là hai mặt thống nhất của
ê-kíp lãnh đạo, chúng không thể tách rời nhau, cái này
là điều kiện của cái kia và ngược lại. Đây là mối quan
hệ biện chứng, tương hỗ và phụ thuộc lẫn nhau. Hai
yếu tố này luôn luôn đan xen vào nhau.
4.4. MỘT SỐ MÔ HÌNH Ê-KÍP LÃNH ĐẠO HIỆN
NAY
4.4.1. Ê-kíp lãnh đạo chân chính
Ê-kíp này được hình thành và tồn tại trên cơ
sở của một động cơ chân chính, đúng đắn. Đó là đảm
bảo hài hoà về lợi ích của các thành viên ê-kíp, của cả
tập thể và của xã hội.
Sự tương hợp tâm lý và phối hợp hành động
giữa các thành viên của ê-kíp dựa trên cơ sở hợp tác,
giúp đỡ lẫn nhau. Hành động của mỗi thành viên và
của ê-kíp phù hợp với các chuẩn mực luật pháp và các
chuẩn mực đạo đức của xã hội.
Trong quá trình hoạt động của ê-kíp không
tồn tại các biểu hiện tiêu cực như bè phái, tham ô, lãng
phí tiền của tập thể và nhà nước. Sự phối hợp các hoạt
động của các thành viên trong ê-kíp đồng bộ, nhịp
nhàng. Mỗi người làm việc với tinh thần tự giác và có
trách nhiệm cao. Ê-kíp trở thành nhân tố quyết định
cho sự phát triển của tổ chức. Đây là mô hình ê-kíp
lãnh đạo cần được xây dựng trong các tổ chức hiện
nay.
4.4.2. Ê-kíp lãnh đạo tiêu cực
Ê kíp này thường được xây dựng trên những
động cơ tiêu cực. Đó là hướng đến việc thoả mãn và
đáp ứng lợi ích cá nhân của các thành viên ê-kíp, còn
lợi ích của tổ chức và xã hội không được quan tâm.
Thực chất đây là sự cấu kết của một số người lãnh
đạo tham ô tiền bạc của tổ chức, nhà nước để phục vụ
cho ý đồ của cá nhân mình. Ê-kíp này thường biểu
hiện dưới dạng "cánh hữu”, "bè phái",... Những người
lãnh đạo ở đây thường "dối trên, lừa dưới", “kết bè, kết
cánh”, “đầu cơ trục lợi”. Do vậy, tham nhũng là hành vi
tiêu biểu của loại ê-kíp này. Động cơ làm việc và hành
động của các thành viên trong ê-kíp lãnh đạo loại này
thường trái với những chuẩn mực xã hội. Các tổ chức
có tồn tại ê-kíp lãnh đạo loại này thường không phát
triển, người lao động luôn bất bình, mâu thuẫn với
người lãnh đạo. Những người lãnh đạo tổ chức
thường không tập hợp, thuyết phục được người thừa
hành.
4.4.3. Ê-kíp lãnh đạo theo quan hệ bạn bè
Ê kíp lãnh đạo này được xây dựng trên cơ sở
bạn bè. Đây là một mô trò lãnh đạo khá phổ biến. Giữa
các thành viên của ê-kíp có những quan hệ gắn bó, có
những hiểu biết và thông cảm với nhau. Do vậy, giữa
các thành viên trong ê-kíp có sự tương hợp tâm lý và
phối hợp hành động ở mức cao.
Ê-kíp loại này có thể là một ê-kíp lãnh đạo tích
cực, cũng có thể là ê-kíp lãnh đạo tiêu cực tuỳ thuộc
vào động cơ hoạt động của ê-kíp.
Trong những năm qua, việc phát triển của
công ty cổ phần, các công ty trách nhiệm hữu hạn đã
tạo điều kiện để hình thành mô hình ê-kíp lãnh đạo
kiểu này. Những người bạn thân đã cùng nhau xây
dựng doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đã hoạt
động rất hiệu quả, đảm bảo cho người lao động thu
nhập tốt, góp phần vào sự phát triển kinh tế của đất
nước. Đây là những ê-kíp lãnh đạo chân chính, có
động cơ đúng đắn. Trong khi đó, có những ê kíp lãnh
đạo doanh nghiệp lợi dụng các kẽ hở của pháp luật để
buôn lậu, trốn thuế, những người lãnh đạo tìm cách
thu vén cho lợi ích của cá nhân mình. Đây là những ê-
kíp lãnh đạo bạn bè theo kiểu tiêu cực.
4.4.4. Ê-kíp lãnh đạo theo quan hệ huyết
thống
Đặc trưng của ê-kíp lãnh đạo loại này là các
thành viên trong ê-kíp đều là những người cùng họ
hàng trong gia đình. Điển hình về loại ê-kíp này là chế
độ vua chúa của xã hội phong kiến trước đây. Ở các
nước, nhiều tập đoàn kinh tế lớn là một gia đình, một
dòng họ. Những người trong gia đình nắm giữ các vị trí
quản lý chủ chốt của tập đoàn, chi phối toàn bộ mọi
hoạt động của tập đoàn.
Chẳng hạn, ê-kíp lãnh đạo cửa công ty gia
đình lớn nhất nước Mỹ là công ty Cargill do 5 hệ thống
gia đình Cargill thay nhau nắm giữ trong 128 năm nay.
Công ty Roquette của Pháp là công ty đứng thứ hai ở
châu âu về kinh doanh tinh bột cũng là một công ty gia
đình được thành lập từ năm 1993 và do một ê-kíp lãnh
đạo của dòng họ Roquette điều khiển. Tập đoàn xe
hơi khổng lồ Fiat của Italia do dòng họ Agnelli lãnh
đạo. Các hãng kinh doanh lớn như hãng Wallenburg
của Thụy Điển và hãng điện tử Phillip của Hà Lan cũng
là mô hình ê-kíp lãnh đạo theo huyết thống.
Ở nước ta, trong mấy năm gần đây đã xuất
hiện một số doanh nghiệp tư nhân do các thành viên
trong gia đình quản lý.
Đối với mô hình ê-kíp lãnh đạo này, sự tương
hợp tâm lý và phối hợp hoạt động chi phối rất lớn tới
lợi ích gia đình và dòng họ. Bảo vệ lợi ích của gia đình
để phát triển là định hướng quan trọng của các thành
viên trong ê-kíp lãnh đạo. Việc giữ gìn, phát triển lợi ích
của gia đình, dòng họ, đồng thời cũng là đảm bảo lợi
ích của những thành viên trong ê-kíp. Tất nhiên, hoạt
động của công ty phải dựa trên các quy định của luật
pháp nhà nước.
CÂU HỎI ÔN TẬP
4.1. Trình bày khái niệm và bản chất khoa học
cửa ê-kíp lãnh đạo Lý giải tại sao trong một tổ chức lại
cần ê-kíp lãnh đạo?
4.2. Phân tích hai thành tố của ê-kíp lãnh đạo
và mối liên hệ biện chứng giữa chúng.
4.3. Phân tích những biến tướng theo chiều
hướng tiêu cực của ê-kíp lãnh đạo. Làm thế nào để
xây dựng được một ê-kíp lãnh đạo tích cực?
4.4. Liên hệ thực tiễn ở nước ta hiện nay trong
những lĩnh vực nào dễ xuất hiện ê-kíp lãnh đạo tiêu
cực nhất, tại sao? Chỉ ra những biểu hiện tiêu cực của
loại ê-kíp này.
Created by AM Word2CHM
GIÁO TRÌNH TÂM LÝ HỌC QUẢN LÝ à Phần 2. TÂM LÝ NGƯỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
5.1. PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO
5.1.1. Những khái niệm cơ bản
a) Phong cách
Theo cuốn Từ điển Tiếng Việt, NXB Giáo dục
(2000), khái niệm phong cách có bốn cách hiểu sau
đây:
- Là vẻ riêng trong lối sống, cách làm việc của
một người hay một kiểu loại người nào đó: chẳng hạn
như phong cách sống, phong cách lãnh đạo.
- Phiên dạng của ngôn ngữ có những đặc
điểm trong việc lựa chọn, kết hợp và tổ chức các
phương tiện ngôn ngữ liên quan đến nhiệm vụ giao
tiếp: phong cách ngôn ngữ khoa học.
- Toàn bộ các thủ pháp sử dụng ngôn ngữ
đặc trưng cho từng nhà văn, tác phẩm, thể loại.
- Việc lựa chọn các phương tiện ngôn ngữ
Chương 5. PHONG CÁCH VÀ UY TÍN CỦA
NGƯỜI LÃNH ĐẠO, QUẢN LÝ
theo nguyên tắc, sắc thái tu từ, biểu cảm: chẳng hạn
như phong cách trang trọng.
Trong bốn cách hiểu trên, cách hiểu đầu tiên
được sử dụng gần như phổ biến trong đời sống hàng
ngày và gần với nội dung của khái niệm phong cách
lãnh đạo hơn cả.
Cách hiểu này cũng gần trùng với cách giải
nghĩa của một số cuốn từ điển phổ thông, trong đó
khái niệm phong cách được định nghĩa như là tình
cảm, các hành vi ứng xử hàng ngày cũng như trong
việc tiến hành các hoạt động chuyên môn nghề
nghiệp.
b) Phong cách lãnh đạo
Trong các tài liệu về khoa học quản lý và về
tâm lý học quản lý, khái niệm phong cách lãnh đạo
thường được đề cập dưới những góc độ sau:
- Phong cách lãnh đạo gắn liền với kiểu
người lãnh đạo, với nghệ thuật lãnh đạo.
- Phong cách lãnh đạo là phương pháp lãnh
đạo, là cách thức làm việc của nhà lãnh đạo (V.I.
Mikheep, 1979; V.G. Aphanaxep, 1980; A.L. Dzuravlev,
1985,...).
- "Phong cách lãnh đạo là một hệ thống các
cách thức tác động đặc trưng của người lãnh đạo đối
với những người thừa hành",...
Trong các giáo trình tâm lý học quản lý xuất
bản gần đây, các tác giả thường chú ý đến hai khía
cạnh quan trọng trong phong cách lãnh đạo: Một mặt,
phong cách lãnh đạo phải dựa trên cơ sở tính khách
quan của công việc, hoạt động của nhà quản lý (tính
quy luật, tính nguyên tắc của hoạt động quản lý; các
đặc điểm, phạm vi hoạt động cụ thể, các yêu cầu đối
với người lãnh đạo,...); Mặt khác, nó thể hiện phong
cách cá nhân, nó là "trang phục của tư duy" của người
lãnh đạo, nghĩa là nó mang nặng dấu ấn, tính cách cá
nhân của người lãnh đạo và những đặc điểm của tập
thể mà họ đang quản lý.
Với ý nghĩa đó, có thể định nghĩa phong cách
lãnh đạo là kiểu hoạt động đặc thù của người lãnh
đạo, được hình thành trên cơ sở sự kết hợp chặt chẽ
giữa yếu tố tâm lý chủ quan của người lãnh đạo và yếu
tố môi trường xã hội trong hệ thống quản lý.
Trong hai yếu tố trên thì yếu tố tâm lý chủ
quan của người lãnh đạo – tức là những phẩm chất
tâm lý cá nhân (bao gồm cả tính cá nhân), là yếu tố
tương đối ổn định, có nghĩa là khó thay đổi hơn, còn
yếu tố môi trường xã hội là yếu tố luôn luôn biến động
và có tính chất tình huống.
c) Phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo,
quản lý
Phong cách lãnh đạo của người lãnh đạo,
quản lý là kiểu hoạt động lãnh đạo đặc thù, được hình
thành trên cơ sở sự kết hợp chặt chẽ giữa yếu tố tâm
lý chủ quan của người lãnh đạo, quản lý với yếu tố môi
trường xã hội
5.1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến phong
cách lãnh đạo của người cán bộ quản lý
Phong cách lãnh đạo của người quản lý ở
một cơ sở nào đó có thể chịu ảnh hưởng của nhiều
nhân tố khác nhau. Sau đây là một số nhân tố cơ bản:
- Xu hướng quản lý, lãnh đạo hiện hành của
nền hành chính quốc gia: Trên đất nước Việt Nam hiện
nay, xu hướng này đang ảnh hưởng đến nhu cầu tất
yếu khách quan của các nhà quản lý, định hướng vào
việc xây dựng phong cách lãnh đạo dân chủ, hiệu quả.
- Trình độ và tính chất đào tạo của người lãnh
đạo, quản lý: Người lãnh đạo, quản lý có trình độ
nghiệp vụ vững vàng, nhạy bén với cái mới, không sợ
chịu trách nhiệm thì sẽ không lạm dụng thời gian của
những người dưới quyền vào quá nhiều cuộc hội họp
không cần thiết, và sẽ không do dự trong việc giải
quyết các vấn đề nảy sinh.
- Các đặc điểm khí chất, cá tính của người
lãnh đạo, quản lý: Đây là những đặc điểm tương đối
ổn định, chúng phụ thuộc khá nhiều vào kiểu loại thần
kinh của mỗi người và có ảnh hưởng khá rõ nét đến
phong cách lãnh đạo của họ.
- Các đặc điểm tâm lý của những người cấp
dưới? Trong nhiều trường hợp, phong cách lãnh đạo
của người lãnh đạo, quản lý lại chịu ảnh hưởng bởi
trình độ phát triển, các đặc điểm tâm lý xã hội, cách
phản ứng của các cán bộ cấp dưới của mình, khiến
cho một lãnh đạo đã từng thành công với một phong
cách lãnh đạo nào đó khi được chuyển sang một tổ
chức khác nếu giữ nguyên phong cách cũ có thể sẽ
kém hiệu quả.
- Những điều kiện làm việc (tự nhiên và xã
hội, vật chất và tinh thần) của cơ sở giáo dục mà người
lãnh đạo, quản lý đang công tác: Những điều kiện này
có thể ảnh hưởng một cách tự nhiên đến phong cách
của người lãnh đạo, quản lý và đến cách phản ứng
hàng ngày của những người cấp dưới.
- Phong cách lãnh đạo của những người lãnh
đạo, quản lý khác (thường là cấp trên): ở đây thường
có sự ảnh hưởng của phong cách lãnh đạo từ cấp trên
đến cấp dưới theo các cơ chế bắt chước, cảm nhiễm
về tâm lý - xã hội, đặc biệt là đứng trước những người
lãnh đạo cấp trên có uy tín nghề nghiệp hoặc có địa vị
xã hội cao.
5.2. NHỮNG PHONG CÁCH LÃNH ĐẠO CHỦ
YẾU
5.2.1. Tiêu chí phân loại phong cách lãnh
đạo
- Một cách phân loại phong cách lãnh đạo đã
trở thành kinh điển trong tâm lý học quản lý là căn cứ
vào tính chất của mối quan hệ giữa người lãnh đạo với
những người cấp dưới. Dựa vào tiêu chí phân loại này,
có thể phân chia ra 3 loại phong cách lãnh đạo chủ
yếu sau:
+ Phong cách lãnh đạo dân chủ.
+ Phong cách lãnh đạo độc đoán.
+ Phong cách lãnh dạo tự do.
- Các tác giả theo quan điểm đồng nhất giữa
kiểu người lãnh đạo với kiểu loại phong cách lãnh đạo
cũng đi đến 3 loại phong cách lãnh đạo như trên khi
xuất phát từ 3 kiểu người có thể gặp trong thực tế: kiểu
người độc đoán, kiểu người dân chủ và kiểu người tự
do.
- Tác giả Dominique Chalvin (Pháp) căn cứ
vào hai tiêu chí cơ bản trong hoạt động quản lý, lãnh
đạo là sự cam kết và sự hợp tác đã phân chia ra 5 cặp
phong cách lãnh đạo đối xứng nhau (có hiệu quả và
không có hiệu quả) như sau:
+ Phong cách của người lãnh đạo có đầu óc
tổ chức/Phong cách của người lãnh đạo quan liêu.
+ Phong cách của người lãnh đạo cùng tham
gia với cấp dưới/Phong cách của người lãnh đạo gia
trưởng và mị dân.
+ Phong cách của người lãnh đạo mạnh
dạn/Phong cách của người lãnh đạo chuyên chế, sính
kỷ luật.
+ Phong cách của người lãnh đạo có xu
hướng cực đại chủ nghiã/Phong cách của người lãnh
đạo không tưởng, sính hiện đại.
+ Phong cách của người lãnh đạo có đầu óc
thực tế/Phong cách của người lãnh đạo cơ hội chủ
nghĩa.
- Các nhà nghiên cứu thuộc trường đại học
bang Ohio (Mỹ) căn cứ vào những mô tả của các nhân
viên về hành vi của các nhà lãnh đạo để nhận diện các
phong cách lãnh đạo. Họ cho rằng mặc dù hành vi của
các nhà lãnh đạo là khác nhau, song có thể tập hợp
chúng thành 2 nhóm tương đối độc lập với nhau là:
+ Phong cách lãnh đạo chú trọng tới con
người.
+ Phong cách lãnh đạo chú trọng đến công
việc.
- Các tác giả Hersey và Blanchard (Mỹ) căn cứ
vào sự tương quan giữa mức độ của các hành vi chỉ
đạo và hành vi hỗ trợ của người lãnh đạo với các mức
độ trưởng thành của cấp dưới để phân chia ra các loại
phong cách lãnh đạo sau:
+ Phong cách điều hành trực tiếp.
+ Phong cách kèm cặp.
+ Phong cách hỗ trợ.
+ Phong cách uỷ quyền.
5.2.2. Một số phong cách lãnh đạo cơ bản
Như trên đã trình bày, tuỳ thuộc vào từng tiêu
chí phân loại mà có thể phân ra các loại phong cách
lãnh đạo khác nhau. Trong phần này chỉ đi sâu vào
một số loại phong cách lãnh đạo mang tính khái quát
và phổ biến, được đề cập đến trong hầu hết các tài liệu
về tâm lý học quản lý và lãnh đạo.
a) Phong cách lãnh đạo dân chủ
Phong cách lãnh đạo này đang ngày càng
được các nhà lãnh đạo, quản lý ưu tiên vận dụng và
trở thành xu thế nổi bật không chỉ vì khía cạnh nhân
văn mà cả ở khía cạnh nâng cao năng suất lao động
của nó.
Phong cách lãnh đạo dân chủ thể hiện ở chỗ:
- Người lãnh đạo luôn luôn công khai bày tỏ ý
kiến, quan điểm của mình với một động cơ trong sáng,
vì lợi ích chung và biết thường xuyên trao đổi, bàn bạc
với tập thể, lắng nghe ý kiến của tập thể trước khi đi
đến những quyết định quan trọng.
- Biết phê bình và tự phê bình đúng đắn,
không né tránh trách nhiệm của mình và dám quyết
đoán khi cần thiết.
- Biết chia sẻ vui buồn, đồng cảm với mọi
người và biết đặt ra yêu cầu hợp lý cho cấp dưới.
- Thường là những người có khí chất sôi nổi,
linh hoạt trong tư duy và hành động, dễ thích ứng với
những tình huống đa dạng trong cuộc sống hàng
ngày.
Ưu điểm nổi bật của phong cách lãnh đạo
dân chủ là phát huy tối đa được các nguồn lực của tập
thể, bởi nó tạo cho những người dưới quyền tính độc
lập, chủ động, phù hợp với trình độ, năng lực của họ
nhằm giúp họ thực hiện được tốt các chức năng,
nhiệm vụ của mình và giúp họ góp phần tham gia hữu
hiệu vào việc đề xuất các quyết định, xây dựng các dự
án, các kế hoạch tương lai của đơn vị. Mặt khác, nó
đem lại một bầu không khí tâm lý thoải mái, dễ chịu,
có tình người, góp phần tạo ra sự gắn kết bền chặt
giữa các thành viên trong tập thể.
Tuy nhiên, trong điều kiện của những tập thể
có trình độ phát triển thấp, trong những tình huống trì
trệ, rã đám của những tập thể gây xung đột, mất đoàn
kết nội bộ,... thì phong cách lãnh đạo này khó đem lại
hiệu quả như mong muốn. Đó là nhược điểm cơ bản
có thể có của loại phong cách này mà các nhà tâm lý
học quản lý thường khuyến cáo. Ngay cả ở những tập
thể bình thường, chỉ cần thiếu một ít kỷ cương và
nguyên tắc thiếu một độ quyết đoán cần thiết, chúng ta
có thể chứng kiến hậu quả của loại phong cách lãnh
đạo rất nhân văn này ở những phản ứng cực đoan,
quá khích của một số phần tử chây lười nấp dưới
danh nghĩa dân chủ.
b) Phong cách lãnh đạo độc đoán
Phong cách này chịu ảnh hưởng của những
tàn dư tư tưởng bất bình đẳng trong các mối quan hệ
giữa "chủ - thợ", "chủ - tớ" của một thời lịch sử xa xưa.
Phong cách này thường biểu hiện ở một số
đặc điểm như sau:
- Người lãnh đạo đòi hỏi cấp dưới phải phục
tùng tuyệt đối mọi mệnh lệnh của mình, người lãnh
đạo giao việc cho cấp dưới chủ yếu bằng mệnh lệnh,
ép buộc phải làm bằng quyền uy, bằng sự đe doạ,
trừng phạt, thiếu tôn trọng nhân viên cấp dưới.
- Người lãnh đạo không tranh luận, không
bàn bạc với tập thể, tập trung tuyệt đối quyền hành vào
bản thân mình, tự suy nghĩ, tự tìm hiểu và tự quyết định
những vấn đề lớn của tập thể. Họ cũng có thể đồng
thời là những người quan liêu, rất kiên trì theo đuổi các
quyết định chủ quan của mình, ít thay đổi theo ý kiến
của người khác.
- Người lãnh đạo đòi hỏi người dưới quyền
làm việc quá sức, không quan tâm đầy đủ đến đời
sống vật chất và tinh thần, tâm tư và nguyện vọng của
những người khác.
- Người lãnh đạo không chịu nghe ý kiến phê
bình góp ý của những người cấp dưới, rất hay tự ái và
nhạy cảm với thể diện của bản thân, rất dễ có những
phản ứng gay gắt trước những lời chỉ trích, phản bác
của những người khác, hễ ai nói trái ý mình thì nhân
danh tập thể tìm cách trừng trị, trù dập.
- Thái độ ứng xử của người lãnh đạo đối với
cấp dưới thường trịch thượng, hách dịch, kiêu căng, xa
cách, lạnh lùng, khen chê thiếu khách quan.
- Có nhiều người lãnh đạo độc đoán thuộc
loại có khả năng, tự tin, kiên định, có ý chí và nghị lực,
song thường pha lẫn cả tính tự cao, tự đại.
Về ảnh hưởng của kiểu thần kinh, khí chất đối
với phong cách lãnh đạo này có nhiều tác giả cho
rằng, người lãnh đạo độc đoán thường có khí chất
nóng nảy hoặc thiên về nóng nảy, do đó trong nhiều
tình huống họ không có khả năng tự chủ, không kiềm
chế được bản thân, dễ dẫn đến nổi cáu. Tuy nhiên,
điều đó không có nghĩa là những người có kiểu khí
chất khác không có nguy cơ rơi vào phong cách lãnh
đạo độc đoán: Thực tế cho thấy có những người vốn
khí chất bình thản, nhưng do háo danh, ích kỷ, muốn
coi mình là trên hết, hoặc do muốn che giấu những
năng lực kém cỏi, phẩm chất non yếu của mình mà có
thể trở nên độc đoán. Mặt khác, bản thân người có tính
khí nóng nảy, nếu biết kiên trì rèn luyện thì cũng có thể
ngăn ngừa, kiềm chế được những phản ứng thô bạo,
nóng nảy trong cả những tình huống căng thẳng nhất.
Bởi vì tính khí chỉ quy định nhịp độ, tốc độ và cường độ
các phản ứng của chủ thể chứ không quy định nên
phong cách lãnh đạo. Chính xu hướng và tính cách
mới quyết định ai sẽ định hướng vào kiểu phong cách
lãnh đạo nào.
Nhược điểm của loại phong cách lãnh đạo
này là không phát huy được ó
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_tam_ly_hoc_quan_ly.pdf