Trong các tập Bản thảo toán học, Mác đã nghiên cứu riêng
toán học và để lại nhiều tư tưởng quý giá về các vấn đề mà
chúng ta quan tâm. Trong đó, những tư tưởng của Mác về
cái gọi là "cuộc cách mạng trong phương pháp" có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng về mặt phương pháp luận. Trong khi
phân tích những quan niệm khác nhau về cơ sở của phéptính vi phân, Mác đã khẳng định rằng, việc sử dụng các ký
hiệu trở thành bí ẩn và khó hiểu nếu ngay từ đầu chúng
được coi là cái đã cho, đã có sẵn. Điều khẳng định của Mác
đã xảy ra đối với các nhà sáng lập phép tính vi phân -
Niutơn và Lépnít cùng những người kế tục gần gũi các ông.
Trong khi tìm các đạo hàm và vi phân của hàm số, ngay từ
đầu, họ đã coi số gia của đối số như là các vi phân. Khi lấy
vi phân một hàm số xác định y = f(x) , một bộ phận nào đó
được bỏ đi coi như vô cùng nhỏ, nhưng nếu số hạng bỏ đi
khác 0 thì việc bỏ nó là một phép toán không hợp pháp; nếu
có (dx) = 0 thì khi đó, cả (dy) cũng bằng 0 và đẳng thức của
chúng ta biến thành đồng nhất thức 0 = 0. Như vậy, số hạng
bỏ đi đồng thời phải là 0 và không là 0. Lẽ đương nhiên là
ở đây, không có phép biện chứng nào cả. Trái lại, chính
điều này đã đi đến chỗ gán cho các vi phân những tính chất
bí ẩn đặc biệt nào đó, khác với các tính chất của các đại
lượng thông thường. Vin vào đó, nhà triết học duy tâm
Béccơly đã lấy cớ để gọi chúng một cách châm biếm và hài
hước là "bóng ma của những đại lượng chết"
24 trang |
Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 477 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Vai trò của các ký hiệu toán học trong nhận thức khoa học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Vai trò của các ký hiệu toán
học trong nhận thức khoa học
Vai trò của các ký hiệu toán học trong
nhận thức khoa học
Trên cơ sở nghiên cứu lịch sử phát triển của toán học,
chúng ta nhận thấy rằng, kết cấu logic và sự phát triển của
các lý thuyết toán học ngày càng phụ thuộc vào việc sử
dụng các ký hiệu toán học và sự cải tiến các ký hiệu đó.
Ngày nay, chúng ta đã có đầy đủ căn cứ để khẳng định
rằng, các ký hiệu toán học không những chỉ là phương tiện
thuận lợi cho việc nghiên cứu khoa học nói chung và toán
học nói riêng, mà chúng còn có một giá trị nhận thức luận
to lớn. Sở dĩ các ký hiệu toán học có vai trò quan trọng như
vậy là do nội dung khách quan của chúng quy định.
Như chúng ta đã biết rằng, trong lịch sử toán học, vào đầu
thế kỷ thứ V, khi người ấn Độ đưa ký hiệu vào để chỉ số 0
thì họ đã có thể xoá bỏ được hệ thống tính từng cấp và phát
triển hệ thống tính thập phân mà tính ưu việt của nó trong
tính toán đã được hàng trăm triệu người trên hành tinh
chúng ta sử dụng hàng ngày. Đồng thời, khi nhà khoa học
nổi tiếng người Đức là Lépnít đưa ra ký hiệu vi phân và
tích phân thì toán học đã thực sự đổi mới. Thật vậy, nếu
như trước đây lời giải của nhiều bài toán về tính diện tích,
thể tích, cơ học, thiên văn học đòi hỏi những nỗ lực to
lớn mà chỉ những nhà toán học lỗi lạc mới có thể giải được,
thì khi các ký hiệu của Lépnít xuất hiện, nhìn chung chúng
đã được giải quyết, mặc dù đó là sự giải quyết một cách
máy móc. Như vậy, với những ký hiệu toán học, chúng ta
có thể giải quyết được những nhiệm vụ gắn liền với thực
tiễn. Do ký hiệu toán học có nội dung khách quan đích
thực. Ở đây, vấn đề là ở chỗ, nội dung ấy được thể hiện như
thế nào trong quá trình nghiên cứu khoa học của chúng ta.
Chúng ta đều biết rằng, nhiều nhà triết học duy tâm thường
khẳng định tư duy của con người không có khả năng đưa ra
các chân lý khách quan. Song, trên thực tế họ lại luôn minh
chứng cho nhận thức luận duy tâm của mình bằng cách sử
dụng hệ thống ký hiệu và công thức toán học do các nhà
toán học đưa ra. Giải thích việc sử dụng hệ thống này, các
nhà triết học duy tâm cho rằng, đối tượng của toán học
mang tính trừu tượng cao, trong khi quy luật phát triển của
toán học lại rất phức tạp, ngôn ngữ ký hiệu thì ngày càng
được sử dụng nhiều trong toán học, nên các chân lý toán
học không có tính khách quan. Từ đó, họ coi toán học chỉ
là một hệ thống ký hiệu đã được lựa chọn từ trước một cách
thích hợp và căn cứ vào đó để minh chứng cho học thuyết
của mình. Bác bỏ quan niệm đó, các nhà triết học duy vật
đã dựa vào toàn bộ quá trình phát triển của tri thức khoa
học để chỉ ra sai lầm của chủ nghĩa duy tâm về đối tượng
của toán học và phân tích một cách đúng đắn nội dung, ý
nghĩa của các ký hiệu toán học.
Theo quan điểm duy vật biện chứng, các ký hiệu toán học,
trước hết được sử dụng để ghi lại các khái niệm và các
mệnh đề toán học. Chẳng hạn, trong số học các số tự nhiên,
các ký hiệu 1, 2, 3 biểu thị đặc điểm về lượng của nhóm
đối tượng chứa một, hai, ba đối tượng. Các ký hiệu >, = ,
< biểu diễn những sự tương quan, chẳng hạn 1<2 (1 bé hơn
2). Đồng thời, người ta còn sử dụng đấu hiệu các phép tính
số học như: +, - , x, : để biểu thị những mối liên hệ có thể
có giữa các số tự nhiên. Tất cả các ký hiệu nói trên cho
phép ta diễn đạt một cách hoàn toàn chính xác nhiều mệnh
đề của số học các số tự nhiên. Ví dụ, ký hiệu (3 x 5) -7 = 4
x 2 biểu diễn một mệnh đề số học.
Trong đại số học, người ta thường dùng các ký hiệu là các
chữ như a, b, c,..., x, y, z... để biểu đạt các thông số và
những đại lượng biến thiên. Chẳng hạn, trong phương trình
, mỗi hệ số a, b, c có thể nhận bất kỳ giá trị
thực nào, còn ẩn số x cần tìm là thuộc tập hợp các số phức.
Việc sử dụng các ký hiệu về đại lượng biến thiên cho phép
ta diễn đạt ở dạng tổng quát các quy luật của đại số và cả
các quy luật của các lý thuyết toán học khác. Ví dụ:
a + b + c = (a + b) + c = a + (b + c)
(a + b).c = a.c + b.c
an - bn - (a - b). (an-1 + an-2 b + ... + abn-2 + bn-1)
Trong thực tế, nếu chúng ta khảo sát những sự thể hiện
khác nhau của cùng một tiêu đề xuất phát thì không những
chỉ các khái niệm về đối tượng của lý thuyết thay đổi, mà
cả các khái niệm về sự tương quan và liên hệ giữa chúng
cũng thay đổi. Chẳng hạn, trong hệ tiên đề pêanô, các ký
hiệu >, =, <, +, -, x, : sẽ có ý nghĩa khác nhau tuỳ theo ký
hiệu 1 , 2 , 3 ... biểu thị các số tự nhiên về lượng hay về thứ
tự. Ví dụ, ký hiệu 3 < 4 nếu biểu thị về lượng thì có nghĩa
là 3 bé hơn 4, song nếu biểu thị về thứ tự thì có nghĩa là 3
đứng trước 4.
Như vậy, có thể nói, các ký hiệu toán học cho phép ta ghi
lại một cách cô đọng và dưới dạng dễ nhận thức những
mệnh đề rất rườm rà trong ngôn ngữ thông thường. Nhờ đó,
ta có thể dễ nhớ và có khả năng nắm được nội dung của
chúng. Đồng thời, các ký hiệu này còn được sử dụng một
cách có hiệu quả trong toán học để ghi lại các khái niệm và
các mệnh đề, mỗi khi chúng phản ánh được những tương
quan về lượng và những hình dạng không gian nhất định
của thế giới hiện thực. Chính vì vậy, trước khi sử dụng
những ký hiệu vào những lập luận của mình, nhà toán họe
cần chỉ rõ mỗi ký hiệu như thế biểu thị cái gì, nếu không sẽ
dẫn đến những hiểu biết sai lệch điều mà các ký hiệu muốn
nói và như vậy, mọi lập luận trong toán học sẽ không thể
tiếp tục tiến hành. Chỉ khi ý nghĩa của các ký hiệu đã được
thiết là một cách chính xác, chúng ta mới có khả năng hiểu
được điều mà các quan hệ muốn diễn đạt.
Trong toán học, vai trò của các ký hiệu rất giống với vai trò
của tiếng nói thông thường trong xã hội. Điều này được thể
hiện ở chỗ, tiếng nói của các ký hiệu toán học cho phép các
nhà toán học trao đổi với nhau và trao đổi với những người
khác về chân lý toán học, về việc tổ chức nghiên cứu khoa
học. Nhà toán học nổi tiếng người Nga - Lôbasépxki đã
nhận định rằng, cũng như tiếng nói thông thường có khả
năng làm cho sự hiểu biết của chúng ta thêm phong phú
nhờ lĩnh hội được ý kiến của những người khác, tiếng nói
của các ký hiệu toán học là một phương tiện hoàn hảo hơn,
chính xác và sáng sủa hơn để người này truyền cho người
kia những khái niệm mà họ lĩnh hội được, những chân lý
mà họ tìm thấy. Nhưng ở đây, cần phải thấy một điều đặc
biệt quan trọng là, tiếng nói của các ký hiệu toán học không
thể tồn tại được nếu không có tiếng nói thông thường.
Tiếng nói thông thường có nội dung phong phú hơn tiếng
nói của các ký hiệu toán học. Tất cả những mệnh đề toán
học được diễn tả bằng tiếng nói của ký hiệu đều có thể diễn
tả bằng tiếng nói thông thường. Nhưng điều ngược lại thì
không đúng, mọi mệnh đề được diễn tả bằng tiếng nói
thông thường không phải lúc nào cũng có thể diễn tả bằng
tiếng nói của các ký hiệu toán học. Tiếng nói của các ký
hiệu toán học chỉ là một công cụ bổ sung cho tiếng nói
thông thường, nó được sử dụng trong toán học và một phần
trong các ngành khoa học khác mà ở đó, có ứng dụng toán
học. Việc ký hiệu hoá toán học không đơn thuần là một vấn
đề hình thức, một cách viết tắt thuận lợi, mặc dù không bao
giờ được xem thường khía cạnh đó. Ngôn ngữ toán học cho
phép ta nói ngắn gọn nhiều điều mà nếu diễn tả bằng ngôn
ngữ thông thường sẽ rất dài đòng, phức tạp. Ở đây, chúng
ta có thể nhận thấy tính ưu việt của việc sử dụng các ký
hiệu toán học, nếu so sánh công thức của bất đẳng thức
Bunhiacốpxki:
Với cách diễn đạt nội dung của nó bằng lời. Rõ ràng, việc
phát biểu công thức này bằng lời sẽ dài dòng hơn rất nhiều,
và nếu so sánh cách chứng minh bất đẳng thức trên bằng ký
hiệu với cách chứng minh bằng lời thì chúng ta càng nhận
thấy sự thuận tiện của việc sử dụng các ký hiệu toán học.
Tuy nhiên, không phải lúc nào các ký hiệu toán học cũng
có thể biểu diễn một cách ngắn gọn nội dung toán học và
các khoa học khác. Các ký hiệu toán học sẽ không thực
hiện được nhiệm vụ chủ yếu này của chúng, nếu chúng chỉ
là những biểu hiện ngắn gọn của những dạng ngôn ngữ đài
dòng hơn. Chẳng hạn, việc xây dựng cơ học cổ điển đã diễn
ra với việc sử dụng các véctơ để diễn tả chuyển động. Theo
đánh giá của Anhxtanh, ở đây toàn bộ công việc đã làm chỉ
là chuyển những sự kiện đã được thừa nhận từ trước thành
một ngôn ngữ phức tạp và kỳ lạ. Nhưng, theo ông, chính
cái ngôn ngữ kỳ lạ là véctơ ấy đã dẫn đến những điều khái
quát quan trọng mà trong đó, véctơ giữ vai trò nòng cốt.
Vấn đề đáng lưu tâm là ở chỗ, các ký hiệu toán học chỉ có
tính ưu việt khi chúng đảm bảo vai trò hàng đầu của mình
trong nhận thức khoa học. Điều đó được thể hiện ở việc
tham gia giải quyết các nhiệm vụ của chúng. Chẳng hạn,
trong đại số học, với các biểu thức bằng chữ, chúng ta dễ
dàng thực hiện được các phép tính và biến đổi từ dạng này
sang trạng khác. Việc giải một bài toán đại số dẫn tới một
hệ hai hoặc ba phương trình tuyến tính mà nếu diễn đạt
bằng lời, sẽ không thực hiện được trong khi đó, với các ký
hiệu đại số, lời giải của nó được tìm thấy rất nhanh.
Sự tồn tại trong toán học các phép tính, các thuật toán khác
nhau cho phép chúng ta giải theo một quy tắc nhất định
hàng loạt bài toán mà khoa học tự nhiên và kỹ thuật thường
xuyên đặt ra, đó chính là nét đặt trưng của toán học. Để cho
các phép toán dẫn đến lời giải của những bài toán xác định,
chúng ta cần phải xây dựng những chỉ dẫn chính xác để
trên cơ sở đó, từ những cái đã cho lúc đầu mà thu được kết
quả cần tìm.
Trong các tập Bản thảo toán học, Mác đã nghiên cứu riêng
toán học và để lại nhiều tư tưởng quý giá về các vấn đề mà
chúng ta quan tâm. Trong đó, những tư tưởng của Mác về
cái gọi là "cuộc cách mạng trong phương pháp" có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng về mặt phương pháp luận. Trong khi
phân tích những quan niệm khác nhau về cơ sở của phép
tính vi phân, Mác đã khẳng định rằng, việc sử dụng các ký
hiệu trở thành bí ẩn và khó hiểu nếu ngay từ đầu chúng
được coi là cái đã cho, đã có sẵn. Điều khẳng định của Mác
đã xảy ra đối với các nhà sáng lập phép tính vi phân -
Niutơn và Lépnít cùng những người kế tục gần gũi các ông.
Trong khi tìm các đạo hàm và vi phân của hàm số, ngay từ
đầu, họ đã coi số gia của đối số như là các vi phân. Khi lấy
vi phân một hàm số xác định y = f(x) , một bộ phận nào đó
được bỏ đi coi như vô cùng nhỏ, nhưng nếu số hạng bỏ đi
khác 0 thì việc bỏ nó là một phép toán không hợp pháp; nếu
có (dx) = 0 thì khi đó, cả (dy) cũng bằng 0 và đẳng thức của
chúng ta biến thành đồng nhất thức 0 = 0. Như vậy, số hạng
bỏ đi đồng thời phải là 0 và không là 0. Lẽ đương nhiên là
ở đây, không có phép biện chứng nào cả. Trái lại, chính
điều này đã đi đến chỗ gán cho các vi phân những tính chất
bí ẩn đặc biệt nào đó, khác với các tính chất của các đại
lượng thông thường. Vin vào đó, nhà triết học duy tâm
Béccơly đã lấy cớ để gọi chúng một cách châm biếm và hài
hước là "bóng ma của những đại lượng chết".
Để vứt bỏ tấm màn bí ẩn ở các khái niệm và ký hiệu của
phép tính vi phân, theo Mác, cần phải làm cho ký hiệu đặc
trưng đối với phép tính .vi phân không xuất hiện như là
điểm xuất phát, mà như là kết quả của quá trình hoạt động
thực tế không chứa một chút gì là ký hiệu. Mác cho rằng,
điểm xuất phát phải nằm trong giới hạn của đại số thông
thường mà chưa yêu cầu những thuật toán đặc biệt của
phép tính vi phân và các ký hiệu của nó. Ở đây, điều mà
chúng ta cần lưu ý là ở chỗ, Mác đã chỉ rõ những việc cần
phải làm để tìm ra đạo hàm của một hàm số xác định (y = f
(xi) Trước hết, Mác lập các số gia hữu hạn Δx và Δy. Trong
khi một số nhà triết học duy tâm, chẳng hạn như
Alembécxơ, coi các số gia đó như những cái đã tồn tại từ
trước, bất luận sự biến đổi nào của các biến số, thì Mác, trái
lại, coi chúng như là kết quả biến đổi của các biến số.
Mác coi việc khử các số gia là công đoạn diễn ra do kết quả
biến đổi ngược của các biến số x và y, còn việc lấy vi phân
một hàm số là một phép toán bao gồm cả công đoạn tính và
khử các số gia hữu hạn. Mác viết: "Lúc đầu là việc tính các
số gia và sau đó là việc khử chúng, như vậy sẽ dẫn đến
không có gì hết. Tất cả những khó khăn trong việc hiểu
phép vi phân (cũng như trong việc hiểu phủ định của phủ
định nói chung) chính là ở chỗ, làm sao thấy được ở điểm
nào, nó khác với thủ tục đơn giản như thế và vì vậy, nó dẫn
đến kết quả thực tế nào".
Như vậy, hệ số vi phân bằng ký hiệu xuất hiện không phải
như điểm xuất phát, mà như sự phản ánh của việc tìm ra
đạo hàm trong một quá trình đại số đích thực nào đó, không
chứa một ký hiệu đặc trưng cho phép tính vi phân nào. Mác
viết: "Sự bất hạnh tiên thiên hay các ký hiệu không còn
mang tính chất khủng khiếp vì giờ đây, nó chỉ xuất hiện
như là biểu hiện của một quá trình mà nội dung thực tế đã
được hiểu rõ".
Nghiên cứu lịch sử hình thành và phát triển của phép tính
vi phân, Mác đã áp đụng quan điểm toàn diện trong việc
phân tích và lặp lại phép biện chứng của các đại lượng biến
đổi và qua đó, đã chứng minh tính hiệu quả của phép biện
chứng duy vật trong sự phát triển của nhận thức toán học.
ông viết: "Hệ số vi phân bằng ký hiệu như thế trở thành
điểm xuất phát độc lập mà ta chỉ cần tìm cái tương đương
thực tế của nó. Như vậy, sự mở đầu được chuyển từ một
cực là đại số sang cực kia là ký hiệu và do đó, phép tính vi
phân cũng xuất hiện như một phép tính đặc thù nào đó, như
một thao tác độc lập trên một mảnh đất riêng".
Trong quan điểm của Mác, một vấn đề nổi lên là phương
pháp đã có sự đổi hướng, bản thân phương pháp đại số đã
biến thành phương pháp vi phân đối lập với nó. Nếu như
trước đây, chúng ta đi từ quá trình toán học thực tế về việc
tính đạo hàm đến biểu thức bằng ký hiệu của nó (tức là từ
đối tượng đến cái bóng của nó) thì giờ đây, xuất phát từ ký
hiệu đã cho, chúng ta tìm hệ thức thực tế phù hợp với nó
(tức là chúng ta đi từ cái bóng đến đối tượng như Mác nói).
Và, theo Mác, bước ngoặt đó trong phương pháp là không
thể tránh khỏi, là tiến bộ. Trong lịch sử toán học, đã có
nhiều nhà khoa học, chẳng hạn, Lagơrăng, trong khi cố
gắng phát triển phép tính vi phân từ các hệ thức đại số
thông thường đã không tới được phép tính vi phân, bởi họ
đã không đổi ngược quan hệ giữa đại số và phép tính vi
phân.
Tư tưởng của Mác về cuộc cách mạng trong phương pháp
có một ý nghĩa phương pháp luận to lớn đó là chỉ ra biện
pháp loại bỏ sự thần bí gắn với các ký hiệu. Điều đó có ý
nghĩa quyết định trong giai đoạn nhận thức hiện nay và cho
phép chúng ta hiểu rõ cội nguồn của tất cả những bế tắc mà
thực chứng luận hiện đại và quan niệm đề cao ngôn ngữ
toán học một cách thái quá đã mắc phải. Đồng thời, những
tư tưởng đó còn chỉ rõ tính tất yếu và tính chất tiến bộ của
một thực tế là, khi nhà nghiên cứu sử đụng toán học, điểm
xuất phát không phải là đi từ các dữ kiện thực tế đến ký
hiệu của chúng, mà đi từ các hình thức ký hiệu đến cái
tương đương thực tế của chúng.
Với những thành tựu của cuộc cách mạng trong phương
pháp, vai trò của các ký hiệu đã thay đổi một cách cơ bản:
Từ biện pháp ghi lại các hiện tượng đã biết, ký hiệu biến
thành biện pháp để tìm ra cái chưa tìm được. Đồng thời,
chính nhờ điều đó mà tính chất "tác chiến" của ký hiệu toán
học đã tìm thấy vai trò to lớn của nó. Vì vậy, có thể nói,
quan điểm coi vi phân như một ký hiệu "tác chiến" của
Mác có ý nghĩa rất quan trọng trong nhận thức toán học. Từ
đó, chúng ta có thể đưa ra một ký hiệu "tác chiến" mới là
dy = f '(x)dx để diễn đạt hình thức ký hiệu chung của phép
lấy vi phân.
Như vậy, từ lập trường của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
chúng ta nhận thấy rằng, trong toán học, người ta có khả
năng sử dụng tiếng nói của ký hiệu chính là do đặc điểm về
đối tượng nghiên cứu của nó. Cụ thể là, toán học nghiên
cứu những hình dạng và quan hệ của các đối tượng trong
thế giới hiện thực mà trong những giới hạn đã biết, chúng
không phụ thuộc vào nội dung thực tế của đối tượng. Ngày
nay, trong toán học, nhất thiết chúng ta phải dùng đến tiếng
nói của các ký hiệu, bởi nhờ đó, ta có thể ghi lại một cách
ngắn gọn và rõ ràng các khái niệm và mệnh đề của các lý
thuyết toán họe. Đồng thời, việc sử dụng các ký hiệu còn
cho phép phát triển được cả những phép tính và những
thuật toán, tức là những cái cất lõi để xây dựng nên các
phương pháp và các mệnh đề toán học. Như vậy, về thực
chất, việc sử dụng các ký hiệu toán học là một thí nghiệm
đã được lý tưởng hoá, chúng mô tả dưới dạng thuần tuý
những điều đã được thực hiện hay có thể thực hiện được
một cách gần đúng hoặc chính xác trong thực tế. Chính vì
vậy mà việc sử dụng các ký hiệu toán học có khả năng phát
hiện ra các chân lý toán học mới. Tuy nhiên, chúng ta cần
lưu ý rằng, tất cả những điều nói trên chỉ có thể thực hiện
được trong trường hợp hệ thống ký hiệu toán học đó thể
hiện đúng đắn các tính chất và tương quan cơ bản, xác định
của thế giới hiện thực. Toán học nghiên cứu các quan hệ về
lượng và hình dạng không gian của các đối tượng trong thế
giới đang tồn tại, có nghĩa là nó nghiên cứu những cái
không phụ thuộc vào nội dung vật chất của chúng.
Trên cơ sở đó, các đối tượng mà chúng ta đang nghiên cứu
trong toán học, như số học, đại số, hình học và các liên
hệ như cộng, trừ, nhân, chia có thể thay thế được bằng
những ký hiệu mà ý nghĩa của chúng không hề bị xuyên tạc
và thu hẹp lại. Điều này đã được nhiều nhà toán học khẳng
định, trong số đó có cả những nhà toán học duy tâm. Chẳng
hạn, Lépnít đã nhận xét rằng, cần phải quan tâm đến vấn đề
làm cho những ký hiệu trở nên thuận tiện hơn cho việc phát
minh. Điều này thường xảy ra khi các ký hiệu diễn tả một
cách ngắn gọn và phản ánh một cách sâu sắc nhất thực chất
của sự vật, khi đó việc làm của tư duy sẽ giảm đến mức kỳ
diệu.
Để phát triển khoa học, thế hệ sau phải "đứng lên vai" thế
hệ trước, chiếm lấy toàn bộ kiến thức mà các thế hệ trước
đã tích luỹ. Song, sự phát triển ngày càng nhanh của khoa
học lại làm cho quá trình tiếp nhận kiến thức trở nên phức
tạp hơn. Trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại, lượng thông tin
khoa học từng ngày, từng giờ rất lớn, vì vậy không chỉ mỗi
nhà bác học không thể sử dụng nổi, mà cả tập thể nghiên
cứu cũng không thể sử dụng nổi lượng thông tin ấy. Điều
đó đã dẫn tới một thực tế là, việc phát hiện ra một sự kiện
mới hoặc lập ra một lý thuyết mới còn dễ hơn là biết được
rằng, chúng đã được phát hiện hay đã được xây dựng chưa.
Do sự phát triển như vũ bão của khoa học, phần kiến thức
mà một người có thể nắm được cũng không ngừng giảm đi,
điều đó dẫn tới việc chuyên môn hoá một cách chi tiết hơn
và chính những hậu quả không hay cũng được sinh ra từ
đó. Đồng thời, cũng chính điều này đã dẫn tới sự trùng lặp
của các công trình khoa học một cách ngẫu nhiên. Hiện
nay, người ta đã tính được trên thế giới có rất nhiều công
trình nghiên cứu khoa học lẽ ra không được phép tiến hành,
nếu như có sự thông tin về các công trình tương tự đã được
hoàn thành. Những sự trùng lặp như vậy, theo ước tính, đã
gây thiệt hại hàng tỷ đồng. Do tình trạng đó, nên ngày nay,
người ta đã thành lập những hệ thống tìm kiếm thông tin
đặc biệt để giảm bớt những "cuộc hành trình trong cái biển
thông tin rộng lớn. Khối lượng lớn kiến thức được lưu trữ
một cách thuận lợi không phải ở trên các giá sách của thư
viện, mà là ở trong bộ nhớ của các máy tính điện tử. Những
máy tính này có khả năng cung cấp nhanh chóng cho người
sử dụng bất cứ đòi hỏi nào về những nhu cầu giữ trong bộ
nhớ. Những cái mà con người với tư cách một sinh vật sinh
lý không làm được thì nó có thể làm được và làm có kết
quả như một sinh vật xã hội, trong đó các máy tính điện tử
là sự giúp đỡ vô cùng quý giá.
Vấn đề là ở chỗ, tập hợp các kiến thức có thể biểu diễn
dưới dạng một không gian n chiều, khi đó một thông tin bất
kỳ được tìm ra nhờ sự dời chỗ trong không gian này theo
một phương đã cho nào đó. Những phương khác nhau được
ký hiệu bằng những "số hiệu khái niệm" và tài liệu được
biểu thị bởi một véctơ trong không gian các khái niệm này.
Mỗi khái niệm được gán cho một chỉ số về "trọng lượng",
nó biểu diễn tần số sử đụng chúng trong một bài. Sau khi
biểu thị tài liệu dưới dạng véctơ khái niệm, người ta so
sánh một véctơ biểu thị nhu cầu với các véctơ biểu thị tài
liệu để tìm ra câu trả lời.
Máy tính không hề biết "ngoại ngữ" và cũng không biết
một thứ ngôn ngữ tự nhiên nào, chính vì vậy mà chúng ta
cần phải nói với máy thứ ngôn ngữ mà nó hiểu, những nhu
cầu thông tin và những điều đã được công bố được dịch ra
thứ tiếng đó. Do vậy, chúng ta phải lập nên một ngôn ngữ
hình thức hoá đặc biệt để sử dụng cho việc giải quyết một
lớp bài toán hoàn toàn xác định. Một ngôn ngữ hình thức
hoá được phân biệt bởi các giá trị cố định trong các ký hiệu
của nó và bởi một hệ thống quy tắc được xác định chính
xác và đơn trị, các quy tắc này xác định luật sử dụng các ký
hiệu. Như vậy, chúng ta có một ngôn ngữ thông tin tìm
kiếm dưới dạng trừu tượng, gồm có bảng kê những ký hiệu
cơ sở, các quy tắc cấu tạo (quy định kết hợp các ký hiệu
như thế nào). Các quy tắc biến đổi (quy định các biểu thức
như thế nào để được một kết luận logic) và các quy tắc giải
đoán (quy định gán những nghĩa nào cho các biểu thức hình
thành theo quy tắc cấu tạo).
Ở đây, một vấn đề có ý nghĩa lớn là, những ký hiệu được
đưa vào ngôn ngữ toán học nhân tạo thường có tính chất
quốc tế và giúp cho việc khắc phục trở ngại về ngôn ngữ,
bởi những tài liệu được công bố bằng tiếng nước ngoài
thường khó hiểu đó bất đồng ngôn ngữ. Song, như chúng ta
đã biết, nhờ có ngôn ngữ của các ký hiệu mà từ lâu, việc
không phiên dịch các thông báo khoa học do các nhà khoa
học của nhiều nước trình bày trong các cuộc hội thảo khoa
học đã trở thành truyền thống của các hội nghị toán học
quốc tế. Như vậy, chính ngôn ngữ của các ký hiệu, công
thức và phương trình đã liên kết các nhà khoa học toàn thế
giới.
Nếu xét trên bình diện nghiên cứu khoa học, những đặc
điểm của ngôn ngữ tự nhiên đôi khi đã tạo nên những yếu
tố chủ quan trong quá trình nhận thức. Việc ứng dụng toán
họe vào các khoa học khác đã nâng cao giá trị khách quan
của các nguyên lý khoa học, vì khi đó, người ta có thể loại
trừ được những mối liên hệ đa dạng với chủ thể, cái mà
luôn tồn tại trong ngôn ngữ tự nhiên. Có thể nói rằng, ngôn
ngữ toán học là sự cải tiến ngôn ngữ chung, là sự trang bị
cho ngôn ngữ chung những công cụ thuận tiện để phản ánh
những mối liên hệ phụ thuộc mà nếu diễn đạt bằng ngôn
ngữ thông thường, sẽ không chính xác hoặc phức tạp.
Ngôn ngữ tự nhiên nảy sinh trên cơ sở vận dụng những đối
tượng mà chúng ta bắt gặp trong kinh nghiệm hàng ngày
còn khoa học hiện đại lại sử dụng những khái niệm liên
quan một cách gián tiếp với những cái thấy được hàng
ngày. Bức tranh vật lý của thế giới khác xa với kinh
nghiệm thông thường. Đó chính là nguyên nhân chủ yếu
của việc cần đến ngôn ngữ toán học trừu tượng, thứ ngôn
ngữ tỏ ra là một công cụ không thể thay thế được khi đi vào
lĩnh vực các hiện tượng vật lý nằm rất xa ngoài các giới hạn
của kinh nghiệm hàng ngày.
Cải tiến ngôn ngữ khoa học là một vấn đề có ý nghĩa đặc
biệt và cấp bách đối với nhận thức khoa học, nhất là đối với
các khoa học xã hội và các ngành mô tả của tự nhiên học.
Chẳng hạn, trong các khoa học xã hội, nếu chỉ mô tả bằng
lời những hệ thống phức tạp, đa dạng và những mối quan
hệ tương hỗ của chúng thì nhất định sẽ dẫn tới những kết
luận khái quát khó phân tích, so sánh và vận dụng. Điều đó
càng đúng hơn đối với sự diễn đạt bằng lời các lý thuyết và
sự hoạt động của những hệ thống nói trên. Những khó khăn
này có thể khắc phục được nếu thay thế sự diễn đạt bằng lời
bằng các biểu thức toán học.
Có thể nói các ký hiệu toán học xuất hiện và ngày càng đa
dạng hoá là do yêu cầu phát triển của chính bản thân toán
học và của các khoa học khác, chứ không phải chỉ là sản
phẩm tư duy thuần tuý của các nhà khoa học hay do
Thượng đế mách bảo như quan điểm của các nhà triết học
duy tâm. Và, giá trị to lớn của những ký hiệu toán học là ở
chỗ, chúng là công cụ trợ giúp đắc lực cho khả năng nhận
thức của con người về thế giới hiện thực và góp phần thúc
đẩy các khoa học khác phát triển, góp phần phục vụ cho lợi
ích thiết thực của con người hay như Mác đã khẳng định:
"Một khoa học chỉ đạt được sự hoàn chỉnh khi nó sử dụng
toán học".
Lê Văn Đoán
Theo
Tạp chí Triết học
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- giao_trinh_vai_tro_cua_cac_ky_hieu_toan_hoc_trong_nhan_thuc.pdf