Giáo trình Y học cổ truyền - Chương 3: Các bệnh về gan

MỤC LỤC

CHƯƠNG 3 .2

VẤN ĐỀ 1 : VIÊM GAN MẠN.4

1. Cây chó đẻ răng cưa .8

2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo .10

VẤN ĐỀ 2 : XƠ GAN .13

1.Theo y hoc cổ truyền .17

2. Theo lương y Trần Hoàng Bảo .18

3.Theo bài giảng của ĐHYD Hà Nội .19

VẤN ĐỀ 3 : BỆNH CỔ TRƯỚNG.24

VẤN ĐỀ 4 : GAN NHIỄM MỞ .35

Lương y Trần Hoàng Bảo có đề cập về một bài thuốc gan nhiễm mở như sau 35

VẤN ĐỀ 5 : UNG THƯ GAN .38

1. Toa thuốc trị dứt bệnh ung thư gan . .38

2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo. .41

3. Bạch hoa xà .43

4. Chữa viêm gan vàng da .43

VẤN ĐỀ 6 : XƠ GAN .44

VẤN ĐỀ 7 : TRỊ CÁC CHỨNG PHÙ THỦNG DO GAN MẬT.49

VẤN ĐỀ 8 : PHƯƠNG PHÁP OHSAWA LỌC GAN .54

VẤN ĐỀ 9 : BÀI THUỐC HAY TRỊ GAN HIỆU NGHIỆM .55

VẤN ĐỀ 10 : XÃ VÀ ĐU ĐỦ TRỊ HIỆU NGHIỆM UNG THƯ GAN VÀ NHIỀU

LOẠI UNG THƯ KHÁC.58

Giải pháp tối ưu là đu đủ và lá xả .58

pdf61 trang | Chia sẻ: trungkhoi17 | Lượt xem: 496 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Giáo trình Y học cổ truyền - Chương 3: Các bệnh về gan, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a cốt bì lương huyết; Mao căn lương huyết, chỉ huyết; Ô dược, Hương phụ, Xuyên khung, ðào nhân, Hồng hoa hành khí, hoạt huyết, chỉ thống). Trường hợp bệnh nhân hôn mê, sốt cao cần dùng viên An Cung Ngưu Hoàng Hoàn (Ôn Bệnh ðiều Biện): Ngưu hoàng, Uất kim, Tê giác, Hoàng liên, Chu sa, Băng phiến, Trân châu (Ngọc trai), Sơn chi, Hùng hoàng, Hoàng cầm, Xạ hương để cấp cứu, lương huyết, giải độc, thanh nhiệt, khai khiếu. Trường hợp cổ trướng nặng gây nên khó thở cần công trục cổ trướng, có thể dùng một trong những bài sau: Bị Cấp Hoàn (Ba đậu bỏ vỏ, ép hết dầu, ðại hoàng, Can khương, lượng bằng nhau, sấy khô, tán bột mịn, luyện mật ong, làm viên), mỗi lần uống 1–2g với nước ấm. Ngũ Công Tán (Khiên ngưu tử 120g, Tiểu hồi hương 30g, tán bột, làm viên. Mỗi lần uống 1,5–3g, nuốt ngày 1–2 lần. Gia Vị Thập Táo Thang: Đại kích (chế dấm), Nguyên hoa, Cam toại, Hổ phách, Trầm hương, Hắc Bạch sửu, lượng bằng nhau, tán bột mịn, trộn đều) mỗi lần uống l,5-3g với nước sắc Táo tàu. Chu Xa Hoàn (Cam toại, Nguyên hoa, đại kích, đại hoàng, Hắc sửu, Mộc hương, Trần bì, Thanh bì, Khinh phấn, Binh lang). Mỗi lần uống 07,5 – 1g. Nói chung cổ trướng là một chứng bệnh nan y trong nhiều loại bệnh nan y cho nên trong điều trị cần hết sức thận trọng. Cần kết hợp với phương pháp điều trị Tây y, thí dụ như có thể vừa cho thuốc trục thủy vừa phải truyền dịch cho khỏi mất tân dịch hoặc đối với các tình huống bệnh nguy kịch cần kết hợp Tây y cấp cứu kịp thời. Những bài thuốc trục thủy có thể dùng trị chứng cổ trướng (trị tiêu): • Bột Hắc, Bạch sửu. Mỗi lần 1,5 – 3g, ngày uống 1 – 2 lần. • Ngô công tán bột, Hắc bạch sửu 120g, Tiểu hồi hương 3 – 5g. Tán bột mịn, mỗi lần uống nuốt 1,5 – 3g, ngày 1 – 2 lần. • Bột Cam toại, mỗi lần uống nuốt 0,5 – 1g. Thuốc xổ mạnh vì vậy cần lưu ý lúc dùng. Có thể dùng thang Lý Ngư Xích Tiểu đậu Thang: Cá chép 1 con 500g, đánh vảy sạch, bỏ lòng ruột. Xích tiểu đậu 60g, không cho muối, nấu chín nhừ lọc qua vải lấy nước uống, 30 ngày uống 1 thang, uống liền trong 2–3 tuần có kết quả tốt. BỆNH ÁN BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG (Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư ) Chu X, nữ, 35 tuổi. Bệnh sử: Tháng 3-1965, sau khi sinh nở, kém ăn, yếu sức. Trước đây 2 tuần, thấy đi tiểu ít, trướng bụng, chân phù. Năm 1958 sau lần sinh thứ tư, cũng phát bệnh như vậy. Xét nghiệm: Vòng bụng 103 cm, thể trọng 138 cân (cân Trung quốc). Tròng trắng mắt mầu vàng, da vàng chưa rõ rệt, chưa xuất hiện dấu mạng nhện (dấu sao). Tim phổi bình thường, Gan Lách không to, gõ có âm đục và chi dưới phù, ấn lõm (+). CHẨN ĐOÁN: Cổ trướng (xơ Gan phúc thủy). Y ÁN: Bệnh nhân sau sinh nở khí huyết đều suy, Tỳ Vị yếu, thủy thấp ứ đọng đến nỗi bụng to như cái trống, chân phù, ăn không ngon, thấp uất hóa nhiệt, nung nấu không giải được cho nên mặt và mắt vàng, tiểu ít và đỏ. Dùng các phương thuốc ích khí, thanh nhiệt, lợi thấp, bệnh không giảm. Đó là thủy tà bành rường, chính khí không thắng nổi tà khí gây nên. Giờ nên coi trọng lợi thủy, hỗ trợ thuốc ích khí. Cho dùng Mộc phòng kỷ 12g, Xuyên tiêu mục 12g, ðiều đình lịch 12g, Sinh xuyên quân 8g, Tang bạch bì 16g, đại phúc bì 12 g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40g, Hoàng kỳ 20g, Trần bì 8g, Hồng hoa 6g. Sau khi uống thuốc 1 tuần, lượng tiểu tiện chưa tăng rõ rệt, nhưng trướng bụng hơi giảm, ăn cũng khá hơn, cho thấy vận hóa của Vị đã có xu thế khôi phục dần, nhưng thủy tà chưa lui, cần cho thuốc lợi thủy nặng hơn. Vì vậy tăng đ ình lịch lên thành 40g; Ngày hôm tăng lượng thuốc, tiểu tiện nhiều hơn, lượng nước uống vào với lượng tiểu tiện cân bằng, những ngày sau có phần còn nhiều hơn, trướng bụng đỡ nhiều, chu vi vòng bụng cũng nhỏ đi, ăn có tiến bộ rõ rệt. Uống đơn thuốc này tiếp tục 1 tháng. Kiểm tra vòng bụng còn 87cm, thể trạng còn 122 cân, trọc âm di động vùng bụng không rõ nữa. Kiểm tra chức năng Gan, chưa ổn định hoàn toàn. Bệnh nhân vào viện ngày 1 tháng 6 năm 1965, ra viện ngày 24 tháng 7, cộng 53 ngày. Tình trạng ra viện nói chung khá tốt, sau đó bệnh nhân tiếp tục đến khám 2 lần nữa. Sau đó 5 tháng, viết thư kể sức khỏe rất tốt. NHẬN XÉT: Bệnh nhân phúc thủy xơ Gan, biểu hiện chứng hậu Tỳ Vị hư nhược nhưng lại có tình huống nghiêng về thủy thấp nặng, chính khí không thắng nồi tà khí. Vì vậy trong điều kiện mới dùng thang thuốc liều cao vừa ích khí vừa khư tà. Bệnh án này trước dùng thang thuốc ích khí lợi niệu, kết quả không cao, chỉ sau khi tăng liều lượng đình lịch, lượng tiểu tiện mới nhiều rõ rệt. Qua đó thì thấy đối với điều trị phúc thủy xơ Gan, trọng dụng Hoàng kỳ để ích khí, kiện Tỳ, đình lịch tử để tả Phế trục thủy, rõ ràng có tác dụng nhất định. 31 BỆNH ÁN CỔ TRƯỚNG (Trích trong Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn Thư ) Bệnh nhân: Nghiêm X, nam, 40 tuổi. Khám lần 1:Huyễn Vựng Từng bị Cổ trướng năm 1958, đã điều trị khỏi. Năm nay, hồi tháng 3 đi kiểm tra phân có trứng giun móc dương tính. Trước đó 2 tuần bắt đầu thấy tiểu tiện ít, kém ăn, mỏi mệt, sắc mặt vàng bủng, mắt vàng, tính tình nóng nảy, Gan to dưới bờ sườn 2 khoát, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhợt, rêu lưỡi mỏng. Bệnh thuộc loại khí trệ huyết ứ, nước đục ứ đọng. điều trị hướng sơ Can lý khí, hóa ứ hành thủy. Dùng Sài hồ 6g, Xích thược 12g, Chỉ xác (sao) 8g, Uất kim 12g, Mộc hương 6g, Thanh bì 12g, Trần bì 12g, đan sâm 20g, Xích linh 12g, Trư linh 12g, Xa tiền tử 40, Xuyên tiêu mục 12g, đình lịch tử 12g. Khám lần 2: Sau khi uống 4 thang, mặt vàng hơi bớt, tiểu tiện nhiều, bụng trướng giảm dần, ăn khá hơn, tinh thần tỉnh táo, nhưng hai chân còn cảm giác yếu sức, tính tình nóng nẩy, tình trạng bệnh hơi có khởi sắc, tiếp tục theo phương pháp cũ, đơn thuốc trên tăng ðình lịch tử lên 20 gam. Khám lần 3: Bụng trướng tiếp tục giảm, tiểu tiện thông lợi vàng mặt nhạt hơn, tinh thần và ăn uống khá, chất lưỡi đỏ, khô miệng, mạch Tiểu Huyền, tà khí lui, chính khí hư, vẫn dùng nguyên phương gia giảm, đơn thuốc cũ bỏ đình lịch tử, gia Xuyên Thạch hộc 16 gam. Khám lần 4: Bụng trướng đã nhẽo, to bụng giảm rõ rệt ăn tốt, đã hết vàng mắt, đã lao động bình thường, nhưng hai chân còn cảm giác yếu, mạch Tế, chất lưỡi đỏ nhạt, điều trị tiếp bằng thuốc hoàn. Hoàng kỳ phiến, mỗi phiến trọng lượng 1 gam, mỗi lần dùng 5 phiến, ngày uống 2 lần. Sau khi uống liên tục 10 ngày, bệnh nhân đã làm nông nghiệp bình thường, tinh thần sảng khoái, theo lời kể 1 tháng trở lại, vùng bụng nhẹ nhàng, tiểu tiện bình thường, ăn uống rất tốt. NHẬN XÉT: Bệnh nhân khám lần đầu ngày 16 tháng 10 năm 1965 vòng bụng 90cm, sau khi điều trị, phúc thủy rút đi nhanh. Uống được 11 thang, vòng bụng chỉ còn 78cm; trướng bụng tiêu trừ cơ bản. Ngày 20 tháng 12 cho bệnh nhân uống thuốc chữa huyết hấp trùng. Bệnh nhân bị huyết hấp trùng giai đoạn cuối, khí trệ huyết ứ, thủy trọc ứ đọng dẫn đến phúc thủy. Ngoài các triệu chứng bụng to tiểu tiện ít, mấu chốt là ở tình tự nóng nảy, mạch Trầm Huyền, chất lưỡi xanh nhạt, đó chủ yếu là chứng hậu khí trệ huyết ứ, cho nên lập pháp sử phương, đầu tiên coi trọng sơ Can lý khí, hỗ trợ bằng hóa ứ lợi thủy mà thu được kết quả. Nếu quả là chỉ lợi thủy đơn thuần mà không chú ý tới Can lý khí, cho dù dùng liều cao thông lợi tiểu tiện thậm chí dùng thuốc trục thủy mạnh cũng khó làm cho tiểu tiện thông lợi, phúc thủy tiêu đi. Cuối cùng, dùng độc vị Hoàng kỳ phiến nhằm ích khí để hành thủy, củng cố hiệu quả, đề phòng phúc thủy tái phát. 32 BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO THẤP NHIỆT ỦNG TRỆ (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng ) Phan XX, nam 45 tuổi, nông dân, Khám lần đầu ngày 18-5-1963. Trong một tháng lại đây bụng mỗi ngày một to ra như cái trống, bệnh viện chẩn đoán là xơ gan cổ trướng kèm lách to lên. Gan lách đều to 6cm. Sắc mặt vàng, mặt có nếp nhăn, nướu răng chảy máu, ăn không được, nước tiểu ít, đỏ, mạch Huyền Sác, chất lưỡi đỏ, rêu vàng bẩn. Bệnh này thuộc chứng thấp nhiệt ủng trệ, nước tụ, khí trệ, huyết ứ, cổ trướng. ĐIỀUTRỊ: Phải thanh nhiệt, hóa thấp, trục ứ, tiêu thũng. Cho dùng bài Hóa Thấp Trục Ứ Tiêu Thũng Thang (Miết giáp 30g, Cù mạch 30g, Xa tiền tử 20g, Tam lăng 6g, Nga truật 6g, Phục linh 12g, Trạch tả 18g, Xuyên giáp 6g, Xích thược 10g, đào nhân 9g, Tiểu kế 30g, Phúc bì 12g, Hồ lô nửa quả. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang.). Sau khi uống 5 thang nữa, đồng thời pha 30g đại Tiểu kế nấu thành nước thay trà uống nhiều lần. Uống xong bụng nước rút hết, ăn uống dần tăng lên, lách co lại. Tiếp theo cho thêm một số vị kiện tì dưỡng huyết như đảng sâm, Hoàng kỳ, đương qui v.v... vào bài thuốc trên, uống liền trong hơn 4 tháng. Thời gian uống kiêng muối. Lách bệnh nhân trở lại như bình thường, các chứng bệnh tiêu tan, đã có thể làm một số công việc đồng áng. Theo dõi người bệnh 15 năm, không thấy tái phát. BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO CAN UẤT KHÍ TRỆ, TỲ VỊ HƯ TỔN (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng ) Khương XX, nam, 47 tuổi, nông dân. Người bệnh tiêu hóa không tốt, bụng trướng, nặng nhất là về ban đêm, đã 7-8 năm, khám ở một bệnh viện chẩn đoán là viêm gan mạn tính, xơ gan giai đoạn đầu. 3 tháng gần đây bệnh nặng lên, ăn uống giảm sút, tiêu hóa kém, bụng trướng tăng. Toàn thân yếu sức, gầy còm, bụng to dần như cái trống, nước tiểu ít, màu vàng. Mạch Trầm, Hoãn. ðã rút nước ở bụng 2 lần, mỗi lần 1000ml. ðiều trị:phải hành khí lợi thủy, thư can giải uất. Cho uống phối hợp Thanh Oa Tán với Mẫu Kê Sâm Kỳ Thang. Sau khi dùng thuốc 100 ngày, cổ trướng rút hết, các chứng dần tiến triển, đã có thể làm các công việc chân tay thông thường. BỆNH ÁN XƠ GAN CỔ TRƯỚNG DO THẤP NHIỆT ĐÌNH TRỆ (Trích trong Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng ) Từ X X, nam, 58 tuổi. Bệnh nhân vốn nghiện rượu, ăn ít bụng trướng. Gần đây lượng nước tiêu giảm, bụng căng như trống. Xét nghiệm chức năng gan thấy tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, chẩn đoán là xơ gan cổ trướng. Dùng thuốc đông y và tân dược để chữa nhưng kết quả không rõ rệt. Do người bệnh vốn nghiện rượu nên gan lách 33 đều bị thương tổn, thể hiện sắc mặt sạm đen, mũi đỏ, không đói, tiểu tiện ít, miệng hơi đắng bụng trướng đầy, lưỡi hơi đỏ, rêu đục bẩn, mạch Huyền Sác. ðó là do thấp nhiệt giao trở, gan lách tổn thương dẫn đến tắc nghẽn đường dẫn mà thành cổ trướng. Cho uống ðan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn (Bạch truật 60g, Phục linh 30g, Trần bì 30g, Khương bán hạ 30g, Sinh cam thảo 10g, Tiêu thần khúc 30g, Sinh hương phụ 45g, Khổ sâm 15g, Hoàng liên sao 15g, Cương châm xa 45g (tẩm dấm sao đỏ, tán nhỏ). Các vị thuốc trên sau khi tán thành bột mịn, lấy dấm và nước (mỗi thứ một nửa) trộn thành hồ Thần khúc rồi làm hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 70–80 hoàn, uống với nước thuốc sau: Bạch truật 18g, Trần bì 3g, Sinh khương 1 lát, sắc uống. Đối với người bệnh hư nặng, thì bỏ vị Hoàng liên, thêm Hậu phác 15g), trước hết đem thuốc hoàn sắc thành thang để uống 10 thang rồi mới dùng thuốc hoàn 500g. Sau khi uống thuốc, bụng trướng giảm dần, tiểu tiện trong và dài, các chứng chuyển biến tốt rõ rệt. Lại cho uống 1000 hoàn, uống xong hết cổ trướng, ăn ngon hơn, kiểm tra chức năng gan, tỷ lệ albumin/globulin trở lại bình thường, đã có thể tham gia công tác như thường. Theo dõi vài tháng thấy sức khỏe vẫn tốt. BÀN LUẬN: Đan Khê Tiểu Ôn Trung Hoàn do Chu Đan Khê sáng chế. Dùng bài thuốc này chữa xơ gan, đặc biệt là với bệnh nhân có tỉ lệ albumin/globulin đảo ngược, dù là có cổ trướng hay không đều thu được hiệu quả tốt. Thông thường uống từ 180g đến 210g là có thể khiến nước tiểu trong và nhiều, bệnh nặng thì uống 500g đã được như thế. Một số bệnh nhân sau khi đã hết các triệu chứng bệnh chức năng gan bình thường thì ngừng thuốc, nhưng rồi do không điều độ, làm việc quá sức thì lại tái phát, khi đó lại dùng bài thuốc trên vẫn có hiệu quả tốt. Những bệnh nhân loại này được chữa khỏi đã 20 năm mà vẫn khỏe mạnh. Vị Cương châm sa trong bài thuốc còn có tên là Châm sa hay Cương sa. 34 35 CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 4 : GAN NHIỄM MỞ 1.Lương y Trần Hoàng Bảo có đề cập về một bài thuốc gan nhiễm mở như sau : -Thành phần: Sanh sơn tra, Trạch tả mỗi vị 20~30g; Đan sâm, Sanh Hà thủ ô, Thảo quyết minh, Huỳnh tinh, Hổ trượng mỗi vị 15 ~20g; Bạch thược, Thố Sài hồ mỗi vị 10~15g. -Gia giảm: Nếu buồn nôn gia Bán hạ 10g; Nếu bụng trướng gia Sao La bặc tử 15g; nếu nôn ra nước chua, giảm lượng Sơn tra gia Ô tặc cốt 20g. -Cách dùng: Thuốc trên sắc uống, mỗi ngày 1 thang, phân 2 ~3 lần uống, 1 tháng là 1 liệu trình. -Hiệu quả trị liệu: Dùng phương này trị bệnh nhân Gan nhiễm mỡ 40 ca, sau khi dùng thuốc 1 ~ 4 liệu trình, trong đó trị khỏi 27 ca, hiệu quả rõ 10 ca, hữu hiệu 2 ca, vô hiệu 1 ca. (Lương y Trần Hoàng Bảo) 2. Chữa bệnh Gan Nhiễm mỡ Gan nhiễm mỡ là tình trạng gan dự trữ quá nhiều chất béo, nhất là mỡ động vật với hàm lượng axít béo bão hòa cao. Khi đó, chức năng của gan bị suy giảm, cơ thể mệt mỏi, ăn chậm tiêu, chán ăn... Để chữa bệnh, việc điều chỉnh ăn uống có vai trò rất quan trọng. Những người bị gan nhiễm mỡ nên ăn gì? Ngô là loại ngũ cốc rất thích hợp cho những người bị gan nhiễm mỡ Ngô: Đây là thứ ngũ cốc thích hợp với người bị gan nhiễm mỡ. Theo kết quả nghiên cứu của y học hiện đại, ngô chứa nhiều axít béo không no có khả năng thúc đẩy quá trình chuyển hóa của chất béo nói chung và cholesterol nói riêng. Theo quan niệm của dinh dưỡng học cổ truyền, ngô có vị ngọt tính bình, có công dụng điều trung kiện vị, lợi niệu, thường được dùng cho những trường hợp tỳ vị hư yếu, chán ăn, thủy thấp đình trệ, tiểu tiện bất lợi, phù thũng, rối loạn lipit máu, thiểu năng mạch vành. Ngô là món ăn rất phổ biến ở nước ta, nhất là tại những vùng miền núi. Thường dùng dưới dạng bánh hoặc cháo bột ngô. 36 Nhộng: Vị ngọt mặn, tính bình, có công dụng ích tỳ bổ hư, trừ phiền giải khát. Theo dược lý học hiện đại, nhộng có tác dụng làm giảm cholesterol huyết thanh và cải thiện chức năng gan. Thường dùng dưới dạng các món ăn hoặc tán thành bột để uống. Kỷ tử: Kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy, kỷ tử có tác dụng ức chế quá trình tích tụ chất mỡ trong tế bào gan, thúc đẩy sự tăng sinh tế bào gan và cải thiện chu trình chuyển hóa chất béo. Rau cần: Chứa nhiều vitamin, có công dụng làm mát gan, hạ chelesterol máu, thúc đẩy quá trình bài tiết các chất phế thải và làm sạch huyết dịch. Ngoài ra, người bị gan nhiễm mỡ nên chú trọng bổ sung rau tươi như cải xanh, cải cúc, rau muống... có công dụng giải nhiệt làm mát gan, cà chua, cà rốt, măng, bí đao, mướp, dưa gang, dưa chuột... có công dụng thanh nhiệt, thông phủ, hành khí, lợi tiểu. Bên cạnh đó còn có các loại dầu thực vật như dầu lạc, dầu vừng, dầu đậu tương... chứa nhiều axít béo không no có tác dụng làm giảm cholesterol máu; các loại thịt, cá ít mỡ và các thức ăn chế biến từ đậu xanh, đậu đen... Nấm hương: Được xem là loại thực phẩm lý tưởng cho người bị gan nhiễm mỡ. Trong nấm hương có chứa những chất làm giảm chelesterol trong máu và tế bào gan. Trong nấm hương có chứa những chất làm giảm chelesterol trong máu và tế bào gan Thường dùng dưới dạng thực phẩm để chế biến các món ăn. Về uống Nên dùng một trong những loại trà sau: - Trà khô 3g, trạch tả 15g hai thứ hãm với nước sôi trong bình kín, sau 20 phút thì được. Có công dụng bảo vệ gan, tiêu mỡ, lợi niệu, giảm béo. - Trà khô 2g, uất kim 10g (có thể thay bằng nghệ vàng), cam thảo sao vàng 5g, mật ong 25g. Tất cả thái vụn, hãm với nước sôi, uống trong ngày... có công dụng làm cho gan thư thái, tiêu trừ tích trệ và lợi niệu. - Trà khô 3g, cát căn (sắn dây thái phiến) 10g, lá sen 20g. Tất cả thái vụn hãm uống có công dụng giải độc, hạ mỡ máu, giảm béo. - Rễ cây trà 30g, trạch tả 60g, thảo quyết minh 12g. Tất cả thái vụn hãm uống hàng ngày. Có công dụng làm giảm mỡ máu và phòng chống béo phì. 37 - Trà tươi 30g, sinh sơn tra 10-15g. Hãm nước sôi uống hàng ngày. Có công dụng tiêu mỡ giảm béo. 38 CHƯƠNG 3 : GAN VẤN ĐỀ 5 : UNG THƯ GAN 1. TOA THUỐC TRỊ DỨT UNG THƯ GAN Xin trích lá thư của anh Huỳnh Trung Hậu Tôi tên Huỳnh Trung Hậu, sanh 1934. Quê gốc tại Long Xuyên, An Giang VIỆT-NAM. Tôi Là người bị bệnh ung thư gan. Thời kỳ thứ 3. bác sĩ mỹ chuyên khoa của bệnh viện Memorial đường Beechnut thành phố Houston, suốt 1 tuần xét nghiệm đủ cách xác định hạn kỳ 3 đến 6 tháng chết!... Sau đó, tôi tìm được những toa thuốc gia truyền Đông y (thuốc bắc) trị được lành bệnh từ năm 2004 đến nay có sự theo dỏi của bác sĩ chuyên khoa nói trên. Do đó, nay xin phổ biến đến toàn thẻ dồng bào VIỆT NAM và đồng hương trong cũng như ngoài nước nhằm góp phần diều trị bệnh hiễm nghèo mà tây dược nay vẫn còn chưa có thuốc diệt được vi trùng ung thư gan này. Việc phổ biến toa thuốc ung thư gan trong tinh thần bât vụ lợi. Xin qúi đồng bào chuyèn tin nhau, ai có bệnh cần diều trị để kiệp thời cứu giải tình thế. Qua kinh nghiệm điều trị tôi sẵn sàng hồi đáp và góp ú để kết quả tốt. Trân Trọng Kính Chào Huỳnh Trung Hậu Toa số 1 Bắc Sài Hồ 3 Chỉ Hoàng Cầm 2 Chỉ Bán Hạ 5 Chỉ Sa Sâm 3 Chỉ Cam Thảo 1 Chỉ Thiên Hoa Phấn 3 Chỉ Thang thuốc số 1 này ít thuốc ch3 nấu 1 chén rưỡi nước để được mau cạn Toa Số 2 Bán Chi Liên 1 Lượng 39 Bách Hoa Xà Nhiệt Thảo 2 Lượng Toa thuốc số 2 chỉ có 2 vị, nhưng bỗ thuốc nhièu cần 4 chén nước đễ đủ thắm khi nấu... Toa Số 3 Bắc Nhân Trần 1 Lượng Bồ Công Anh 1 Lượng Hoàng Cầm 3 chỉ Bán Biên Liên 5 chỉ Đỗ Trọng 5 chỉ Sa Nhơn 3 chỉ Thổ Phục Linh 5 chỉ Bạch Phục Linh 5 chỉ Ý Vỉ (sống) 5 chỉ Huyển Sâm 3 chỉ + Nếu bị đau lưng dạng suy thận thì dùng Liên Tâm Tu không dùng Bán Biên Liên Lưu ý: Tất cả các thang thuốc đều sắc 3 chén nước còn 7 phân , ( 7/10 chén ) uống nước 1 và 2 sắc 2 lần. Xác thuốc còn lại sắc loãng làm nước uống trong ngày mổi ngày uống 1 thang theo thứ tự 1,2,3. Xoay hết vòng trở lại 1,2,3. Dùng suốt 1 tháng, nếu thấy ngán thuốc hoặc bệnh thuyên giảm, nghỉ 1 ngày uống 6 thang. Tháng thứ 3 nghỉ 1 ngày uống 3 thang. Dù bệnh đã hết cũng nên uống liên tục, có giảm 1 tuần uống 2 tuần rồi giảm 1 tuần uống 1 tuần. Nếu sơ gan cổ chướng bụng có nước thì dùng toa số 4 gồm 17 vị. Bệnh ung thư gan thời kỳ thứ 3 của tôi, Bác sĩ khẳng định 3 đến 6 tháng thì chết.Tôi đã uống 3 thang 1,2,3 được lành bệnh. Toa số 4 Phục linh 10 gr 3, chỉ 3 40 Kim Tiền Thảo 20 gr 6, chỉ 7 Chi Tử 10 gr 3, chỉ 3 Nhơn Trần 30 gr 10, chỉ 0 Long Cốt 20 gr 6, chỉ 7 Huỳnh Bá 10 gr 3, chỉ 3 Hậu Phát 10 gr 3, chỉ 3 Uất Kim 10 gr 3, chỉ 3 Chỉ Thiệt 10 gr 3, chỉ 3 Bạch Trực 16 gr 5, chỉ 0 Biển Đậu 16 gr 5, chỉ 0 Thông Thảo 8 gr 3, chỉ 0 Hắc Hương 10 gr 3, chỉ 3 Nhục Trúc 10 gr 3, chỉ 3 Sài Hồ 10 gr 3, chỉ 3 Huỳnh Cầm 10 gr 3, chỉ 3 Kê Cốt Thảo 20 gr 6, chỉ 7 Ghi chú: Toa thuốc 17 vị, 1 chỉ bằng 3 gr, uống liên tục 5 thang trong 5 ngày để xác định. Kết quả của 3 thứ ứng nghiệm: giảm, bình, phản ứng. Giảm: Tiếp tục uống 5 thang ( có thể nghỉ 1 ngày nếu ngán thuốc ) Bình: Do tự mình theo dõi hoặc trùng hợp thuốc khác, hay bệnh khác bị phản ứng. Nếu không trở ngại gì hãy tiếp tục uống 5 thang ngưng 1 ngày, lắng nghe cho xác phảng ứng,nếu chưa suy giảm mọi mặt về cơ thể thì tiếp tục uống 5 thang. Đợt 2 vẫn theo dõi liên tục. 41 Phản ứng: Bệnh khác phải dùng Tây Dược thì cách nhau 90 phút hãy dùng Đông Dược. Nếu phản ứng về bệnh không đúng thuốc ngưng. ( Đông Dược không kỵ Tây Dược đến độ nguy hại )... * Lượng thuốc 17 vị cần nhiều nước để nấu tan đều chất thuốc. ( 5 chén còn lại 8/10 một chén thuốc đúng bệnh là thuốc hay; Chính mình tự theo dõi bệnh dùng thuốc sẽ được kết quả tốt . 2. Một số bài thuốc từ lương y Trần Hoàng Bảo + Phương 1 : Ung thư gan, ung thư ruột dùng Mã đâu linh. Mã đâu linh Ung thư gan, ung thư ruột lấy Mã đâu linh 400g, nước 5 thăng, rượu 1 thăng, hợp lại sắc còn 3 thăng, phân nhiều lần uống, có thể làm cho độc ung thư thông qua tiểu tiện bài xuất. Còn phương lấy Mã đâu linh 40g, nghiền bột, 1 lần 4g, uống với nước nóng. Hoặc mỗi lần lấy 20~40g, sắc nước uống. Mã đâu linh có thể dùng cả cây. (Phương này theo tôi cần cẩn thận dùng, đề phòng trúng độc. Sắc uống nên 20g/ 1 ngày. Cần xem thêm Mã đâu linh - TỪ ĐIỂN THUỐC ĐÔNG Y) + Phương 2 : Phòng ngừa ung thư gan dùng Tiểu Sài Hồ Thang Sài hồ, Hoàng cầm mỗi vị 6g, Chế bán hạ, Sinh khương mỗi vị 9g, Nhân sâm, Chích cam thảo mỗi vị 3g, Đại táo 3 trái. Sắc phân 2 lần uống. + Phương 3 : Sâm Tam Kim Phấn - Thành phần: Tây dương sâm 70g, Kê nội kim 50g, Điền thất phiến 40g, Hương phụ 25g, Sinh ý dĩ 50g. - Cách dùng: Thuốc trên sấy lửa khô tán bột, mỗi lần 10g, , mỗi ngày sáng dậy uống với mật ong hoặc cháo trắng, dùng liên tục. - Công hiệu: Phù chính chống ung thư. - Chứng thích ứng: Hổ trợ tri liệu xen lẫn sau điều trị ung thư gan. - Phụ chú: Phương này có thể đề cao sức miễn dịch, ngăn ngừa hoặc giảm nhẹ phản ứng phụ của hoá liệu. Đồng thời cũng cố hiệu quả điều trị, ngăn ngừa tái phát hoặc di căn, đề cao tỉ lệ sinh tồn thời kì cuối. + Phương 4: Ung thư gan, ung thư tuyến tụy dùng Cao Hùng hoàng Bạch phàn 42 Đây là phương thuốc trong sách cổ "Tập thận phương", sau khi qua hiện tại dùng thử thu được hiệu quả mà phát biểu. Tức Hùng hoàng 40g, Phèn chua 80g cùng nghiền bột, dùng hồ (quấy bằng bột mì) hòa thành dạng thuốc cao, đắp dày chổ da vùng bị bệnh, có hiệu quả. + Phương 5: Ung thư gan cùng với gan sưng trướng dùng dịch ngâm chiết Tỳ bà diệp Lấy Tỳ bà diệp tươi (không có thứ tươi có thể dùng thứ khô thay thế) thái nhỏ, thêm vào cồn y tế lượng gấp đôi nó ngâm 1 tuần, để ngâm chiết lấy thành phần hữu hiệu của nó, đợi lúc cồn đổi màu nâu đen, lấy khăn lông thấm vào nước nóng vắt khô, gấp 3 nếp, nhún vào dịch ngâm chiết thân cây Tỳ bà đến khi khăn lông hiện ra sắc xanh lam, sau đó trải tấm vải nhựa lớn, đặt cái khăn lông lên trên, để vùng lưng sau bộ vị gan của người bệnh sát vào khăn lông nằm lên trên nó, 1 lần nằm 20 phút, 1 ngày nằm 2 ~ 3 lần, có hiệu quả. Cùng lúc này, dùng dịch ngâm chiết thêm 2 lần nước, xoa vào bộ vị gan, hiệu quả điều trị càng tốt. + Phương 6 : - Thành phần: Xích thược 15 ~30g; Đan sâm 10~30g; Tam lăng, Nga truật, nhân, Thổ miết trùng mỗi vị 10g; Quãng uất kim 10g; Xa tiền tử, Trạch tả, Bán biên liên mỗi vị 30g; Phục linh 15g. - Gia giảm: * Khí hư gia Đảng sâm, Bạch truật, Chích hoàng kỳ v.v... * Âm hư gia Sinh địa hoàng, Nữ trinh tử, Hoài sơn dược, Chích miết giáp, Tri mẫu v.v... *Khí âm lưỡng hư gia Thái tử sâm, Chích hoàng kỳ, Thiên đông, Mạch đông v.v... *Thấp nhiệt hỗ trở gia Nhân trần, Chi tử, Hoàng cầm v.v... *Khí trệ gia Sài hồ, Bát nguyệt trát, Chỉ xác - Cách chế dùng: Mỗi ngày 1 thang sắc uống. Phụ dùng thuốc Tây lợi tiểu, chống nhiễm trùng, cầm máu, chống hôn mê v.v... - Chứng thích ứng: Ung thư gan nguyên phát. - Hiệu quả điều trị: Chọn dùng phép hoạt huyết lợi thủy làm chủ để điều trị ung thư gan nguyên phát kèm bụng nước 21 ca, hiệu quả rõ ( bụng nước tiêu mất, triệu chứng cải thiện) 15 ca, có hiệu quả (bụng nước giảnm nhẹ, triệu chứng ổn định hoặc cải thiện) 4 ca, vô hiệu 2 ca. + Phương 7 : - Thành phần: Sài hồ, Hương phụ, Đương qui, Bạch thược, Sơn thù du, Tam lăng, Nga truật, Trư linh, Phục linh, Nhân trần, Kim tiền thảo, Kê nội kim, Sa nhân, Sanh sơn tra, Miết giáp. - Cách chế dùng: Phương này tùy chứng gia giảm. Mỗi ngày 1 thang, đem thuốc trên sắc nước phân 2, 3 lần uống. 43 - Hiệu quả điều trị: Dùng thuốc trên điều trị 36 ca Ung thư gan thời kỳ cuối (phân làm 6 loại hình Khí trệ huyết ứ, khí trệ huyết ứ đàm thấp, khí trệ huyết ứ âm hư, khí trệ huyết ứ dương hư, khí trệ huyết ứ khí hư đàm thấp, khí âm lưỡng hư.), khối u ổn định hoặc không biến hóa 34 ca, tiến triển 2 ca. Nửa năm sau theo dõi, đều vẫn sinh tồn. - Chứng thích ứng: Ung thư gan thời kỳ cuối. + Phương 8 : - Thành phần: Thục địa hoàng 25g, Sài hồ 20g; Đương qui, Bạch thược, Phục linh, Sao bạch truật, Chích cam thảo mỗi vị 15g, Bạc hà 10g. - Cách chế dùng: Mỗi ngày 1 thang, sắc nước uống. - Hiệu quả điều trị: Dùng thuốc trên điều trị ung thư di căn gan 62 ca, chất lượng sinh tồn xếp loại: đề cao 7 ca, ổn định 36 ca. Thời kỳ sinh tồn 3, 6, 9, 12 tháng phân biệt là 59, 45, 38, 11 ca. + Phương 9: Vân bạch dược trị đau gan. - Phối phương: Vân nam bạch dược lượng thích hợp. - Cách dùng: Uống Vân bạch dược mỗi lần 1g, mỗi ngày 4 lần. - Công hiệu: Thời gian điều trị dài 1 chút, có thể làm cho bệnh tình ung thư gan chuyển biến tốt. + Phương 10: - Chủ trị: Ung thư ruột, ung thư gan, ung thư phổi, ung thư mũi họng. - Thành phần: Bạch hoa xà thiệt thảo 150g, Bạch mao căn 100g, đường cát đỏ 100g. - Cách dùng: Đem 2 vị trước sắc nước bỏ bã, thêm đường đỏ hòa tan, làm trà uống, uống liền vài tháng. (Lương y Trần Hoàng Bảo) 3. Bạch hoa xà là môt cây thuốc hay chữa được nhiều loại bệnh ung thư. Nay xin giới thiệu một tác dụng thành phần của cây thuốc này như sau : Chữa ung thư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfgiao_trinh_y_hoc_co_truyen_chuong_3_cac_benh_ve_gan.pdf
Tài liệu liên quan