Brunô(1548-1600):
Ông là một đại diện xuất sắc của chủ nghĩa duy vật vô thần: Engel đánh giá ông là một người khổng lồ về hình thức, tinh thần và tính cách. Giáo hội coi ông là tà đạo và ông đã từng bị trục xuất đi nhiều nước Châu Âu. Năm 1562 ông quay về Ý và ông bị giáo hội kết án 6 năm tù và ngày 17 tháng 02 năm 1600, ông bị toà án giáo hội thiêu sống ở “ Quảng trường hoa” La Mã.
Phạm trù trung tâm của triết học Brunô là cái duy nhất(UNO) được ông lấy từ phái Platon mới và diễn giải dưới ngôn ngữ tự nhiên thần luận của mình. UNO chính là thượng đế tồn tại dưới dạng tự nhiên. Nó là một thế giới độc lập không được tạo ra và cũng không bị tiêu diệt. Nó tồn tại vĩnh viễn. Ông đồng nhất thượng đế với tự nhiên nhưng ông chỉ thừa nhận thượng đế trên danh nghĩa và điều đó được thể hiện rõ khi ông quan niệm cái duy nhất là giới tự nhiên thượng đế chứ không phải người. Theo ông mọi sinh vật chỉ là một dạng biểu hiện của cái duy nhất. Các sự vật biến đổi không ngừng, tức là có sinh ra tồn tại và mất đi nhưng cái duy nhất lại là bất biến.
29 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7841 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khái quát chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy tâm trong triết học, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nói rằng “không phải mọi chân lý của niềm tin tôn giáo đều có thể đạt được bằng sự chứng minh hợp lý”. Chân lý tôn giáo không phải là điểm yếu mà triết học dễ thâm nhập vào được bởi vì trí tuệ của con người là có hạn và thấp hơn sự anh minh của thượng đế.
- Quan điểm duy tâm thần bí còn được thể hiện trong nghiên cứư giới tự nhiên. Ông còn cho rằng toàn bộ giới tự nhiên cùng trật tự của nó đều được quyết định bởi sự thông minh của thượng đế đều trải qua sự hợp lý hoá của thượng đế bởi thượng đế là mục đích tối cao và là quy luật vĩnh viễn đứng trên mọi cái và quyết định mọi cái.
- Khi giải quyết vấn đề bản chất của cái chung thì Tô Mát Đa Canh theo chủ nghĩa duy thực ôn hoà (có sự dung hoà với chủ nghĩa duy danh). Theo ông cái chung tồn tại trên ba mặt:
+ Tồn tại trước sự vật trong trí tuệ của thượng đế.
+ Tồn tại khách quan trong các sự vật riêng lẻ.
+ Tồn tại trong trí tuệ con người bằng con đường trừu tượng hoá khỏi các sự vật riêng lẻ.
- Dựa trên quan điểm duy tâm thần bí ông đã chứng minh sự tồn tại của thượng đế dựa trên năm yếu tố sau đây:
Thứ nhất thế giới không vận động vĩnh cửu mà cần phải có lực tác động ban đầu.
Thứ hai là mọi nguyên nhân không phải là vô tận mà cần phải có nguyên nhân đầu tiên.
Thứ ba mọi sự vật của thế giới là ngẫu nhiên vì vậy cần tồn tại cái tất nhiên tuyệt đối.
Thứ tư mọi sự bộc lộ các các giai đoạn hoàn thiện khác nhau cần phải có một thực thể hoàn toàn tuyệt đối.
Thứ năm tính hợp lý của thế giới tự nhiên không thể giải thích bằng các nguyên nhân tự nhiên mà cần phải có tồn tại một thực thể lý trí siêu tự nhiên để điều chỉnh thế giới.
Vì vậy Tô Mát Đa Canh cho rằng thượng đế chính là động lực ban đầu, là nguyên nhân ban đầu, là cái tất nhiên tuyệt đối, là sự hoàn thiện tuyệt đối và nguyên nhân hợp lý của thế giới tự nhiên.
Về lý luận nhận thức: ông chịu ảnh hưởng của học thuyết hình dạng của Arit xtốt. Theo Tô Mát Đa Canh mọi nhận thức đều diễn ra chủ thể tiếp thu khách thể nhưng không phải mọi sự nhận thức của khách thể đều được tiếp nhận mà chỉ tiếp nhận những hình ảnh của khách thể tức là hình dạng của nó mà thôi bởi bản thân khách thể khi gia nhập vào tinh thần của cái nhận thức (chủ thể) thì cái được nhận thức bị mất đi tính vật chất của mình và chỉ tồn tại với tư cách là hình dạng tức là hình ảnh của nhận thức.
Ông chia hình dạng thành hình dạng cảm tính và hình dạng lý tính. Hình dạng lý tính cao hơn cảm tính, cho nên nhờ đó mà nhận thức được cái chung, cái giống với đối tượng, cái mà trong đó chứa đựng nhiều thực thể riêng biệt.
Sự tiếp nhận của Tô Mát Đa Canh về học thuyết hình dạng của Arit xtốt chỉ là sự khôi phục về hình thức, chưa tiếp nhận được bản chất sống động và tính chân lý trong học thuyết đó.(2)
- Về sự tiếp nhận xã hội Tô Mát Đa Canh ca ngợi chế độ bất bình đẳng và trật tự đẳng cấp trong xã hội. Ông cho rằng cuộc sống trần thế chỉ là tạm thời, là sự chuẩn bị cho cuộc sống tương lai vĩnh viễn ở thế giới bên kia. Ông là người theo chủ nghĩa quân chủ cho nên ông cho rằng quốc vương không chỉ là người điều khiển mà còn là người sáng tạo ra thế giới. Nhưng quốc vương cũng là người của đức chúa Giê-su, thực hiện mọi yêu cầu của nhà thờ và trừng phạt một cách dã man những người tà đạo bởi vì nhà thờ là tối cao. Đối lập với quan điểm duy thực của Tô Mát Đa Canh là quan điểm duy danh luận của Đơn xcốt, đại biểu xuất sắc của phái duy danh thời kỳ trung cổ.
Đơn xcốt sinh ra ở nước Anh. Ông là một nhà duy danh luận rất nổi tiếng, ông sống ở thế kỷ XIII
Khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa thần học và triết học ông cho rằng đối tượng của thần học là thượng đế còn đối tượng của triết học là tồn tại khách quan. Ông đề cao vai trò lòng tin tôn giáo hơn so với lý trí bởi vì lý trí chỉ nhận thức được tồn tại còn thượng đế là tối cao vô tận, phi vật chất, là lòng tin không thể nhận thức được.
Xuất phát từ thế giới quan của những nhà duy danh luận, ông cho rằng cái chung không chỉ là sản phẩm của tư duy mà còn là cơ sở trong bản thân sự vật. Cái chung tồn tại trong sự vật với tính cách là bản chất vừa tồn tại sau sự vật bởi tính cách là khái niệm trừu tượng hoá trong tư duy tách khỏi bản chất của sự vật.
Về lý luận nhận thức Đơn xcốt nhấn mạnh yếu tố tinh thần và cho rằng, nó là hình thức của thân thể con người, gắn bó thân thể con người mới sinh ra. Yếu tố tinh thần tuy có sức mạnh to lớn nhưng phụ thuộc vào đối tượng nhận thức. Xuất phát từ yếu tố tinh thần và đối tượng nhận thức mà tri thức con người hình thành. Ông cũng dề cập đến vai trò của lý trí và ý chí. Ý chí cao hơn lý trí và thống trị mọi dạng hoạt động của con người. Ở thượng đế ý chí trở thành tự do.
Khi giải quyết vấn đề cái chung thì Đơn xcốt cho rằng cái chung không phải là sản phẩm của lý trí mà nó nằm ngay trong chính bản thân các sự vật. Nó vừa tồn tại trong các sự vật như là bản chất của chúng lại vừa tồn tại sau các sự vật. Với tư cách là những khái niệm được lý trí con người trừu tượng hoá, khái quát hoá khỏi các sự vật riêng lẻ.
Như vậy trong học thuyết của mình Đơn xcốt đứng về phía thần học và cho rằng triết học không xuất phát từ ý chí của thượng đế nên triết học không thể chứng minh được bản chất của thượng đế, sự sáng tạo ra thế giới. Mặc dù vẫy những cống hiến của Đơn xcốt đã đưa ông lên vị trí là nhà duy danh luận nổi tiếng nhất thời trung cổ.
Tuy vậy cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm (dưới danh nghĩa là phái duy danh và duy thực) vẫn diễn ra khá mạnh mẽ. Trong thời kỳ này mà đại diện của phái duy thực hay Chủ Nghĩa Duy Tâm là Ô quýt xtanh, Giăng xi cốt Ơ ri gien nơ, Téc tu Liêng... những đại diện của phái duy danh hay Chủ Nghĩa Duy Vật là Pie Abơ la, Rô giê Bê cơn, Ốc cam...
Tóm lại thời kỳ này ở Châu Âu đã diễn ra cuộc đấu tranh giữa hai phái triết học là duy thực và duy danh, phản ánh cuộc đấu tranh không khoan nhượng giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm. Học thuyết duy danh gắn liền với Chủ Nghĩa Duy Vật (2) trong việc thừa nhận vật chất có trước khái niệm có sau. Học thuyết duy thực được xem là gắn liền với Chủ Nghĩa Duy Tâm (2), coi cái chung tồn tại độc lập có trước và sinh ra cái riêng tồn tại độc lập và không phụ thuộc vào cái riêng. Trong cuộc đấu tranh dai dẳng đó các trào lưu triết học của phái duy danh đã đem lại một luồng sinh khí mới. Đó là sự nhận thức thế giới thông qua kinh nghiệm thực nghiệm, là sự giải phóng đề cao vai trò của khoa học tự nhiên, dù mới ở bước đầu khỏi ách thống trị của thần học và sự tối tăm trì trệ. Đây là mầm mống chuẩn bị cho sự sụp đổ của chủ nghĩa kinh viện và sự phát triển của triết học và khoa học tự nhiên trong thời kỳ phục hưng.
Có thể đánh giá một cách khái quát rằng sự phát triển trải qua hơn 10 thế kỷ của triết học Tây Âu thời trung cổ biểu hiện sự nghèo nàn đối với triết học cũng như các khoa học khác. Đây có thể được đánh giá là một bước “lùi” trong lịch sử triết học. Tuy vậy nhờ sự đấu tranh không khoan nhượng của Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm nên nó tạo ra tiền đề cho sự phát triển của khoa học thực nghiệm và triết học phục hưng sau này.
Chương III. CUỘC ĐẤU TRANH GIỮA CHỦ NGHĨA DUY VẬT VÀ CHỦ NGHĨA DUY TÂM THỜI PHỤC HƯNG VÀ CẬN ĐẠI.
******
3.1Vài nét về xã hội và lịch sử Tây Âu thời phục hưng cận đại:
Đây là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến bắt đầu hình thành quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa. Về kinh tế thời kỳ này có bước chuyển biến mạnh mẽ từ nền kinh tế tự túc, tự cấp sang nền kinh tế sản xuất công trường thủ công. Ở thời kỳ này có rất nhiều phát kiến địa lý cũng như nhiều sáng chế về kỹ thuật. Sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, địa lý đã tạo ra một môi trường thuận lợi, góp phần thúc đẩy công thương nghiệp phát triển.
Về xã hội diễn ra sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện và kèm theo đó là sự ra đời của giai cấp vô sản. Các cuộc cách mạng tư sản liên tiếp diễn ra đó là cuộc cách mạng tư sản Hà Lan, cuộc cách mạng tư sản Anh (1642-1648), cuộc cách mạng tư sản Pháp(1789-1794), ở Ý,ở Áo... Các cuộc cách mạng tư sản này nổ ra trên toàn Châu Âu, nó đã đẩy nhanh quá trình sụp đổ của chế độ phong kiến phương Tây và đánh dấu sự thắng lợi của một trật tự xã hội mới, xã hội tư bản chủ nghĩa. Phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa được xác lập và phát triển mạnh mẽ. Nó trở thành một xu hướng tất yếu của thời đại lịch sử và không thể ngăn cản được.
Về khoa học: khoa học tự nhiên thời kỳ này phát triển mạnh mẽ, đặc biệt là cơ học. Bên cạnh đó còn có các khoa học khác như: Toán, Vật lý, Thiên văn... cũng đạt được những thành tựu mới, đòi hỏi phải có những khái quát về mặt triết học. Trong khi đó thì Sinh vật học, Hoá học đang còn trong thời kỳ sơ khai ấu trĩ. Nên bức tranh toàn cảnh về thế giới ở giai đoạn này là bức tranh cơ học.
3.2 Về triết học :
Cuộc đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thời lỳ này diễn ra gay gắt. Ở thời kỳ này Chủ Nghĩa Duy Vật là thế giới quan của giai cấp tư sản, giai cấp tiến bộ đang trong quá trình đấu tranh để hình thành phương thức sản xuất của mình. Còn Chủ Nghĩa Duy Tâm là thế giới quan của tôn giáo, giai cấp quý tộc, phong kiến, giai cấp lạc hậu và phản động đang ra sức kéo dài cơn hấp hối của mình.
Để thấy rõ được sự đấu tranh giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thời kỳ này chúng ta có thể tìm hiểu thông qua một số triết gia tiêu biểu như Bru nô,Galiê, Bê cơn, Hôp pơ, Đê các tơ, Xpi nô đa, Lốc cơ, Béc cơ li, Hium....
Brunô(1548-1600):
Ông là một đại diện xuất sắc của chủ nghĩa duy vật vô thần: Engel đánh giá ông là một người khổng lồ về hình thức, tinh thần và tính cách. Giáo hội coi ông là tà đạo và ông đã từng bị trục xuất đi nhiều nước Châu Âu. Năm 1562 ông quay về Ý và ông bị giáo hội kết án 6 năm tù và ngày 17 tháng 02 năm 1600, ông bị toà án giáo hội thiêu sống ở “ Quảng trường hoa” La Mã.
Phạm trù trung tâm của triết học Brunô là cái duy nhất(UNO) được ông lấy từ phái Platon mới và diễn giải dưới ngôn ngữ tự nhiên thần luận của mình. UNO chính là thượng đế tồn tại dưới dạng tự nhiên. Nó là một thế giới độc lập không được tạo ra và cũng không bị tiêu diệt. Nó tồn tại vĩnh viễn. Ông đồng nhất thượng đế với tự nhiên nhưng ông chỉ thừa nhận thượng đế trên danh nghĩa và điều đó được thể hiện rõ khi ông quan niệm cái duy nhất là giới tự nhiên thượng đế chứ không phải người. Theo ông mọi sinh vật chỉ là một dạng biểu hiện của cái duy nhất. Các sự vật biến đổi không ngừng, tức là có sinh ra tồn tại và mất đi nhưng cái duy nhất lại là bất biến.
Trong triết học của Brunô có chứa nhiều yếu tố biện chứng của thời cổ đại. Ông cho rằng UNO là sự thống nhất giữa các mặt đối lập như cực đại, cực tiểu cái tối thiểu và cái tối đa, tính thống nhất và tính nhiều vẻ, khả năng và hiện thực, cái yêu đi liền với cái ghét, thuốc chữa bệnh đồng thời là cái giết người. Cái duy nhất là tất cả đồng thời cũng không là gì cả, nó tồn tại trong mọi cái đồng thời cũng không ở đâu cả.
Tư tưởng biện chứng của Brunô đã vượt xa các nhà triết học Hy Lạp cổ đại. Vì ông đã dựa trên thành tựu của toán học và cơ học của thời đại mình. Theo ông trong cái duy nhất vật chất và hình dạng không có “ vật chất đầu tiên” hay “hình dạng thuần túy” như quan niệm của Arit xtốt được ông cho rằng vật chất phải là cái tích cực, cái cổ nhất là thực tế của mọi vật còn hình dạng phải là hình dạng của vật chất.
Ông khẳng định tính thống nhất của thế giới và tính vô cùng, vô tận của nó. Ông quan niệm rằng mọi sinh vật đều nằm trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong tất thảy mọi vật. Chúng ta ở trong vũ trụ và vũ trụ nằm trong chúng ta hay ông còn khẳng định vũ trụ là một thể bao gồm vô vàn các hành trình trong đó trái đất hay mặt trời thì cũng chỉ là một trong những hành tinh ấy vì vậy không có hành tinh nào là trung tâm của vũ trụ theo nghĩa tuyệt đối của nó cả.
Nên theo ông ngoài trái đất sự sống và con người rất có thể có những hành tinh khác nữa. Đây là một quan điểm rất tiến bộ và mang tính khoa học của Brunô, thể hiện quan điểm của Chủ Nghĩa Duy Vật chống lại quan điểm của giáo hội, nhà thờ cho rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và thượng đế sinh ra trái đất.
Brunô còn xây dựng học thuyết đơn tử. Theo học thuyết này, tất cả nói chung cả vũ trụ đều được cấu tạo từ các đơn tử.
Về nhận thức luận: Brunô cho rằng đối tượng của nhận thức là giới tự nhiên và ông đánh giá thấp vai trò của nhận thức cảm tính. Theo ông hạn chế lớn nhất của cảm tính là không thấy được cái vô cùng hay, vô cùng không phải là đối tượng của cảm giác, ông đề cao vai trò của trí tuệ con ngườivà chỉ thừa nhận một chân lý do triết học và khoa học đem lại. Theo ông con đường nhận thức phải từ cảm giác đến lý trí và cuối cùng là trí tuệ.
Qua những quan điểm của Brunô ta thấy rằng ông là một đại diện tiêu biểu của Chủ Nghĩa Duy Vật thời kỳ này chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Ông đã không ngừng tuyên truyền các tư tưởng khoa học và Chủ Nghĩa Duy Vật triết học và do hoảng sợ toà án giáo hội đã thiêu sống ông. Đây là bằng chứng cho thấy cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thời kỳ này.
Phran xi Bê cơn(1561-1627) :
Ông là người dáng lập ra triết học Duy Vật Anh Bê cơn thừa nhận sự tồn tại khách quan của vật chất. Bê cơn là người phê phán gay gắt chủ nghĩa kinh viện, coi chủ nghĩa kinh viện chỉ là vô ích, chỉ là những lập luận trừu tượng không có nội dung, khoa học mới sẽ đem lại sức mạnh cho con người trong việc chinh phục thế giới tự nhiên. Để đạt được điều đó nhận thức khoa học phải dựa trên các sự kiện và từ đó khái quát thành những lý luận, phương pháp quy nạp dựa trên các quan sát, phân tích, so sánh thực nghiệm là phương pháp chủ yếu để nhận thức chân lý. Song để có được phương pháp trước hết phải loại bỏ những “nhầm lẫn” cản trở côn đường nhận thức như “ nhầm lẫn của chúng tôi”, nhầm lẫn của hang động.
Bê cơn là người đã đưa ra được các quan điểm duy vật. Ông quan niệm rằng vật chất là tổng hợp của các hạt và cho rằng giới tự nhiên là tổng hợp của các vật thể đa dạng về chất, cũng đa dạng và là thuộc tính không tách rời của vật chất. Những tư tưởng Duy Vật của Bê cơn có ý nghĩa chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo. Các Mác viết: “ ở Bê cơn con người đầu tiên sáng tạo ra Chủ Nghĩa Duy Vật còn che dấu dưới những hình thức ngây thơ, những mầm mống của sự phát triển mọi mặt. Vật chất mỉm cười với toàn bộ con người trong vẻ lộng lẫy của cái cảm tính nên thơ của nó”.(4)
Song Chủ Nghĩa Duy Vật của Bê cơn là siêu hình và không triệt để. Ông là người quá nhấn mạnh đến phương pháp quy nạp, đề cao phân tích. Tuy chống lại chủ nghĩa kinh viện nhưng ông lại thừa nhận tồn tại của thượng đế, thừa nhận lý luận về chân lý hai mặt.
Ông không giám công khai xung đột với tôn giáo. Đó chính là sự thể hiện tính không triệt để của Chủ Nghĩa Duy Vật của ông. Mặc dù triết học Duy Vật Bê cơn cũng giáng một đòn rất mạnh vào uy tín của giáo hội và tôn giáo, thể hiện sự đấu tranh mạnh mẽ của Duy Vật với Duy Tâm.
Tô Mát Hốpxơ(1588-1679):
Hốp xơ là người tiếp tục phát triển tư tưởng Duy Vật trong triết học của Bê cơn. Ông là nhà triết học nổi tiếng, là đại biểu xuất sắc của Chủ Nghĩa Duy Vật Anh thế kỷ XVII. Hốp xơ là người đã hệ thống hoá Chủ Nghĩa Duy Vật của Bê cơn và ông đã tiếp tục cuộc đấu tranh của Bê cơn cho thế giới quan khoa học và Duy Vật. Hốp xơ đã tiến hành cuộc đấu tranh rất gay gắt chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm và thần học. Ông cho rằng không có gì khác ngoài sợ hãi và ngu dốt sinh ra tôn giáo. Ông chia triết học ra thành “ Triết học tự nhiên” và “Triết học thông thường” ở mức độ nào đó ông đã đồng nhất đối tượng của triết học với đối tượng của khoa học cụ thể. Tuy nhiên cách đặt vấn đề của Hốp xơ về đối tượng và nhiệm vụ của triết học lại theo hướng tiến bộ nhằm chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Hốp xơ kiên quyết chống lại chủ nghĩa kinh viện và tôn giáo. Ông bác bỏ “chân lý hai mặt” của Bê cơn, ông phê phán học thuyết đấu tranh của Đề các tơ về “ý niệm bẩm sinh” và phát triển cảm giác luận Duy Vật trong lý luận nhận thức. Ông cho rằng cảm giác kinh viện là ngu ngốc, của mọi tri thức song ông cũng không coi nhẹ vai trò của lý tính. Hốp xơ đã phát triển tư tưởng đúng đắn cho rằng cơ sở của nhận thức là tri giác, cảm tính nhưng do hạn chế về mặt lịch sử, Hốp xơ vẫn chưa hiểu được mối quan hệ biện chứng giữa cảm tính và lý tính.
Khi nêu ra quan điểm về con người và Nhà nước Hốp xơ cho rằng con người là một thể thống nhất giữa tính tự nhiên và tính xã hội. Tính tự nhiên làm cho con người đều giống nhau về thể xác và tinh thần. Khi con người còn nằm trong trạng thái tự nhiên thì tính ích kỷ hung ác chiếm vị trí thống trị. Để khắc phục trạng thái tự nhiên, con người đi tới thoả thuận, ký kết khế ước xã hội và “trạng thái tự nhiên” chuyển sang “trạng thái xã hội”. Như vậy, Nhà nước là do nhân dân lập ra chứ không hề có nguồn gốc thần thánh.
Hốp xơ là một nhà triết học vô thần mọi lĩnh vực siêu nhiên đều bị loại ra khỏi triết học của ông. Nhưng ông không triệt để. Ông quan niệm con người và Nhà nước đều cần tôn giáo. Con người cần tôn giáo vì con người cần có lòng tin, mà tôn giáo thì đưa lại niềm tin. Còn Nhà nước tôn giáo làm cái “đầy trói buộc xã hội ”.
Tóm lại Hốp xơ là một nhà triết học Duy Vật . Ông đã nêu ra các quan điểm duy vật đấu tranh chống lại Chủ Nghĩa Duy Tâm. Qua triết học của ông chúng ta thấy rõ hơn cuộc đấu tranh gay gắt giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm thế kỷ XVII.
Rơ nê Đê Các tơ(1596-1660)
Nếu như Bê cơn và Hốp xơ chỉ ra phương pháp cơ bản của khoa học là phương pháp thực nghiệm, kinh nghiệm về thế giới tự nhiên thì ngược lại Đê các tơ lại đề cao vai trò của lý tính.
Triết học của Đê các tơ là triết học nhị nguyên luận điển hình vì ông cho rằng có hai thực thể đầu tiên tồn tại độc lập với nhau. Thực thể vật chất có quảng tính hình thành nên thế giới vật chất còn thực thể tinh thần có tư duy tạo nên thế giới tinh thần. Như vậy học thuyết vật chất và tinh thần của Đê các tơ cho thấy triết học của ông lẫn lộn giữa Chủ Nghĩa Duy Vật và Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Chủ Nghĩa Duy Vật của ông thể hiện qua học thuyết tự nhiên. Ông coi vật chất là một thực thể duy nhất là cơ sở duy nhất của tồn tại và nhận thức. Cũng như Bê cơn, Đê các tơ đề cao vai trò của tri thức trong việc thống trị giới tự nhiên trong sự hoàn thiện bản thân con người. Để đạt được điều đó theo ông cần phải nghi ngờ tất cả mọi thứ. Ông nói: “Tôi tư duy vậy tôi tồn tại” và ông cho đó là nguyên lý bất di bất dịch. Ý nghĩa của nguyên lý trên là ở chỗ nó rất tiến bộ, nó đề cao vai trò của lý trí. Nó phủ nhận tất cả những gì mà ta mê tín. Nhưng nguyên lý ấy lại biểu hiện tính chất duy tâm. Vì ông đã không nhận thấy rằng không thể tìm thấy tiền đề xuất phát của nhận thứ ngay trong nhận thức mà phải tìm từ bản thân thực tiễn xã hội.
Đê các tơ là người sáng lập ra chủ nghĩa duy lý. Chủ nghĩa duy lý của ông ở một mức độ khá lớn có quan hệ với Chủ Nghĩa Duy Tâm bởi vì theo ông lý trí của con người có “những tư tưởng bẩm sinh” độc lập với kinh nghiệm.
Tuy nhiên qua học thuyết tự nhiên của ông cũng bộc lộ những tư tưởng duy tâm: ông chưa nhận thấy được sự khác nhau về chất giữa thế giới sinh vật, coi cơ thể sống chỉ là một cỗ máy phức tạp. Ông cho rằng sự khác biệt giữa con người và động vật là ở chỗ. Con người không chỉ là một cơ thể vật chất mà còn là một thực thể có lý trí. Nhưng lí trí theo ông không phụ thuộc vào quá trình vật chất.
Nói tóm lại triết học của Đê các tơ là triết học mang tính chất nhị nguyên luận. Mặc dù mang tính chất nhị nguyên nhưng công lao vĩ đại của Đê các tơ là đã đặt ra hàng loạt vấn đề lý luận đối với sự phát triển của triết học và khoa học sau này. Và một trong những nhà tư tưởng lớn chịu ảnh hưởng của ông là Bê kê nít Xpi-nô-za.
Bê-kê-nít Xpi-nô-za (1632-1677):
Ông là một nhà triết học duy vật xuất sắc người Hà Lan và là người chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi Đê các tơ nhưng ông là người chống lại tư tưởng nhị nguyên luận của Đê các tơ và ông lại là người phát triển Chủ Nghĩa Duy Vật và chủ nghĩa duy lý của triết học Đê các tơ .
Xpi-nô-za coi giới tự nhiên như một thực thể sáng tạo duy nhất bao gồm những đặc tính cơ bản đó là:
Nó đang tồn tại trọn vẹn và đầy đủ.
Nó là thực thể tồn tại hoàn toàn độc lập.
Thực thể này là vô cùng vô tận về không gian và vĩnh hằng về thời gian.
Ông quan niệm thực thể là nguyên nhân của mọi cái đang tồn tại vì thực thể đồng nghĩa với bản chất vô tận nên thuộc tính của nó cũng nhiều vô tận. Thực thể đồng nhất với tự nhiên không chỉ ở quảng tính mà còn ở tư duy. Nếu như Đê các tơ quan niệm quảng tính và tư duy là những thuộc tính của hai thực thể khác nhau.
Thực thể vật chất và thực thể tinh thần.
Xpi-nô-za quan niệm hai thuộc tính này là cùng một thực thể thống nhất. Như vậy học thuyết nhị nguyên luận của Đê các tơ đồng thời chống lại mọi quan điểm cổ truyền của tôn giáo, cho rằng thượng đế là đấng sáng tạo ra tự nhiên và con người. Tuy nhiên học thuyết thực thể của Xpi-nô-za cũng chưa thoát khỏi tính siêu hình. Ông cho rằng thực thể là bất động, bất biến, vận động không phải là một thuộc tính vốn có của thực thể mà là một dạng thức của vận động vô tận tách rời thực thể, dùng để chuyển thực thể bất vận động thành thế giới của dạng thức vận động. Xpi-nô-za là một nhà triết học Duy Vật vô thần trong hệ thống triết học của ông, ông đã phê phán, nêu ra vai trò, bản chất và nguồn gốc của tôn giáo. Tuy vậy, ông vẫn có những hạn chế vì ông chưa triệt để tức là vẫn thừa nhận một mặt nào đó của mê tín.
Nhưng nói chung triết học của Xpi-nô-za là triết học Duy Vật vô thần, là đại biểu xuất sắc của Chủ Nghĩa Duy Vật đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái của Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Giôn-lốc-cơ(1632-1704)
Ông là một đại biểu nổi tiếng của Chủ Nghĩa Duy Vật Anh. Giôn-lốc-cơ tiếp tục kế thừa và phát triển chủ nghĩa kinh viện của phái Bê-cơn. Giôn-lốc-cơ đưa duy giác luận vào triết học. Bê-cơn là người đưa ra quan điểm mọi tri thức đều bắt nguồn từ kinh nghiệm thì Lốc-cơ phát triển thêm, mọi kinh nghiệm đều bắt nguồn từ cảm giác. Lôc-cơ hoàn toàn bác bỏ : “tư tưởng bảm sinh” mà tư tưởng, khái niệm của con người trong quá trình con người tiếp xúc với giới tự nhiên đó là căn cứ đầu tiên, có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ sự nhận thức.
Lốc-cơ là một trong những người sáng tạo ra tự nhiên thần luận vào thời bấy giờ. Tự nhiên thần luận có rất nhiều mặt tiến bộ nhưng đồng thời nó cũng mang tính chất thoả hiệp. Lốc-cơ bác bỏ những lý thuyết tín ngưỡng đương thời, phê phán những giáo lý và tổ chức giáo hội. Đồng thời ông lại thừa nhận mọi thứ tôn giáo phi lý, “tự nhiên” gọi là tự nhiên thần luận. Theo ông thần linh là một nguyên thể duy lý cao nhất sáng tạo ra thế giới và những quy luật gắn liền với thế giới nhưng sau đó thần linh không can thiệp vào thế giới mà mình sáng tạo ra.
Từ sự mâu thuẫn và thoả hiệp của Lôc-cơ đã tạo nên điểm xuất sắc khác cho hai tư tưởng đối lập nhau ra đời. Các nhà duy vật Pháp thế kỷ XVIII đã đánh giá Lốc-cơ rất cao đã phát triển duy giác luận của ông làm cho nó thoát khỏi những lớp duy tâm phủ bên ngoài. Còn các nhà duy tâm chủ quan Anh mà tiêu biểu là Béc-cơ-li đã lợi dụng những hạn chế trong duy giác luận của Lốc-cơ và đưa những yếu tố ấy đến chỗ hoàn toàn phi lý. Duy giác luận của Lốc-cơ chưa thật là Duy Vật song những đóng góp của duy giác luận của ông khá lớn trong cuộc đấu tranh của Chủ Nghĩa Duy Vật với Chủ Nghĩa Duy Tâm.
Gioóc Béc-cơ-li(1685-1753)
Ông là người đã lợi dụng sự dao động của Giôn Lốc-cơ để bảo về Chủ Nghĩa Duy Tâm và tôn giáo chống lại Chủ Nghĩa Duy Vật. Ông là đại biểu nổi bật của Chủ Nghĩa Duy Tâm chủ quan Anh.
Nhằm mục đích bảo vệ Chủ Nghĩa Duy Tâm, tôn giáo, tuyên truyền cho Chủ Nghĩa Duy Tâm thần bí. Trước tiên Béc-cơ-li đã tấn công vào Chủ Nghĩa Duy Vật. Theo ông “thực thể vật chất” là cơ sở của Chủ Nghĩa Duy Vật, nếu lật đổ được tảng đá đó thì toàn bộ Chủ Nghĩa Duy Vật sẽ bị lật đổ.
Dựa vào quan điểm duy danh Béc-cơ-li đã phê phán khái niệm vật chất. Ông cố biện bạch rằng chỉ có cái riêng lẻ, cái đơn nhất là tồn tại còn tất vả những gì phổ biến trước hết là thực thể vật chất đều bị xem là trừu tượng, trống rỗng. Sau khi phê phán gay gắt khái niệm “vật chất” của Chủ Nghĩa Duy Vật ông đã đưa ra học thuyết duy tâm chủ quan để thay thế học thuyết của Chủ Nghĩa Duy Vật, phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới. Ông cho rằng sự vật là tổng hợp của các cảm giác; cảm giác không phải là sự phản ánh sự vật mà là sự vật thực tế; xoá bỏ cảm giác đi thì sự vật biến mất. Như vậy sự vật không sinh ra cảm giác mà là cảm giác sinh ra sự vật. Sự vật là tập hợp những cảm giác, những biểu tượng mà biểu tượng chỉ tồn tại khi được tri giác. Ông cho rằng “tồn tại tức là được tri giác”.
Không những đưa ra quan điểm duy tâm chủ quan mà ông còn chuyển sang lập trường duy tâm khách quan. Ông luôn tìm mọi cách để bảo vệ Chúa. Ông cho rằng sự vật tồn tại ngay cả khi không được con người tri giác nhưng lại được chúa tri giác. Chúa là “tinh thần vũ trụ thiêng liêng”, là tinh thần vĩnh viễn, phổ biến khắp nơi. Nhận thức bao trùm tất cả mọi vật.
Từ chỗ phủ nhận sự tồn tại khách quan của thế giới vật chất Béc-cơ-li đã phủ nhận chân lý khách quan. Ông cho rằng: tìm không phải là tìm trong sự phù hợp của ý thức với sự vật bên ngoài mà là sự so sánh các quan niệm trong ý thức con người, là tính
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Khái quát chung về chủ nghĩa duy vật biện chứng & chủ nghĩa duy tâm trong triết học.doc