Khó khăn tâm lý trong giao tiếp với bạn bè của học sinh lớp 8, 9 trường trung học cơ sở Hiệp hòa, huyện Đức hòa, tỉnh Long An

MỤC LỤC

Trang phụ bìa

Lời cảm ơn

Mục lục

Danh mục các chữ viết tắt

Danh mục các bảng

MỞ ĐẦU . 1

1. Lý do chọn đề tài . 1

2. Mục đích nghiên cứu. 2

3. Đối tượng nghiên cứu và khách thể nghiên cứu. 2

4. Giả thuyết nghiên cứu . 2

5. Nhiệm vụ nghiên cứu . 3

6. Giới hạn nghiên cứu . 3

7. Phương pháp nghiên cứu. 3

8. Đóng góp của đề tài. 8

Chương 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN. 9

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề. 9

1.1.1. Ở ngoài nước . 9

1.1.2. Ở trong nước. 11

1.2. Một số khái niệm. 14

1.2.1. Khái niệm giao tiếp. 14

1.2.2. Khó khăn tâm lý. 25

1.2.3. Khó khăn tâm lý trong giao tiếp . 26

1.3. Đặc điểm phát triển nhân cách thiếu niên . 29

1.3.1. Những điều kiện phát triển nhân cách của thiếu niên . 29

1.3.1.1. Khủng hoảng ở lứa tuổi thiếu niên . 29

1.3.1.2. Đặc điểm phát triển sinh lý thể chất . 33

pdf100 trang | Chia sẻ: mimhthuy20 | Lượt xem: 1111 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khó khăn tâm lý trong giao tiếp với bạn bè của học sinh lớp 8, 9 trường trung học cơ sở Hiệp hòa, huyện Đức hòa, tỉnh Long An, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an hệ giữa trẻ và môi trường. Ông giả định rằng, sự cải tổ hệ thống những quan hệ này là nội dung chủ yếu của sự khủng hoảng của lứa tuổi thiếu niên chuyển tiếp. Quan điểm duy vật đưa ra đặc trưng và tiêu chuẩn để xác định thời kỳ phát triển hay độ tuổi cụ thể của đứa trẻ là những cấu trúc tâm lý mới, đặc trưng cho bản chất của mỗi lứa tuổi. Những cấu trúc mới ở mỗi lứa tuổi được xem như một dạng cấu tạo mới của nhân cách và hoạt động của nó. Đó là những biến đổi tâm lý xã hội, xuất hiện lần đầu tiên ở mỗi một độ tuổi nhất định, quy định ý thức của trẻ, quan hệ của nó với môi trường. Sự phát triển của trẻ trải qua từng giai đoạn, có những giai đoạn sự phát triển diễn ra chậm hoặc ít có sự biến đổi rõ rệt. Ở những giai đoạn đó, nhìn chung sự thay đổi bên trong diễn ra nhẹ nhàng, uyển chuyển, khó nhận thấy, sự thay đổi rất nhỏ trong nhân cách của trẻ. Những thay đổi đó được tích lũy đến một giai đoạn nhất định, sau đó thể hiện rõ cấu trúc mới của lứa tuổi. Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu cũng nhìn nhận thực tế rằng: có sự tồn tại của những giai đoạn khủng hoảng trong sự phát triển của trẻ - đặc trưng bởi một dạng phát triển khác – khủng hoảng. Khủng hoảng được nhiều nhà giáo dục nhìn nhận như “căn bệnh” phổ biến, là sự lệch khỏi con đường phát triển bình thường. Trong giai đoạn khủng hoảng (vài tháng, 1 năm, 2 năm), có sự biến đổi rất mạnh mẽ trong nhân cách của trẻ. Có thể xem đây là một bước ngoặc lớn trong quá trình phát triển của trẻ. Trong thời gian rất ngắn, trẻ thay đổi gần như hoàn toàn những nét cơ bản của nhân cách. 32 Theo Vưgôtxki, đặc điểm đầu tiên của giai đoạn khủng hoảng thể hiện ở chỗ: ranh giới để phân chia mở đầu và kết thúc khủng hoảng với các lứa tuổi cận kề hầu như không xác định, mặt khác tính chất căng thẳng của khủng hoảng thường diễn ra vào giữa giai đoạn lứa tuổi này. Các giai đoạn khủng hoảng đều có sự thay đổi rất lớn về thể chất và tâm sinh lý, nhờ đó mà phân biệt rõ thời kỳ phát triển ổn định và thời kỳ khủng hoảng trong quá trình phát triển của trẻ. Đặc điểm thứ hai của lứa tuổi khủng hoảng là phần lớn trẻ em trong giai đoạn này đều rất khó giáo dục. Các tác động giáo dục dường như tỏ ra không hiệu quả với trẻ. Trong giai đoạn khủng hoảng lứa tuổi thiếu niên, các em thường bướng bỉnh, khó bảo; khả năng học tập và làm việc giảm sút. Tuy nhiên, trong thực tế, những điều đó không nhất thiết phải xảy ra. Ở những đứa trẻ khác nhau, giai đoạn khủng hoảng diễn ra khác nhau. Trong thời kỳ khủng hoảng, kể cả những trẻ có hoàn cảnh xã hội giống nhau thì sự phát triển cũng khác nhau. Ở nhiều trẻ, ít thấy những biểu hiện khó giáo dục hay kết quả học tập giảm sút. Những điều kiện bên ngoài sẽ quy định tổ chức cụ thể của sự phát sinh và diễn biến của giai đoạn khủng hoảng. Sự khủng hoảng được thể hiện rất đa dạng. Nó không phải do sự thiếu vắng một điều kiện đặc biệt nào đó bên ngoài mà do logic của chính quá trình phát triển bên trong tạo sự cần thiết của các giai đoạn khủng hoảng, biến đổi trong đời sống của trẻ. Trong những thời điểm khủng hoảng, trẻ trở nên khó giáo dục bởi vì sự thay đổi của hệ thống giáo dục thường không bắt kịp sự phát triển của trẻ. Do đó đòi hỏi sự thay đổi cách giáo dục của người lớn đối với trẻ trong các giai đoạn khủng hoảng (bước ngoặc phát triển). Sự phát triển không bao giờ dừng lại và cũng chính trong các giai đoạn khủng hoảng chúng ta thấy được quá trình phát triển mang tính xây dựng theo hướng tích cực. 33 Khủng hoảng bao gồm 3 giai đoạn: tiền khủng hoảng, khủng hoảng và sau khủng hoảng. Nếu người lớn biết được, đón nhận và thay đổi thái độ, phương pháp giáo dục thì trong khủng hoảng và sau khủng hoảng sẽ là thời kỳ phát triển mạnh mẽ nhân cách của thiếu niên. Sự phát triển trong lứa tuổi khủng hoảng thể hiện ở sự xuất hiện những nét tâm lý mới mang tính đặc thù và chuyên biệt rất cao. Những cấu trúc tâm lý mới này sẽ có mặt trong sự phát triển nhân cách của trẻ ở các giai đoạn tiếp theo. Ở tuổi thiếu niên, dậy thì là giai đoạn phát triển mạnh mẽ, là thời kỳ có sự biến đổi lớn trong nhân cách. Như vậy, sự khủng hoảng trong lứa tuổi thiếu niên là sự tích lũy dần dần những điều kiện khách quan, những điều kiện của sự biểu hiện và diễn biến của thời kỳ thiếu niên được quy định bởi những điều kiện xã hội cụ thể và chính sự phát triển của các em. 1.3.1.2. Đặc điểm phát triển sinh lý thể chất Lứa tuổi thiếu niên có sự phát triển mạnh mẽ nhưng không đồng đều về mặt cơ thể: - Chiều cao và trọng lượng cơ thể của các em tăng. Các em nữ ở độ tuổi 12, 13 phát triển chiều cao nhanh hơn các em nam cùng độ tuổi nhưng đến 18, 20 tuổi thì sự phát triển chiều cao dừng lại. Các em nam ở độ tuổi 15, 16 tuổi thì cao đột biến, vượt các em nữ và đến 24, 25 tuổi mới dừng lại. - Hệ xương phát triển. Xương tay, xương chân phát triển rất nhanh nhưng xương ngón tay, ngón chân lại phát triển chậm. Vì thế, các em có vẻ lóng ngóng, vụng về, không khéo léo khi làm việc, hay làm đổ vỡ. Điều đó làm cho các em khó chịu. Các em ý thức được sự lóng ngóng vụng về của mình và cố che giấu nó bằng cách tỏ ra can đảm, không quan tâm để người khác không chú ý đến vẻ bề ngoài của mình. Sự chế giễu nhẹ nhàng về dáng vẻ bên ngoài sẽ gây ra ở các em những phản ứng mạnh mẽ. 34 - Hệ tim phát triển không cân đối. Thể tích của tim tăng rất nhanh, hoạt động của tim mạnh mẽ hơn nhưng kích thước của mạch máu lại phát triển chậm. Do đó, có một số rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn, tăng huyết áp, tim đập nhanh, nhức đầu, chóng mặt, mệt mỏi khi làm việc. - Tuyến nội tiết bắt đầu hoạt động mạnh (đặc biệt là tuyến giáp trạng), thường dẫn đến sự rối loạn của hoạt động thần kinh. Do đó, các em dễ xúc động, dễ bực tức, nổi khùng. Vì thế, ta thấy ở các em thường có những phản ứng gay gắt, mạnh mẽ và những cơn xúc động. - Ở tuổi thiếu niên, các quá trình thần kinh hưng phấn của võ não mạnh và chiếm ưu thế nên nhiều khi các em không làm chủ được bản thân, không kiềm chế được xúc động mạnh. Sự cải tổ của các cơ quan nội tiết trong mối tương quan với hệ thần kinh thường là cơ sở gây ra tính mất cân bằng chung, tính dễ kích động, dễ nổi nóng, tính uể oải và thờ ơ có chu kỳ ở các em. Đặc điểm quan trọng nhất trong sự phát triển cơ thể của tuổi thiếu niên là thời kỳ phát dục. Đây là quy luật phát triển bình thường. Sự phát dục kéo theo sự trưởng thành của cơ thể nhưng sự phát triển tâm lý xã hội chưa theo kịp. Khó khăn của thiếu niên là ở chỗ các em chưa đánh giá đúng tình cảm, hành vi của mình cũng như chưa biết xây dựng mối quan hệ đúng đắn với bạn khác giới. Sự thay đổi về thể chất của lứa tuổi thiếu niên đã làm cho các em có những đặc điểm nhân cách khác với các em ở lứa tuổi trước. Đây là lứa tuổi có nghị lực dồi dào, có tính tích cực cao và ấp ủ nhiều dự định lớn. Vì thế, các nhà giáo dục cần thấy được đặc điểm này để có cách giáo dục hiệu quả. 1.3.1.3. Sự thay đổi điều kiện sống Do sự phát triển cơ thể gần như người lớn nên tuổi thiếu niên có những biến đổi về điều kiện sống: 35 Trong gia đình, các em có những vai trò nhất định. Các em làm khá nhiều công việc giúp đỡ gia đình. Ở những gia đình có hoàn cảnh khó khăn, một số em phải tham gia lao động thực sự để góp thêm thu nhập. Cha mẹ cũng bắt đầu quan tâm đến một số ý kiến của các em, các em có quyền quyết định một số việc riêng của bản thân. Những thay đổi này đã động viên, khuyến khích học sinh trung học cơ sở phấn đấu, độc lập trong cuộc sống. Trong nhà trường, hoạt động học tập và những hoạt động khác có nhiều sự thay đổi, có tác động quan trọng đến việc hình thành những đặc điểm tâm lý của lứa tuổi thiếu niên. Bắt đầu vào học trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn học khác nhau, mỗi môn học là một hệ thống tri thức với những khái niệm trừu tượng, khái quát, có nội dung sâu sắc, phong phú, đòi hỏi các em thay đổi cách học. Do lượng tri thức được lĩnh hội tăng lên nên tầm hiểu biết của các em cũng được mở rộng. Phương pháp dạy học trong nhà trường trung học cơ sở cũng có nhiều thay đổi. Các em được học nhiều môn, nhiều thầy cô giảng dạy. Mỗi môn học có phương pháp phù hợp với bộ môn đó, mỗi thầy cô giáo có cách giảng dạy riêng. Sự khác nhau này đã ảnh hưởng đến việc lĩnh hội, đến sự phát triển trí tuệ và nhân cách của các em. Ngoài xã hội, các em được đánh giá cao hơn, các em có nhiều đóng góp tích cực cho xã hội, trực tiếp tham gia nhiều hoạt động: tuyên truyền, tình nguyện,... Hoạt động xã hội là hoạt động có tính tập thể, khi tham gia vào đó, các em có nhiều mối quan hệ giao tiếp; sự hiểu biết, vốn sống của các em được nâng lên. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển tâm lý của các em. 36 1.3.2. Đặc điểm phát triển nhân cách thiếu niên 1.3.2.1. Nhu cầu tự ý thức, tự khẳng định của thiếu niên Sự phát triển của tự ý thức là một trong những phẩm chất nhân cách nổi bật ở tuổi thiếu niên. Nó ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống tâm lý, đến học tập cũng như các mối quan hệ giao tiếp với mọi người. Khác với học sinh nhỏ, thiếu niên có nhu cầu hiểu biết những đặc điểm của bản thân, suy nghĩ và tự đánh giá về mình. Tuy nhiên, sự đánh giá này đôi lúc chưa thật sự đúng đắn, thiếu niên thường đánh giá cao năng lực bản thân so với thực tế. Trong tập thể, thiếu niên khao khát được cống hiến và thừa nhận. Sự tự ý thức nhờ đó cũng phát triển theo. Cuộc sống tập thể luôn đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi thiếu niên phải tuân thủ. Vì thế, muốn được tập thể công nhận, bạn bè yêu mến, thiếu niên phải không ngừng phấn đấu, hoàn thiện mình. Một đặc điểm rất quan trọng trong nhân cách của tuổi thiếu niên là ước muốn trở thành người lớn, được trân trọng như người lớn. Đòi hỏi của các em là người lớn phải thừa nhận “ tính người lớn của mình”. Nếu nguyện vọng này không được đáp ứng, các em sẽ phản kháng quyết liệt. Do ước muốn trở thành người lớn nên các em có khuynh hướng học ở người lớn cả tính tốt lẫn tính xấu (thí dụ: thiếu niên hút thuốc để chứng tỏ mình là người lớn). Song song đó, các em cũng rất nhạy cảm với những lời nhận xét, đánh giá của xã hội và người lớn. Tóm lại, lứa tuổi thiếu niên là lứa tuổi có nhiều biến động nhất. Đây cũng là thời kỳ có ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển của các em. Nếu người lớn có thể hướng dẫn và xây dựng những mối quan hệ tốt đẹp với thiếu niên thì sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của các em ở các giai đoạn lứa tuổi sau. 37 1.3.2.2. Đặc điểm phát triển xúc cảm - tình cảm của thiếu niên Những đặc điểm về cảm xúc – tình cảm của tuổi thiếu niên chịu sự chi phối của những yếu tố cơ bản sau: - Sự cải tổ về mặt sinh lý giải phẫu dẫn đến sự phát dục (dậy thì). - Hoạt động giao tiếp với bạn bè cùng tuổi và sự mở rộng phạm vi hoạt động xã hội trong môi trường mới. - Xu hướng vươn lên làm người lớn. Tình cảm của các em học sinh trung học cơ sở sâu sắc và phức tạp hơn các em học sinh tiểu học. Một đặc điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, kích động, vui buồn chuyển hóa dễ dàng; tình cảm còn mang tính bồng bột, dễ thay đổi. Đặc điểm này là do ảnh hưởng của sự phát dục và sự thay đổi một số cơ quan bên trong cơ thể gây nên. Bên cạnh đó, hoạt động thần kinh cũng không cân bằng, thường quá trình hưng phấn mạnh hơn quá trình ức chế khiến các em không tự kiềm chế được. Khi tham gia các hoạt động vui chơi, học tập, lao động, các em đều thể hiện tình cảm rõ rệt và mạnh mẽ. Tính dễ kích động ở các em đôi khi dẫn đến những xúc động rất mạnh mẽ như vui buồn quá trớn hay lúc thì quá hăng say, lúc thì quá chán nản. Nhiều em tâm trạng thay đổi rất nhanh chóng và dễ dàng, có lúc đang vui nhưng vì một cái gì đó lại buồn ngay hoặc đang lúc buồn bực nhưng gặp một điều gì thích thú thì lại cười tươi ngay. Do sự thay đổi tình cảm dễ dàng như thế, nên trong tình cảm của các em đôi lúc mâu thuẫn. Thí dụ, các em yêu thương, quý mến em bé này nhưng ngay lúc đó có thể dọa nạt, trêu chọc em bé khác. Đối với người già yếu, tàn tật có khi các em tận tình giúp đỡ nhưng có lúc các em lại trêu chọc, lấy đó làm trò đùa với nhau... Đặc biệt, những đặc điểm phát triển xúc cảm, tình cảm ở tuổi thiếu niên thể hiện rõ nét trong hoạt động giao tiếp với bạn bè. 38 Ở tuổi thiếu niên, giao tiếp bạn bè có ý nghĩa rất lớn. Các em dành nhiều thời gian và sự quan tâm đến những mối quan hệ bạn bè: bạn học, nhóm bạn, bạn thân, tập thể,... Càng mở rộng giao lưu bạn bè bao nhiêu thì sự thay đổi hành vi ở các em càng rõ rệt bấy nhiêu. Hành vi thay đổi dẫn đến những thói quen và cảm xúc mới. Những điều các em học được từ bạn bè có thể tốt cũng có thể xấu. Những thay đổi hành vi ở trẻ làm nhiều bậc cha mẹ lo lắng, đôi lúc có những phản ứng gay gắt. Nhưng các em vẫn thích học theo các hành vi ứng xử của bạn bè cùng tuổi hơn là các hành vi quen thuộc hàng ngày. Cha mẹ càng phản ứng gay gắt thì các em càng cố gắng lặp lại hành vi đó và chứng minh nó là đúng. Cùng với sự thay đổi hành vi ứng xử là sự thay đổi về ngôn ngữ và thói quen. Các em ở lứa tuổi thiếu niên thích thường xuyên sử dụng những từ ngữ mà bạn bè mình hay nhắc tới. Những ngôn ngữ này đôi khi chỉ có các em chơi chung nhóm với nhau mới hiểu. Hành vi ngôn ngữ thay đổi dẫn đến những thói quen và cảm xúc mới. Các em có thể thay đổi từ chỗ ít nói sang hay nói hoặc trong gia đình các em tỏ ra hiền lành nhưng khi đi chơi với bạn bè lại trở nên nhanh nhẹn, láu cá. Tất cả mọi sự thay đổi của trẻ đều có nguyên nhân. Trẻ sống trong mỗi hoàn cảnh – môi trường khác nhau cần có nhưng hành vi ứng xử khác nhau. Có như vậy các em mới hòa nhập được với nhóm bạn và không bị xem là “lạc điệu” . Ở giai đoạn thiếu niên, các em đang có những biến đổi mạnh mẽ về mặt tâm sinh lý, đang trong quá trình hình thành cái tôi lần thứ hai, các em luôn đón nhận mọi tác động và tìm xu hướng giống mình trong cuộc sống. Trong môi trường bạn bè, các em học được những điều mới mẻ, bắt đầu thấy mình lớn lên và có ước muốn được bạn bè thừa nhận, tin cậy. 39 Trong môi trường bạn bè, nếu trẻ có thể học được những hành vi tốt thì cũng có thể học được những hành vi không tốt: hút thuốc, trốn học, đánh nhau, Nghiên cứu về ảnh hưởng của bạn bè ở lứa tuổi vị thành niên, Judith Hirris – một học giả người Mỹ cho rằng: nhân cách của trẻ ở độ tuổi này chịu sự chi phối rất lớn của môi trường bạn bè. Chính vì thế, trong giai đoạn này, các bậc cha mẹ cần giúp đỡ các em cách chọn bạn: thường xuyên quan tâm đến những thay đổi về ngôn ngữ, hành vi, cách ứng xử, của trẻ để có những tác động giáo dục phù hợp, kịp thời, điều quan trọng nữa là phải đánh giá đúng sự tác động và ảnh hưởng của nhóm bạn bè để giúp các em hòa nhập vào những nhóm bạn bè tốt, hạn chế những ảnh hưởng tiêu cực từ những nhóm bạn không tốt, tạo điều kiện cho sự phát triển lành mạnh của các em. Sự phát triển dậy thì ở thiếu niên làm cho quan hệ giữa các em trai, em gái thay đổi một cách căn bản, xuất hiện sự quan tâm đến nhau, có nguyện vọng được bạn khác giới ưa thích. Do đó thiếu niên thường quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình, quan tâm tới những yếu tố gây hấp dẫn. Trong sự phát triển về thể chất và phát dục, các em gái sớm hơn các em trai 1 - 2 năm nên ở giai đoạn đầu một số em gái cao hơn, đầy đặn hơn các em trai. Thân hình thấp lúc 12, 13 tuổi thường gây ra ở em trai những cảm giác khó chịu, thua kém bạn bè. Những rung cảm tương tự cũng xảy ra tương tự ở các em gái có chiều cao, thân hình vượt hẳn so với các bạn cùng tuổi. Lúc đầu sự quan tâm tới người khác giới của nhiều em nam có xu hướng tràn lan và được biểu hiện dưới dạng hay “gây sự” với các em gái. Về sau những quan hệ này thay đổi: mất tính trực tiếp, xuất hiện tính ngượng ngùng, nhút nhát, e thẹn. Ở một số em điều đó bộc lộ rõ và trực tiếp, một số em khác được che giấu bằng thái độ thờ ơ, lạnh nhạt đối với bạn khác giới. Hành vi của những xúc cảm, tình cảm này có tính hai mặt: vừa quan tâm đến 40 nhau nhưng lại phân biệt nam nữ. Song, nhìn chung thiếu niên đều có thái độ tò mò đối với những quan hệ đang nảy sinh, đối với sự phát triển về giới của chính các em. Ở lớp 8, 9, các em nữ thường quan tâm đến vấn đề ai thích ai. Các em thường trò chuyện với nhau về vấn đề trên. Tình bạn khác giới là nguồn gốc của sự rung cảm mạnh mẽ gây ra ở thiếu niên những tâm trạng buồn rầu nhớ nhung hay tâm trạng phấn chấn, yêu đời. Đó là những cảm xúc – tình cảm diễn ra một cách tự nhiên ở tuổi thiếu niên. a) Nhu cầu có bạn tâm tình, thông cảm ở tuổi thiếu niên Nhu cầu cần có bạn tâm tình và thông cảm là nhu cầu đặc trưng, nổi bật ở tuổi thiếu niên Hoạt động giao tiếp bạn bè là hoạt động mang tính chủ đạo ở lứa tuổi này. Vị trí bình đẳng trong quan hệ bạn bè đặc biệt hấp dẫn các em. Ở thiếu niên hình thành những giá trị dễ hiểu và gần gũi với bạn bè hơn là đối với người lớn. Quan hệ bạn bè ở tuổi thiếu niên phong phú, phức tạp và có nội dung hơn so với học sinh nhỏ. Tình bạn cũng phân biệt ở những mức độ khác nhau. Đó có thể là bạn cùng học, bạn thân hay bạn rất thân. Sự giao tiếp với bạn bè vượt ra ngoài phạm vi học tập, nhà trường. Nó còn mở rộng trong những hứng thú mới, những việc làm mới, những quan hệ mới tạo thành một lĩnh vực độc lập và rất quan trọng trong đời sống của tuổi thiếu niên. Trong cuộc sống đó thiếu niên hành động và suy nghĩ, giành cho nó nhiều tâm huyết đồng thời trải nghiệm những niềm vui, nỗi buồn của thành công hay thất bại. Giao tiếp với bạn bè và sự phát triển tình bạn ở thiếu niên có giá trị rất lớn. Thiếu niên dành nhiều thời gian và tâm tư cho nó, đôi khi quên lãng cả việc học hành và mối quan hệ với người thân. Vì thế, ở lứa tuổi thiếu niên, các bậc cha mẹ thường cảm thấy con cái đang dần tách khỏi mình. Những 41 mâu thuẫn trong giao tiếp giữa thiếu niên và người lớn vì thế cũng dễ xảy ra. Điều đáng quan tâm là quan hệ của thiếu niên và người lớn càng không suôn sẻ bao nhiêu thì sự giao tiếp với bạn bè càng lớn và thuận lợi bấy nhiêu. b) Những yêu cầu trong quan hệ bạn bè ở tuổi thiếu niên có những nội dung và sắc thái mới Trong quan hệ bạn bè, thiếu niên coi trọng nhất là những phẩm chất của người bạn, đó là sự nhanh trí và kiến thức rộng, là tính can đảm và khả năng làm chủ bản thân. Trong các nhóm thiếu niên khác nhau, những phẩm chất đó được các em xếp theo thứ bậc khác nhau. Những chuẩn mực quan trọng nhất trong tình bạn của thiếu niên là: sự tôn trọng, bình đẳng, trung thành, giúp đỡ bạn, trung thực. Thiếu niên thích giao tiếp và kết bạn với nhau. Tuy nhiên, việc kết bạn là có chọn lọc. Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường rộng nhưng không bền vững, có tính chất tạm thời. Đó là thời kỳ lựa chọn, tìm kiếm bạn thân. Về sau, các em có cùng sở thích, hứng thú gắn bó với nhau, thích trò chuyện, giao tiếp với nhau. Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại nhưng quan hệ giữa các em gắn bó hơn. Trong giao tiếp, các em chịu ảnh hưởng của nhau, lúc đầu các em không thích một hoạt động nào đó nhưng dần dần các em có thể thích nó đơn giản vì người bạn mà các em quý mến cũng thích hoạt động này. Những ưu điểm của người bạn mà các em yêu thích làm cho thiếu niên nghiêm túc suy nghĩ về bản thân, các em mong muốn mình cũng có những ưu điểm như bạn. Do đó bạn bè có thể trở thành hình mẫu đối với các em. c) Trò chuyện, trao đổi tâm tư nguyện vọng giữ vị trí quan trọng trong giao tiếp của tuổi thiếu niên Trong quan hệ giao tiếp của lứa tuổi thiếu niên, trò chuyện giữ một vị trí có ý nghĩa đối với các em. Trong trò chuyện, các em trao đổi chia sẻ với nhau những điều trong cuộc sống, suy nghĩ của mình. Các em có thể kể cho nhau 42 cả những điều bí mật nhất mà đôi khi các em không kể với ai, kể cả cha mẹ và người thân trong gia đình. Vì thế, các em yêu cầu rất cao đối với bạn bè. Các em cho rằng đã là bạn thì phải hiểu, thông cảm và chia sẻ cho nhau, nhất là phải giữ bí mật cho nhau. Lý tưởng tình bạn của lứa tuổi thiếu niên là “sống chết có nhau”, chia ngọt sẻ bùi. Điều đó không chỉ là sự tuân theo một cách nghiêm ngặt “bộ luật tình bạn” mà còn là vấn đề người này thâm nhập vào mọi mặt đời sống của người kia, cùng nhau hợp tác hành động. Càng lớn lên thì sự thâm nhập về tâm hồn giữa các em càng nảy nở phát triển. Đó là sự giống nhau về đời sống nội tâm, là sự hiểu biết nhau, sự trùng hợp về những giá trị của cá nhân, về những hoài bão và quan điểm trong cuộc sống. Sự hình thành tình bạn như thế thường đi kèm với những cuộc thảo luận, tranh luận về những vấn đề trong cuộc sống. Trong quá trình tranh luận sẽ hình thành những quan điểm mà các em ý thức được đó là những quan điểm riêng, đó cũng là lúc niềm tin ở các em bắt đầu được hình thành. Tóm lại những đặc điểm xúc cảm tình cảm của thiếu niên chịu sự cho phối của nhiều yếu tố và được thể hiện rõ nét trong hoạt động giao tiếp với bạn bè. 1.4. Lý luận về khó khăn tâm lý trong giao tiếp với bạn bè của thiếu niên Khi nghiên cứu lý luận về khó khăn tâm lý của thiếu niên trong giao tiếp với bạn bè, tác giả chỉ đề cập đến một số khó khăn xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của các em, điều kiện gia đình, nhà trường và nhóm bạn. Những khó khăn này có thể xem là những “rối nhiễu” nhẹ, tạm thời, các em hoàn toàn có thể vượt qua nếu có nhận thức đúng đắn, sự cố gắng điều chỉnh cùng sự giúp đỡ của gia đình, nhà trường và bạn bè. Tuy nhiên, nếu những khó khăn này kéo dài, không được giải quyết sẽ gây ra cho các em những khó khăn lớn hơn. 43 1.4.1. Khó khăn nhận thức Khác với học sinh nhỏ, thiếu niên có nhu cầu tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về những đặc điểm của bản thân. Từ đó, tìm ra những ưu khuyết điểm của mình. Trên cơ sở đó mà thể hiện sự hài lòng hay không hài lòng với bản thân. Sự đánh giá này có thể theo hai hướng: Một là đánh giá đúng những đặc điểm của các em, chấp nhận những thiếu sót và cố gắng điều chỉnh nó. Hai là đánh giá không đúng: đánh giá quá thấp hoặc quá cao bản thân, từ đó dẫn đến những khó khăn nhất định trong giao tiếp với bạn bè. Những em đánh giá thấp bản thân thường thấy mình không có ưu điểm gì, còn những em luôn đánh giá cao bản thân thì lại thường thấy mình giỏi hơn các bạn. Nhìn chung, thiếu niên thường có xu hướng tự đánh giá mình cao hơn so với hiện thực, các em thích thổi phồng những khả năng của mình, thích chứng tỏ trước bạn bè. Để chứng tỏ với bạn bè, thiếu niên thường tỏ ra bướng bỉnh ngang tàng, thậm chí là có những hành động nguy hiểm mà các em hay nhầm lẫn là gan dạ, dũng cảm. Cũng xuất phát từ đặc điểm này, các em hay ngưỡng mộ và thích kết giao với những bạn có tính cách mạnh mẽ, “anh hùng”. Chính những suy nghĩ nông nổi và những đánh giá không đúng đó mà các quyết định của thiếu niên ít dẫn đến thành công, những thất bại nho nhỏ, những xích mích vụn vặt cũng có thể làm các em thất vọng, chán nản, dễ dẫn đến những hành vi nông nổi. Song song với những đặc điểm trên, một điểm hạn chế nữa ở tuổi thiếu niên là các em không nhận diện được những cảm xúc bản thân và nguyên nhân của nó. Một phần là do các em chưa được trang bị những kỹ năng cần thiết về vấn đề này. Bên cạnh khả năng tự đánh giá, thiếu niên thường đánh giá người khác và bạn bè. Khả năng này thường đầy đủ và chính xác hơn khả năng tự đánh giá. Thiếu niên đánh giá bạn cả về hình thức lẫn những phẩm chất bên trong. 44 Đánh giá đúng những đặc điểm đó sẽ tạo điều kiện cho quá trình giao tiếp ứng xử của các em đạt hiệu quả. Tuy nhiên không phải tất cả các em đều có khả năng này, nhất là đối với những em có khả năng thích nghi kém, không có những mối quan hệ bạn bè tốt đẹp, các em thiếu những thông tin cần thiết về bạn, vì vậy mà không lý giải được những cảm xúc, hành vi của bạn, làm cho bạn có thể hòa điệu với những suy nghĩ, cảm xúc của mình. Các em càng không thể làm bạn thay đổi nhận thức, tình cảm, hành vi theo mong muốn của mình – mục đích của giao tiếp với bạn. 1.4.2. Khó khăn cảm xúc Khó khăn cảm xúc ở tuổi thiếu niên được biểu hiện rất đa dạng, phong phú. Đó là những cảm xúc bối rối, mất tự tin, buồn chán, hụt hẫng, không kềm chế được cảm xúc, Những khó khăn này do biến động tâm sinh lý đặc trưng của lứa tuổi gây ra. Khi bước vào tuổi dậy thì, những thay đổi bất ngờ về tâm, sinh lý khiến thiếu niên cảm thấy mặc cảm về ngoại hình, thường tỏ ra rụt rè trong giao tiếp, ngại tiếp xúc với bạn bè xung quanh, bối rối trong việc xử lý những vướng mắc của mình. Từ đó, các em trở nên không hài lòng với bản thân, chán ghét chính mình và rơi những cảm xúc tiêu cực. Nếu trạng thái này diễn ra thường xuyên, thiếu niên có thể rơi vào trạng thái stress. Đây cũng là nền tảng của những chứng bệnh tâm lý khác nặng hơn như trầm cảm hay lệch lạc giới tính tuổi dậy thì, Những khó khăn cảm xúc lớn nhất xuất phát từ sự đỗ vỡ trong các mối quan hệ bạn bè, trẻ cảm thấy đơn độc, không thể hòa n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdftvefile_2013_01_21_8046378753_7594_1869296.pdf
Tài liệu liên quan