MỤC LỤC
PHẦN A NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG
CHƯƠNG I : LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU ĐỊA CHẤT VÙNG 1
CHƯƠNG II : ĐỊA TẦNG 4
CHƯƠNG III : KIẾN TẠO .9
· HỆ THỐNG ĐỨT GÃY .9
· HOẠT ĐỘNG UỐN NẾP .13
· LỊCH SỬ PHÁT TRIỂN KIẾN TẠO .13
CHƯƠNG IV : ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC KHOÁNG VẬT CỦA GIẾNG
KHOAN 2X_MỎ SƯ TỬ ĐEN.LÔ 15.1 18
CHƯƠNG V : CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH THẤM CHỨA 30
V1. QUÁ TRÌNH CO NÉN THỂ TÍCH KHI
MACMA ĐÔNG CỨNG .30
V2. QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI DO HOẠT
ĐỘNG KIẾN TẠO 31
V3. QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI DO CÁC HOẠT
ĐỘNG THỦY NHIỆT 34
V4. QUÁ TRÌNH PHONG HOÁ 35
KẾT LUẬN 39
TÀI LIỆU THAM KHẢO 40
PHỤ LỤC 41
58 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2144 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đặc điểm thạch học khoáng vật của đá móng giếng khoan 2X_lô 15.1 mỏ Sư Tử Đen và một số nguyên nhân gây ra độ thấm chứa của đá móng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều vi mảng phức tạp hơn hình thành do mảng Đông Nam Á bị đẩy trụt về phía Đông Nam trong quá trình va chạm giữa mảng Aán Độ với mảng Aâu-Á vào Đệ Tam sớm.
Theo Nguyễn Tiến Long và Sung Jin Chang, lịch sử kiến tạo từ Jura-Hiện tại chia làm 3 giai đoạn:
Giai đoạn hút chìm từ Jura muộn_ Kreta sớm
Giai đoạn chuyển tiếp từ Kreta muộn _ Paleoxen.
Giai đoạn căng giãn khu vực từ Eoxen tới hiện tại.
A.GIAI ĐOẠN HÚT CHÌM TỪ JURA MUỘN – KRETA SỚM
Giai đoạn này được đánh dấu bằng xâm nhập chủ yếu diorit thuơ6c phức hệ Định Quán trong miền vỏ lục địa Paleo-Việt Nam. Thành phần hoá học vôi kiềm của các xâm nhập này là điển hình cho đới hút chìm có liên quan đến các quá trình nóng chảy vỏ.Với sự phân bố rộng khắp các đá phun trào hệ tầng Bảo Lộc, vùng đèo Bảo Lộc là biểu hiện bề mặt đặc trưng của đới hút chìm. Hệ thống cấu trúc này có thể đối sánh với hệ thống Andes Nam Mỹ hiện tại thuộc kiểu hút chìm andean (Taylor và Hayes, 1983; Sanders 1999).Vành đai núi cực lớn được hình thành chủ yếu từ các phức hệ xâm nhập và phun trào hoạt động trong thời kì lâu dài. Các cấu trúc nén ép thường được phát triển cùng đứt gãy, khe nứt (hệ thống đứt gãy hướng Bắc-Nam và Đông –Tây cũng có thể được thành tạo trong pha này).
B.GIAI ĐOẠN CHUYỂN TIẾP KERTA MUỘN-PALEOXEN.
B.1Kreta muộn
Các đá Granit, Microgranit và Granit poocphia giàu Kali của phức hệ Đèo Cả, granit 2 Mica của phức hệ Cà Ná cùng với các đai mạch, phun trào Riolit của hệ tầng Đơn Dương và hệ tầng Nha Trang đã phát triển rộng rãi. Hoạt động macma thành phần kiềm chiếm ưu thế, cùng với sự giảm đáng kể hoạt động macma vôi-kiềm chứng tỏ hoạt động hút chìm đã ngừng. Vào cuối pha này, do vỏ trái đất có sức bền kém nên phần trung tâm đai núi bắt đầu sụt lún mạnh với sự thành tạo các đứt gãy căng giãn và các đứt gãy trượt bằng và tạo nên các cao nguyên trong đai núi. Hướng của các hệ thống đứt gãy này khó có thể dự đoán được (Sanders, 1999).
B.2 Paleoxen
Đới hút chìm ngừng hoạt động và dựng đứng dần vào Paleoxen làm tăng cường quá trình tách giãn trên các rìa Nam Trung Quốc và Nam Việt Nam, làm thay đội cân bằng lực của đai núi kiểu Andes này, lôi kéo quá trình căng giãn khu vực. Đai núi sụt lún và các bể tách giãn được thành tạo. Hướng giãn Tây Bắc-Đông Nam (vuông góc với đới hút chìm) có lẽ bắt đầu vào Paleoxen và bằng chứng là sự có mặt phong phú các đai mạch thuộc phức hệ Cù Mông và Phan Rang (hướng kéo dài 450) ở Nam Việt Nam. Các trầm tích ngoài khơi đã gặp có tuổi Eoxen nhưng chủ yếu là Oligoxen đã khẳng định sự tách giãn đã bắt đầu từ Paleoxen.
Quá trình này là hệ quả trực tiếp của hệ thống kiến tạo trước đó và có liên quan tới một đới hút chìm mới được thành tạo ở phía Nam biển Đông cổ. Đới này cắt ngang vào mảng Thái Bình Dương và hút chìm phần vỏ Đại Dương ở bể biển Đông cổ.
Trong thời kì này, hàng loạt đứt gãy hướng Đông Bắc – Tây Nam đã được thành tạo ở phía Đông bị sụt lún mạnh và căng giãn. Do kết quả dịch chuyển theo các đứt gãy này mà các khối thuộc cánh treo của chúng bị phá hủy và xoay khối mạnh mẽ. Cường độ phá hủy (nứt nẻ) cũng tăng dần về phía Đông Nam.
C.GIAI ĐOẠN EOXEN – HIỆN TẠI
C1.Eoxen
Eoxen là thời kì đầu quá trình thành tạo bồn trũng Cửu Long do tác động của các biến cố kiến tạo trong giai đoạn trước với hướng căng giãn chính là Tây Bắc –Đông Nam. Hướng này cũng bị phức tạp bởi các yếu tố kiến tạo khác. Khối Đông Nam Á bị đẩy trụt về phía Đông Nam tách khỏi mảng Aâu Á dọc theo đứt gãy Sông Hồng và bị xoay phải, do sự va chạm của lục địa Aán Độ với lục địa Aâu_Á (Tapponnier và nnk,1982). Các quá trình này gợi ý rằng các hệ thống đứt gãy trong các bể trầm tích có hướng giữa Đông Bắc và Đông-Tây. Các đứt gãy trượt bằng thường đồng hành với kiến tạo căng giãn và chúng có thể hoạt động như những đứt gãy biến dạng được định hướng vuông góc với các đứt gãy căng giãn.
C2.Oligoxen
Trong thời kì Oligoxen, đới hút chìm phía Nam biển Đông cổ tiếp tục hoạt động. Ứng suất căng giãn ở phía trước đới hút chìm làm đáy biển ở bể biển Đông cổ tách giãn theo hướng Bắc-Nam và tạo nên biển Đông (bắt đầu từ 32tr.n trước). Trục tách giãn đáy biển lấn dần về phía Tây Nam và thay đổi hướng từ Đông-Tây sang Tây Nam – Đông Bắc. Khối Đông Nam Á tiếp tục bị đẩy trụt xuống Đông Nam và tiếp tục xoay phải. Các quá trình này đã làm tăng cường các hoạt động tách giãn và đứt gãy ở bồn trũng Cửu Long.
Vào cuối Oligoxen, phần Bắc của bồn trũng bị nén ép và gây nên nghịch đảo địa phương trong các trầm tích Oligoxen cùng với một số cấu tạo lồi hình hoa. Nguyên nhân của các quá trình này còn chưa được làm sáng tỏ nhưng có lẽ do sự phát triển lấn xuống Tây Nam của trục tách giãn đáy biển Đông vào thời gian này.
C3.Mioxen sớm
Quá trình tách giãn đáy biển tiếp tục tạo nên lớp vỏ mới ở biển Đông. Trong khi đó phần vỏ biển Đông ở phía Nam lại bị hút chìm dưới cung đảo Kalimantan. Quá trình tách giãn đáy biển theo phương Tây Bắc – Đông Nam đã nhanh chóng mở rộng xuống Tây Nam và chấm dứt vào cuối Mioxen sớm do bể biển Đông cổ ngừng hoạt động. Các quá trình này đã gây ra các hoạt động núi lửa ở một số nơi, tái căng giãn, lún chìm ở bồn trũng Cửu Long làm cho biển tiến mạnh.
C4.Mioxen giữa
Lún chìm khu vực tăng cường và biển đã ảnh hưởng rộng lớn tới các vùng biển Đông. Về cuối thời kì này có một pha nâng lên, đứt gãy xoay khối và mực nước đẳng tỉnh toàn cầu thấp. Ở bồn trũng Cửu Long trong giai đoạn này, điều kiện môi trường lòng sông đã tái thiết lập ở phần trũng Tây Nam, còn phần trũng Đông Bắc là môi trường ven bờ.
C5.Mioxen muộn-hiện tại
Thời kì Mioxen muộn được đánh dấu bằng sự lún chìm mạnh ở biển Đông và phần rìa của nó mà có lẽ do kết quả giải tỏa nhiệt. Các núi lửa vẫn tiếp tục hoạt động ở phần Bắc bồn trũng Cửu Long. Plioxen là thời gian biển tiến rộng lớn và có lẽ đây là lần đầu tiên toàn bộ vùng biển Đông hiện tại nằm dưới mực nước biển. Từ Mioxen muộn đến hiện tại bồn trũng Cửu Long hoàn toàn thông với bồn trũng Nam Côn Sơn.
CHƯƠNG 4
ĐẶC ĐIỂM THẠCH HỌC,KHOÁNG VẬT CỦA GIẾNG KHOAN 2X MỎ SƯ TỬ ĐEN LÔ 15.1
I.Đặc điểm về thạch học
Thành phần thạch học của mỏ Sư Tử Đen bao gồm những loại đá chủ yếu như: Granit, Granit_biotit, đá phun trào Bazan. Nhìn chung đá có cấu tạo khối, kiến trúc nửa tự hình. Hầu hết các đá bị vỡ vụn và có nhiều đường nứt.
II.Đặc điểm về thành phần khoáng vật.
Thành phần khoáng vật của các mẫu bao gồm những khoáng vật như : Plagioclas, Fenpat, Thạch Anh, Biotit, Hocblend, và một số khoáng vật phụ : Apatit, Zircon, Sphen, quặng. Khoáng vật thứ sinh gồm : Clorit, Xerixit, Epidot, Canxit…
Khoáng vật có các đặc điểm chính như sau:
1. PLAGIOCLAS(34_37%).
Là những tinh thể lăng trụ ngắn, đôi khi đẳng thước và khá tự hình, kích thước hạt thay đổi từ 0.1 ´ 0.2_3.6 ´ 4.2mm. Hầu hết các hạt Plagioclas đều có cấu tạo song tinh đa hợp nhưng số hiệu Plagioclas chỉ có thể đo được ở một, hai tiết diện vì hầu hết các hạt bị biến đổi mạnh(xerixit hóa khoảng 60_70%) (xem ảnh 1), có hạt bị biến đổi gần như hoàn toàn. Thành phần Plagioclas được xác định theo luật song tinh anbit trên tiết diện thẳng góc với mặt (010) với góc tắt đối xứng cực đại Np^(010)=160 số hiệu Plagioclas N0 = 28_là Oligoclas. Ngoài ra một số hạt Plagioclas vừa bị Xerixit hóa còn bị Muscovit hoá và bị nứt nẻ nhiều (xem ảnh 2).
Một số hạt Plagioclas bị thạch anh thế hệ hai thay thế ở phần trung tâm hạt. Các hạt Plagioclas, Fenpat, Thạch Anh mọc xen vào nhau tạo nên kiến trúc cài răng lược. Hầu hết Plagioclas trong các mẫu đều bị nứt nẻ nhiều. Ở một số mẫu thì Plagioclas có mạch Canxit cắt ngang qua.(xem ảnh 3)
Aûnh 1 : đá Granit_biotit
Plagioclas bị biến đổi Xerixit, Kaolanh hoá
Số hiệu lát mỏng: 3803_ chụp dưới 2N+_ 3,3Ỵ4
Aûnh 2 : đá Granit_biotit
Plagioclas bị muscovit hóa, nứt nẻ
Số hiệu lát mỏng: 3803_ chụp dưới 2N+_3,3Ỵ4
Aûnh 3: đá Granit_biotit
Mạch Canxit xuyên cắt Plagioclas
Số hiệu lát mỏng: 3803_ chụp dưới 2N+ 3,3Ỵ4
2. FENPAT KALI (30_32%)
Gồm có 2 thế hệ :
Fenpat kali thế hệ 1 chiếm đa số khoảng 90% là Octhocla với hình dạng tha hình, kích thước hạt thay đổi từ 0.2 ´ 0.3_ 3.2 ´ 3.6mm. Các hạt thường mờ đục, bị lấm tấm đen dưới một nicol do bị kaolanh hoá mạnh khoảng 60_70%, có hạt bị kaolanh hoá gần như hoàn toàn. Hầu hết các hạt đều có đường nứt. Có hiện tượng Fenpat, Thạch Anh, Plagioclas mọc xen tạo ra kiến trúc cài răng lược.
Fenpat Kali thế hệ 2 chiếm khoảng 10% là Microlin, hình dạng kết tinh tương tự như Octhocla, có dạng song tinh mạng lưới nhưng rất yếu nhìn không rõ ràng, nằm gần những hạt Plagioclas tự hình hơn.(xem ảnh 4 và 5)
Aûnh 4 : Granit_biotit
Fenpat kali bị microlin hóa nhẹ, nằm gần Plagioclas tự hình hơn
Số hiệu lát mỏng: 3485_ chụp dưới 2N+ 3,3Ỵ4
Aûnh 5 : Granit_biotit
Fenpat kali bị microlin hoá yếu
Số hiệu lát mỏng: 3073_ chụp dưới 2N+ 3,3Ỵ4
THẠCH ANH(24_29%)
Gồm có hai thế hệ:
Thạch anh thế hệ một là những hạt có dạng tha hình, hơi méo mó, kích thước hạt thay đổi từ 0.1 ´ 0.2_ 2.8 ´ 3.5mm. Các hạt thạch anh hầu hết bị cà nát và nứt nẻ mạnh, tắt làn sóng mạnh. Hầu hết các đường nứt bị khoáng sét lấp đầy. Một số hạt bị mạch Canxit cắt ngang qua. Thạch anh cũng tạo thành dạng mạch xuyên cắt một số hạt Plagioclas (xem ảnh 6).
Thạch anh thế hệ hai chiếm khoảng 5_10% là những hạt tha hình, méo mó, ranh giới các hạt không rõ ràng. Kích thước các hạt này nhỏ hơn nhiều so với thạch anh thế hệ một. Hầu hết thạch anh thế hệ hai đều được hình thành ở trung tâm các hạt Plagioclas bằng cách thay thế Plagioclas.
Aûnh 6 : Granit
Mạch thạch anh xuyên cắt Plagioclas
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 2N+ 3,3Ỵ4
BIOTIT(4_8%)
Biotit có dạng hình tấm, que, các hạt bị uốn cong một cách mạnh mẽ. Có hạt bị răng cưa hai đầu. Có hạt bị nứt do hoạt động kiến tạo của khu vực xảy ra rất mạnh mẽ (xem hình 9 và 10). Kích thước hạt trung bình từ 0.1 ´ 0.2_ 3.3 ´ 3.5mm. Hầu hết các hạt biotit bị biến đổi thứ sinh mạnh : bị Clorit hóa khoảng 30_40%, bên cạnh đó còn bị epidot hoá (xem ảnh 7 và 8).
Các hạt biotit có màu nâu đỏ dưới một nicol và có đa sắc khá mạnh với công thức đa sắc Ng (nâu đậm) >Np (nâu nhạt). Hầu hết các hạt biotit đều có khoáng vật quặng phân bố kèm theo.
Aûnh 7 : Granit
Biotit bị epidot hóa, clorit hóa
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 2N+ 3,3Ỵ4
Aûnh 8: Granit
Biotit bị epidot hoá, granit hóa
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 1N- 3,3Ỵ4
Aûnh 9 : Granit_Biotit
Cụm biotit bị nứt đi cùng với tập hợp quặng sphen kém tự hình
Số hiệu lát mỏng : 3073_ chụp dưới 2N+ 3,3Ỵ4
Aûnh 10 : Granit_Biotit
Cụm biotit bị nứt đi cùng với tập hợp quặng sphen kém tự hình
Số hiệu lát mỏng : 3073_ chụp dưới 1N- 3,3Ỵ4
HOCBLEND(2_4%)
Chỉ xuất hiện rất ít trong mẫu với hình dạng chủ yếu là lăng trụ ngắn, kích thước hạt thay đổi từ 0,5 ´ 1_2 ´ 2.2mm. Màu sắc :có màu xanh lục dưới một nicol và có đa sắc. Công thức đa sắc Ng (lục sậm) > Np (vàng). Hầu hết các hạt bị Clorit hóa nhẹ 10_12%. Thường có khoáng vật quặng đi kèm. Ngoài ra, một số hạt Hocblend còn bị nứt do bị mạch Thạch anh xuyên cắt ( xem ảnh 11)
Ảnh 11 : Granit
Hocblen bị nứt bị thạch anh xuyên cắt
Số hiệu lát mỏng :3687,9_ chụp dưới 2N+ 3,3´4
KHOÁNG VẬT PHỤ
Apatit: có dạng lăng trụ lục giác kích thước trung bình 0.1 ´ 0.2mm trong suốt dưới một nicol, phân bố chủ yếu theo các hạt biotit. Dưới 1N-, chiết suất khá cao : Ng = 1.60_1.70, Np = 1.58_1.70. Hình nổi rõ. Dưới 2N+, độ lưỡng chiết rất thấp : Ng-Np = 0.002-0.006. Màu giao thoa xám, xám hơi xanh, xám trắng bậc 1.
Zircon : là những hạt nhỏ có hai chóp thường đi cùng với khoáng vật quặng và độ nổi cao. Dưới 1N-, chiết suất cao, đường viền đậm, hình nổi rất rõ ràng : Ng = 0.02-1.96; Np = 1.96-1.92; Ne = 1.968-1.993; No =1.924-1.931. Không màu, trong suốt (đôi khi hơi nâu hoặc hơi lục). Chung quanh tiết diện thường có vành phóng xạ ám khói đen rất đặc biệt. Dưới 2N+, độ lưỡng chiết rất cao. Màu giao thoa rực rỡ ở bậc 3.
Sphen : Có dạng hình thoi, thường tập trung thành cụm, kích thước hạt trung bình 0.1 ´ 0.2mm. Dưới 1N- không màu, không bị biến đổi thứ sinh, và có nhiều đường nứt, cát khai không thấy rõ. Dưới 2N+, màu giao thoa thường là vàng hơi ngả sang nâu ở bậc cao với các đốm xanh đỏ(xem ảnh 12 và 13).
Aûnh 12 : Granit
Khoáng vật Sphen bị nứt
Số hiệu lát mỏng: 3687,9_ chụp dưới 1N- 3,3´10
Aûnh 13 : Granit
Khoáng vật Sphen bị nứt
Số hiệu lát mỏng : 3687,9_ chụp dưới 2N+ 3,3´10
KHOÁNG VẬT THỨ SINH
Clorit : biến đổi dọc theo cát khai và ven rìa, đôi khi thay thế hoàn toàn biotit thành Clorit.
Epidot : là những hạt có kích thước nhỏ, phân bố dạng đám hoặc riêng lẽ trên các tiết diện Biotit hay Plagioclas. Các hạt này có màu giao thoa sặc sỡ và cao (đỏ bậc III)
Canxit : là khoáng vật thứ sinh hình thành dạng mạch xuyên cắt qua các khoáng vật khác, một số khác trám vào lổ hỗng của các khoáng vật khác.
Kaolinit là những hạt nhỏ lấm tấm đen, biến đổi trên Fenpat và chiếm tỉ lệ rất caokhoảng 30_40%.
Xerixit : những vi vảy màu vàng biến đổi trên các hạt Plagioclas và chiếm tỉ lệ cao khoảng 60_70%.
KIẾN TRÚC
Đá có kiến trúc nữa tự hình. Ngoài ra một số mẫu có hiện tượng mọc xen giữa Thạch anh, Fenpat, Plagioclas tạo ra kiến trúc cài răng lược.
CẤU TẠO
Đá có cấu tạo khối.
CHƯƠNG 5
CÁC YẾU TỐ TẠO NÊN TÍNH THẤM CHỨA
Với đặc tính thấm chứa nguyên sinh, đá móng được xem là không có triển vọng chứa dầu khí. Tuy nhiên các nghiên cứu khoa học đã cho thấy những biến đổi thứ sinh của đá móng là những yếu tố ảnh hưởng rất lớn đến tính chất thấm chứa của chúng. Như vậy, tính chất thấm chứa của đá móng được hình thành là do sự tác động tổng hợp của nhiều yếu tố địa chất khác nhau. Sau đây là một trong những quá trình chủ yếu làm biến đổi sự thấm chứa trong đá móng:
+Quá trình co nén thể tích khi macma đông cứng.
+Quá trình biến đổi do hoạt động kiến tạo.
+Quá trình biến đổi do hoạt động phong hóa.
+Quá trình biến đổi do các hoạt động thủy nhiệt.
Các quá trình này diễn ra không theo một trật tự, hay một quy luật nhất định mà thường rất phức tạp, đan xen vào nhau với những quy mô và cường độ khác nhau theo thời gian lẫn không gian.
V.1 QUÁ TRÌNH CO NÉN THỂ TÍCH KHI MACMA ĐÔNG CỨNG.
Khi các dung thể macma đông chứng thường kèm theo hiện tượng co nén thể tích bên trong cũng như bên ngoài của khối. Sự co nén thể tích này liên quan đến sự thay đổi nhiệt độ một cách đột ngột và không đồng đều, cả với dự tăng dần độ nhớt trong quá trình kết tinh.
Hiện tượng co nén thể tích xảy ra với tốc độ khác nhau ở bề mặt bên ngoài và ven rìa của khối macma sẽ co rút nhanh hơn và theo chiều sâu sự giảm thể tích vật chất macma do co nén sẽ tắt dần. Chính sự co nén thể tích như vậy đã làm xuất hiện trong đá những khe nứt và hang hốc riêng biệt. Tuy nhiên tất cả các hệ thống và khe nứt trong đá granittoit không tuân theo quy luật như trong đá bazan (những khe nứt tạo thành khối bazan trụ thể) mà hệ thống chung có dạng khác nhau do biến vị.
Theo kết quả nghiên cứu của Orpov M.A_1974, nguyên nhân làm co giảm thể tích của các thể xâm nhập granittoit là do có sự giảm thể tích của từng khóng vật tạo đá gây nên. Ở nhiệt độ biến đổi từ 6500C đến 1200C, thể tích bên trong bị co giản chiếm khoảng 2% thể tích của toàn khối. Trong đó thể tích co giãn cho từng khoáng vật riêng biệt thường gặp trong macma granitoit là : Thạch anh co giãn 1.09%, Fenpat kali : 0,28%, Plagioclas : 0,22 %,Mica : 0.11% và Hocblen : 0.07%. Như vậy những khoáng vật tạo đá chính của granitoit (Thạch anh, Fenpat kali, Plagioclas) đóng vai trò chủ đạo trong hình thành lổ hổng do co nén thể tích của khối macma. Do đó, trong quá trình đông cứng, sự co giảm thể tích sẽ là cao nhất đối với các đá có hàm lương thạch anh cao. Ngược lại các đá có hàm lượng thạch anh thấp và hàm lượng Fenpat cao thì thường ít bị co giãn hơn.
V.2 QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI DO HOẠT ĐỘNG KIẾN TẠO
Trong quá trình biến đổi đá móng thành đối tượng sản phẩm thì yếu tố kiến tạo đóng vai trò quan trọng. Các hoạt động kiến tạo đã làm đá móng biến đổi một cách sâu sắc và rộng khắp mang tính toàn khu vực.
Mỏ Bạch Hổ nói riêng và bồn trũng Cửu Long nói chung nằm trong khu vực chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các chu kỳ kiến tạo mạnh nhất vào thời kỳ tạo móng trước Kainozoi và thới kỳ tách giãn Oligoxen. Các hệ thống đứt gãy chủ yếu được hình thành sâu sắc, chúng bị nứt nẻ, dập vỡ và cà nát ở những mức độ khác nhau. Trong mẫu lõi tại nhiều giếng khoan thấy tồn tại những lớp đá móng bị vỡ vụn và cà nát rất mạnh nhiều khi đạt tới mức milonit (khả năng phục hồi lại của mẩu lõi không quá 67%). Đôi nơi gặp những đá gritoit bị vỡ nát thành những mảnh vụn có kích thước nhỏ hơn 5cm trông gần giống như dăm kết kiến tạo (Bhadravaman_402:3844.5_3845.8m…).
Bên cạnh đó, phát triển song song với các đứt gãy kiến tạo là các hệ thống khe nứt tồn tại trong đá móng theo những phương thức khác nhau. Tuy nhiên những khe nứt có hướng vuông góc với hệ thống đứt gãy chính ở mỗi khu vực là phát triển hơn cả. Trong phạm vi mẫu lõi, các nứt nẻ quan sát được có góc cắm khác nhau từ trung bình 45_700 đến sâu 80_900 với chiều rộng thay đổi từ <0.5mm tới 3cm. Ở lát mỏng, chiều dài của vi nứt nẻ thay đổi phần lớn từ 0.1_0.3mm. Hầu hết các nứt nẻ đều liên thông với nhau và hình thành những kênh nối với các hang hốc, tạo nên tính thấm rất tốt cho đá móng.
Nhìn chung, những đới có cường độ nứt nẻ và mực độ khe nứt cao thường nằm trùng vào các đới đứt gãy, phá hủy lớn (100_150 nứt nẻ/m) đặc biệt là ở đường khâu của các đứt gãy và giảm khi xa dần các đứt gãy (35_50 nứt nẽ/m đến khoảng 1.5 m ). Chiều dày của các lớp đá móng bị nứt nẻ cũng biến đổi rất mạnh từ vài cm đến vài chục m. Theo kết quả nghiên cứu địa chấn, ở phần trung tâm của cấu tạo Bạch Hổ tồn tại một số nứt nẻ với chiều rộng 1_2 km, dài 4_8 km và sâu hơn 1 km kể từ bề mặt móng.
Song song với các nứt nẻ liên quan với đứt gãy là các nứt nẻ liên quan đến sự có mặt của các lớp trầm tích mới. Sự tích lũy trầm tích mới phủ không đều lên trên cấu tạo (bên cánh thường được tích lũy nhiều hơn phần vòm) dẫn đến lực nén địa tỉnh không đều và hình thành vết nứt thẳng đứng hay hơi nghiêng.
Ở cấu trúc Tây Bạch Hổ, đứt gãy nghịch đã nâng khối đá móng nhô cao và kề áp lên trên lớp trầm tích phủ Oligoxen. Do sự co giản thể tích của các trầm tích vụn và sét diễn ra liên tục trong quá trình Diagenese đã tạo ra những khoảng rỗng phía bên dưới của khối móng. Khoảng rỗng càng lớn thì sập lỡ trọng lực, phá vỡ khối móng càng mạnh, xuất hiện các khe nứt mới và cũng đồng thời mở rộng các khe nứt cũ.
Ngoài ra, sự bóc vỏ do phong hóa bề mặt khi khối macma nhô lên mặt đất tiến tới giảm tải trọng lực ở phần vòm nhanh hơn phần cánh, đã tạo nên các nứt nẻ, đó là kết quả của sự thoát trọng lực của các lớp bên trên.
Quá trình nứt nẻ, cà nát và vỡ vụn tuy không làm thay đổi thành phần nhưng lại làm biến đổi khá mạnh mẽ kiến trúc, cấu tạo và đặc biệt tính vật lí thạch học của đá móng. Mức độ nứt nẻ, vỡ vụn của đá móng phụ thuộc chủ yếu vào cường độ hoạt động kiến tạo của từng khu vực. Ngoài ra nó còn phụ thuộc khá nhiều vào thành phần khoáng vật của đá móng. Trong cùng một điều kiện bị tác động bởi các lực kiến tạo như nhau thì những đá chứa nhiều các khoáng vật có tính mềm dẻo như Fenpat và Mica sẽ ít bị vỡ vụn và nứt nẻ bằng những đá chứa nhiều khoáng vật có tính chất cứng và giòn như Thạch anh.
Như vậy, có thể nói rằng tất cả những biến đổi của đá móng nói trên đều là kết quả của các hoạt động kiến tạo diễn ra mạnh mẻ khu vực. Những biến đổi này là điều kiện thuận lợi cho các hoạt động thủy nhiệt, phong hóa diễn ra nhanh mạnh hơn góp phần biến đổi đá móng thành đá chứa có tiềm năng. Mật độ, cự ly dịch chuyển, các kiểu nứt nẻ là những yếu tố chính chi phối cường độ phong hóa và mức độ biến đổi của đá.(xem ảnh 9 và10).
V.3 QUÁ TRÌNH BIẾN ĐỔI DO CÁC HOẠT ĐỘNG THỦY NHIỆT
Hoạt động thủy nhiệt cũng là một trong những tác nhân quan trọng làm biến đổi sâu sắc thành phần cũng như đặc tính thạch học của đá móng.
Trong các dung thể macma nóng chảy đều có chứa một lượng hơi nước nhất định, với các khối granitoit nóng chảy thì thường chứa tới 7% lượng hơi nước. Trong quá trình kết và đông cứng của macma, khối lượng hơi nước được tách ra và trở thành các dung dịch khoáng hóa thủy nhiệt, chúng di chuyển tuần hoàn trong khối. Thêm vào đó, dung dịch thủy nhiệt cũng được hình thành do đốt nóng nước ngầm với sự tham gia của dòng nhiệt dưới sâu vào cấu trúc địa chất chứa nước (kiến tạo phá hủy thời kì Kainozoi đảm bảo xuyên sâu vào khối đá khối lượng lớn nước mưa và nước ngầm). Hành trình di chuyển, cường độ phạm vi và hoạt động cũng như mức độ ảnh hưởng của các quá trình thủy nhiệt có liên quan chặt chẻ đến mức độ phá hủy, nứt nẻ cũng như thành phần ban đầu của đá móng.
Các hệ thống đứt gãy và khe nứt là những đường dẫn rất thuận lợi để cho các dung dịch khoáng hóa thủy nhiệt từ dưới sâu đi lên hoặc hoạt động tuần hoàn trong khối đá móng. Hoạt động thủy nhiệt xảy ra với cường độ mạnh nhất tại các khu vực mà ở đó đá móng bị cà nát và phá hủy rất mạnh.(xem ảnh 2).
Trong giai đoạn đầu, các dung dịch thủy nhiệt có độ linh động lớn bởi nồng độ khoáng hóa còn thấp. Trên con đường di chuyển và hoạt động, các dung dịch thủy nhiệt có xu hướng hòa tan mạnh mẽ các khoáng vật kém bền vững (như Fenpat và các khoáng vật màu). Kết quả của sự hòa tan đó đã tạo ra những lổ rỗng dạng hang hốc và vi hang hốc có kích thước và hình dạng rất khác nhau. Trên mẫu lõi của đá móng của nhiều giếng khoan thấy có mặt các lổ hang hốc có đường kính 1_2 mm đến 15_20 mm. Kèm theo đó các khe nứt mở ban đầu ngày càng mở rộng ra do sự hòa tan những khoáng vật ở hai bên thành của khe nứt. Như vậy, đá móng ở giai đoạn đầu của quá trình thủy nhiệt cho khả năng thấm chứa cao do tác dụng hòa tan của các dung dịch thủy nhiệt.
Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động dung dịch thủy nhiệt ngấm dần vào đá và ở đó xảy ra những phản ứng hóa học giữa một số khoán