Khóa luận Đất mỏ xưa và nay

Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu là một đơn vị khai thác than lộ thiên của vùng than Đông bắc Tổ quốc, được thành lập từ tháng 8 năm 1960, từ những năm 1990 tới nay, đặc biệt là giai đoạn 10 năm (1996 - 2005), Công ty CP Than Cọc Sáu đã tiến hành đồng bộ các giải pháp đổi mới tổ chức, quản lý chỉ huy điều hành, đổi mới công nghệ, đầu tư thiết bị áp dụng chọn lọc những tiến bộ và sự năng động của cơ chế thị trường, phát huy sức mạnh tập thể, chấp hành sự lãnh đạo của Đảng.

doc44 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2033 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đất mỏ xưa và nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Các phương pháp khai thác chất liệu để thực hiện một phóng sự tài liệu truyền hình. Phương pháp trực tiếp: Đây là phương pháp ra đời sớm nhất, được sử dụng nhiều nhất trong tất cả các thể loại nói chung. Phương pháp này đảm bảo tính chân thực cao nhờ ghi lại được những hình ảnh của người thật, việc thật đang diễn ra trong cuộc sống. Đây là phương pháp dễ thực hiện và có hiệu quả nhất, nhưng lại khó sử dụng trong các loại phim về đề tài lịch sử hoặc tái hiện quá khứ. Phương pháp gián tiếp: Thông qua tĩnh vật ( thư từ, ảnh chụp, hiện vật….) thường được sử dụng với phương pháp trực tiếp, đặc biệt hiệu quả khi cần tái hiện những sự kiện, hoặc vấn đề đã qua, quá khứ của một nhân vật hoặc những người quá cố… Các chi tiết, tĩnh vật được cân nhắc, lựa chọn và sử dụng một cách đúng mực, tránh cảm giác thiếu chân thực hay lạm dụng, dẫn đến việc giảm bớt tính thuyết phục cho người xem. Dựng các tư liệu cũ: Sử dụng tư liệu cũ từ nhiều nguồn khác nhau ( phim thời sự, tư liệu, ảnh chụp…) theo quan điểm riêng của tác giả, kết hợp với lời bình được viết lại, tạo nên một ý nghĩa hoàn toàn mới, sáng tạo so với ý nghĩa ban đầu của tư liệu. CHƯƠNG II VÀI NÉT VỀ GIAI CẤP CÔNG NHÂN VÀ ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN MỎ Sơ lược về lịch sử hình thành và phát triển của công nhân mỏ Việt Nam Trước thế kỷ XV, Việt Nam chưa có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển công, thương nghiệp và kinh tế hàng hoá, nhưng đã có tầng lớp thợ thủ công. Sang thế kỷ XV, XVI đội ngũ “những người lao động làm thuê” đã xuất hiện. Đầu thế kỷ XIX, ngành khai mỏ phát triển và hàng ngàn “thợ” mỏ làm việc trong các mỏ khai thác than, thiếc. Nhưng đó chưa phải là công nhân hiện đại, sản xuất trong dây chuyền công nghiệp. Đội ngũ công nhân Việt Nam xuất hiện khi có cuộc khai thác thuộc địa lần thứ I (từ năm 1897 đến năm 1914) của thực dân Pháp. Khu công nghiệp tập trung ở Hà Nội, Sài Gòn, Hải Phòng, Nam Định, Vinh - Bến Thủy, Hòn Gai đã làm cho số công nhân tăng nhanh... Số lượng công nhân năm 1906 là 49.500 người trong đó có 1.800 thợ chuyên môn. Nhiều xí nghiệp tập trung đông công nhân như: Xi măng Hải Phòng có 1.500 người, 3 nhà máy dệt ở Nam Định, Hải Phòng, Hà Nội cũng có 1.800 người, các nhà máy xay xát ở Sài Gòn có tới 3.000 người, riêng trên các tuyến đường sắt Vân Nam - Hải Phòng đã thu hút tới 6 vạn người. Ngành mỏ (năm 1914) có tới 4.000 thợ, đó là chưa kể số “thợ theo mùa”. Tổng số công nhân Việt Nam tính đến trước chiến tranh thế giới lần thứ I có khoảng 10 vạn người. Sau khi chiến tranh thế giới lần thứ I kết thúc, thực dân Pháp tiến hành cuộc khai thác thuộc địa lần thứ II (1919-1929) nhằm tăng cường vơ vét, bóc lột nhân dân thuộc địa để bù đắp những tổn thất trong chiến tranh. Sự phát triển của một số ngành công nghiệp khai khoáng, dệt, giao thông vận tải, chế biến... dẫn đến số lượng công nhân tăng nhanh, công nhân mỏ và công nhân đồn điền nhiều nơi tập trung hàng vạn người. Ở các thành phố, nhiều nhà máy đã có trên 1.000 công nhân như nhà máy Xi măng Hải Phòng, nhà máy Dệt Nam Định. Đến cuối năm 1929, tổng số công nhân làm việc trong các doanh nghiệp của tư bản Pháp là hơn 22 vạn người, trong đó có 5,3 vạn thợ mỏ, 8,6 vạn công nhân các ngành công thương nghiệp, 8,1 vạn công nhân các đồn điền trồng cây công nghiệp. Đó là chưa kể đến những người làm ở xí nghiệp thủ công lớn, nhỏ, thợ may, thợ cạo, thợ giặt, bồi bếp, khuân vác ở hải cảng... Từ cuối thế kỷ XIX các mỏ khoáng chất đã ra đời, trong đó có Công ty Than Bắc kỳ được thành lập năm 1888 là tập đoàn tư sản lớn nhất của thực dân Pháp và cũng từ đây vùng mỏ Quảng Ninh trở thành khu công nghiệp lớn và quan trọng nhất ở Việt Nam và Đông Dương. Đội ngũ công nhân mỏ than cũng từ đây được hình thành và dần dần trở thành lực lượng công nhân công nghiệp trong giai cấp công nhân Việt Nam. Như vậy, từ sự đầu tư vào công cuộc khai thác thuộc địa của thực dân Pháp dẫn tới sự ra đời tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam. Và đó cũng là điều kiện cơ bản làm xuất hiện một giai cấp mới - giai cấp công nhân Việt Nam, trong đó có tầng lớp công nhân mỏ. Đặc điểm của công nhân mỏ xưa và nay. Tầng lớp công nhân mỏ ở nước ta có những đặc điểm chung của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là: Đa số công nhân nước ta có nguồn gốc xuất thân từ nông dân. Trong số 27.505 công nhân, đồn điền, thợ mỏ ở 15 tỉnh Bắc Kỳ vào năm 1929 thì có tới 24.658 người là nông dân (chiếm 84,6%). Sớm tiếp thu truyền thống anh dũng bất khuất, chống giặc ngoại xâm của dân tộc, giai cấp công nhân Việt Nam đã hăng hái đấu tranh với tư bản Pháp. Tuy nhiên, phần lớn các cuộc đấu tranh còn tản mạn và tự phát, thiếu tổ chức lãnh đạo và chỉ tập trung vào đòi quyền lợi kinh tế, quyền sống trước mắt, với các hình thức như: bỏ việc về quê, lãn công, đòi tăng lương, chống đánh đập. Tiêu biểu là cuộc đấu tranh của công nhân đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn, công nhân mỏ thiếc - kẽm Cao Bằng, gạch Yên Thế, dệt sợi Nam Định. Song cũng có một số cuộc đấu tranh của công nhân có tinh thần dân tộc cao như phong trào đấu tranh ủng hộ nghĩa quân Yên Thế, tham gia biểu tình đòi thả nhà yêu nước Phan Bội Châu, phong trào để tang nhà yêu nước Phan Chu Trinh..., trong cao trào yêu nước những năm 1925-1926 ở Sài Gòn. Công nhân mỏ xuất thân từ những người nông dân nghèo khổ ở các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ bị địa chủ phong kiến và bọn cường hào gian ác áp bức bóc lột phải ra mỏ làm phu kiếm sống. Một số khác là anh em thợ thủ công bị thất nghiệp phiêu bạt ra đất mỏ làm ăn. Những người thợ mỏ mang trong lòng nỗi nhục của người dân mất nước phải làm nô lệ và mối căm thù bọn tay sai phong kiến nên ý thức phản kháng luôn luôn sục sôi trong trái tim họ khi có thời cơ và có hạt nhân lãnh đạo, họ sẵn sàng vùng lên đấu tranh. Công việc khai thác mỏ lúc này hoàn toàn là thủ công hết sức nặng nhọc vất vả. Mỗi ngày thợ phải làm từ 10 đến 12 giờ tiền lương ít ỏi, cuộc sống cơ cực lại thường xuyên bị bọn cai ký đánh đập bớt xén. Điều kiện ăn ở sinh sống rất lầm than. Họ không có con đường nào khác là phải đấu tranh đòi chủ mỏ tăng lương cải thiện điều kiện làm việc. Từ khi chủ nghĩa Mác-Lênin được truyền bá vào Việt Nam, số lượng các cuộc bãi công ngày một tăng và quan trọng hơn là bãi công có tính chất chính trị, có tổ chức lãnh đạo. Nếu như năm 1927 có 7 cuộc bãi công thì năm 1929 có đến 24 cuộc, năm 1930 là 30 cuộc với số lượng người tham gia lên đến ngót 32.000 người. Sự phát triển mạnh mẽ của phong trào công nhân và phong trào yêu nước từ năm 1925 đến năm 1929 là một điều kiện quyết định sự ra đời các tổ chức Cộng sản và Công hội Đỏ ở Việt Nam, đặc biệt là sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam vào đầu năm 1930. Nét khác biệt lớn nhất là tư duy quản lý sản xuất, kinh doanh của thợ mỏ đã thay đổi. Ngày nay, đến nơi làm việc người thợ biết mình sẽ làm gì và được bao nhiêu tiền chứ không như trước đây chỉ biết làm ra mà không quan tâm xem có tiêu thụ được không? Người thợ mỏ hôm nay có sức khoẻ tốt, tri thức tốt, có đời sống vật chất, tinh thần lành mạnh. Vì vậy, mà họ luôn sáng tạo trong lao động, dám đương đầu với thử thách, vượt khó đi lên. Đặc biệt họ thích nghi nhanh với công nghệ sản xuất mới như chống lò bằng giàn chống thuỷ lực, khấu than bằng máy trong hầm lò; khai thác lộ thiên sử dụng phương pháp nổ mìn hiện đại kết hợp với các loại ô tô có trọng tải từ 35-96 tấn và máy xúc thuỷ lực gầu ngược có dung tích 12m3/gầu để vận chuyển than, đất đưa năng suất lao động  tăng gấp đôi, gấp ba. Năm 2007, sản lượng than đã tăng gấp hơn 6 lần, tổng doanh thu tăng gấp 9 lần, thu nhập bình quân của người lao động tăng 5 lần so với 10 năm trước đây. Chỉ tính riêng Công ty Than Vàng Danh có trên 500 người có thu nhập từ 6-7 triệu đồng/tháng. Đời sống văn hoá tinh thần của người lao động được đặc biệt quan tâm. Các nhà ăn, khu tập thể công nhân được xây dựng, cải tạo, mở rộng. Công nhân đi làm có xe ca đưa đón, thợ lò và những nghề có tiếp xúc với các hoá chất độc hại được trang bị đầy đủ dụng cụ phòng hộ. Nhiều khu vực sản xuất đã được lắp đặt máy điều hoà, nhà tránh nắng, tưới nước, phun sương dập bụi. Đa số các đơn vị trong Tập đoàn đều đã xây nhà tắm nước nóng, phòng xông hơi và giặt sấy quần áo BHLĐ, ủng đi lò. Nhiều công ty còn tổ chức đưa cơm hộp tới tận nơi sản xuất hoặc tổ chức ăn tự chọn với chất lượng cao, góp phần cải thiện rõ rệt điều kiện ăn, ở của người lao động. Hầu hết các đơn vị đều đã có sân vận động, nhà thi đấu, nhà sinh hoạt văn hoá thể thao, văn hoá công nhân cùng hệ thống các câu lạc bộ, thư viện... Hàng năm, trên 90% CNLĐ trong các doanh nghiệp được đi tham quan du lịch, và khám sức khoẻ định kỳ. Như vậy, ngày nay, công nhân mỏ đã nhận được sự quan tâm rất lớn từ phía Đảng và Nhà nước, trên nền tảng truyền thống huy hoàng của công nhân mỏ, họ vẫn đang ngày đêm say sưa lao động để sản xuất ra vàng đen của Tổ quốc. CHƯƠNG III SƠ LƯỢC VỀ CÔNG TY CỔ PHẦN THAN CỌC SÁU VÀ CÔNG TY THAN MÔNG DƯƠNG 1. Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu Công ty Cổ phần Than Cọc Sáu là một đơn vị khai thác than lộ thiên của vùng than Đông bắc Tổ quốc, được thành lập từ tháng 8 năm 1960, từ những năm 1990 tới nay, đặc biệt là giai đoạn 10 năm (1996 - 2005), Công ty CP Than Cọc Sáu đã tiến hành đồng bộ các giải pháp đổi mới tổ chức, quản lý chỉ huy điều hành, đổi mới công nghệ, đầu tư thiết bị áp dụng chọn lọc những tiến bộ và sự năng động của cơ chế thị trường, phát huy sức mạnh tập thể, chấp hành sự lãnh đạo của Đảng. Năm 1995 khai thác than cua công ty mới chỉ xuống sâu ở mức 60 m so với mực nước biển; công nghệ khai thác trước thời điểm này chỉ là áp dụng công nghệ tầu hút bùn thuê ngoài giải quyết sự cố đáy mỏ, khai thác chủ yếu bằng thiết bị cơ điện do Liên Xô chế tạo. Chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật thực hiện năm 1995 chỉ là 1,5 triệu tấn than, đất bóc 4,8triệu m3, tổng doanh thu 18 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế 9,5 tỷ đồng, các khoản nộp ngân sách 30 triệu đồng, tổng quỹ tiền lương 27,9 tỷ, thu nhập bình quân hơn 600 nghìn đồng/người/tháng, năm 1995 cũng là năm vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản lớn lên, đến 72 tỷ đồng. Đến năm 2002 vốn đầu tư mới đã vượt con số này. Đây là sự quan tâm rất đúng mức của Tổng công ty than Việt Nam lúc đó đối với tiến độ phát triển của Than Cọc Sáu, mở đầu bằng việc đổi mới công nghệ khai thác xuống sâu cho những năm sau này như trang bị máy súc thuỷ lực PC của Nhật, CAT của Mỹ và máy khoan chủ lực; hệ thống bơm nước moong lên thẳng. Bên cạnh đó, công ty còn có những sáng kiến cải tiến kỹ thuật và các giải pháp mang lại hiệu quả kinh tế lớn làm lợi từ vài trăm triệu tới nửa tỷ đồng đã được áp dụng như: Cải tạo lắp đặt hệ thống sàng và dùng băng tải để vận chuyển than lên ô tô; khoan thêm lỗ tiết lưu giảm xóc…Công tác khoán chi phí và quản trị chi phí được giao đến tổ sản xuất với quy chế khen thưởng phân minh, đã phát huy được tính tích cực đem lại hiệu quả lớn trong kinh doanh. Từ năm 2001 tới nay, công tác này đã thành nền nếp, tiết kiệm được chi phí từ 12 đến 15 tỷ đồng một năm. Công tác bảo vệ sức khoẻ phòng chữa bệnh cho công nhân viên được đặc biệt quan tâm. Hàng năm, công ty luôn tổ chức khám sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên trong công ty. Mặt khác, hàng năm, công ty luôn duy trì và tổ chức các hội diễn văn nghệ và các giải thể thao như: bóng đá, cầu lông, cờ tướng, vật, điền kinh, bóng bàn…10 năm giữa lòng than Việt Nam, công ty than Cọc Sáu đã có những bước phát triển nhảy vọt về tăng trưởng kinh tế, kỹ thuật công nghệ đào sâu đáy mỏ cũng như công tác quy hoạch, huấn luyện, đào tạo bổ sung kiến thức lý thuyết về tay nghề cho cán bộ công nhân. Hiện nay, công ty đang tích cực đẩy mạnh biện pháp hữu hiệu nhất để thực hiện kế hoạch cả năm là bóc xúc 20,5 triệu m3 đất đá; khai thác 3 triệu tấn than, tổng doanh thu 768 tỷ đồng; lương bình quân thu nhập không dưới 3,1 triệu đồng/người/tháng. 2. Công ty Than Mông Dương. Công ty than Mông Dương là một đơn vị có điều kiện kỹ thuật mỏ địa chất vào loại phức tạp nhất ở vùng than Quảng Ninh. Hơn ai hết, những người thợ mỏ Mông Dương hiểu điều này bằng cả mồ hôi nước mắt và cả máu. Vì thế, hơn 20 năm hoạt động sản xuất kinh doanh, Mông Dương luôn trong tình trạng khó khăn chồng chất, đời sống vô cùng thiếu thốn. Nhưng những khó khăn đó giờ đã lùi vào quá khứ, Công ty Than Mông Dương đã có những bước tiến dài, có thể nói là lập một kỳ tích trong sản xuất kinh doanh cũng như nâng cao đời sống công nhân viên chức. ĐỔI MỚI CÔNG NGHỆ Điều kiện địa chất vô cùng phức tạp. Hệ thống kỹ thuật hạ tầng phục vụ đã đến lúc xuống cấp, hậu quả của nạn sản xuất than thổ phí để lại hết sức nặng nề. Công ty đã tập hợp đội ngũ cán bộ kỹ thuật, tranh thủ mọi sự giúp đỡ của bạn bè, các chuyên gia trong và ngoài nước, nhanh chóng đầu tư áp dụng công nghệ mới ở tất cả những nơi có điều kiện khả năng cho phép. Đó là công nghệ đào lò cơ giới hoá đồng bộ máy đào lò AM – 50, công nghệ chống lò bằng thuỷ lực và cột thuỷ lực đơn ở tất cả các lò chợ có điều kiện. ĐỔI MỚI CÔNG TÁC QUẢN LÝ ĐIỀU HÀNH Khi công nghệ thay đổi, yêu cầu một phương pháp và hệ thống điều hành phù hợp, các chế độ chính sách đối với người lao động cần có tính khuyến khích cao nhằm khai thác được tiềm năng trong cán bộ công nhân viên. Công ty đã tổ chức sắp xếp lại bộ máy quản lý, đổi mới công tác điều hành chỉ huy sản xuất. Các kế hoạch tác nghiệp được làm hàng tuần chủ động với tình huống luôn biến động của điều kiện địa chất và chủ động trong cấp phát vật tư kỹ thuật. ĐỔI MỚI CÁC ĐIỀU KIỆN PHỤC VỤ CHO SINH HOẠT, SẢN XUẤT VÀ MÔI TRƯỜNG. Cải thiện đời sống và làm việc cho người lao động là việc được công ty hết sức chú ý như ăn, ở, tắm giặt, đi lại làm việc. Công ty đã tập trung tìm nguồn nước, cải tạo và đầu tư hệ thống làm sạch nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt, cải tạo và đầu tư hệ thống tầu điện chở người, xe ô tô đưa đón công nhân đến những nơi cần thiết; cải tạo nhà giao ca công trường phân xưởng. Hướng đi trong những năm tới, công ty than Mông Dương phải tiếp tục đối mặt với những khó khăn thách thức không nhỏ. Đó là điều kiện khai thác ngày một khó khăn, tầng -100 đã sắp kết thúc, đã đến lúc phải xuống tầng dưới, trước mắt là -250 và tầm nhìn -550, giá cả thị trường lại liên tục biến động trong khi giá than không tăng được. Tuy nhiên, với những biện pháp khắc phục cụ thể và chiến lược đầu tư lâu dài, Công ty Than Mông Dương sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong thế bền vững trong những năm tiếp theo. CHƯƠNG IV QUY TRÌNH THỰC HIỆN PHÓNG SỰ TÀI LIỆU TRUYỀN HÌNH “ĐẤT MỎ XƯA VÀ NAY” Tìm hiểu đề tài và kịch bản dự kiến Đề tài: Nhân dịp Tập đoàn Than – Khoáng sản Việt Nam đang gắng sức thi đua và lập thành tích hướng tới kỉ niệm 72 năm ngày truyền thống công nhân mỏ (12/11/1936 – 12/11/2008) và với thực tế hiện nay, ngành Than đang là một điểm “nóng” trong nền kinh tế thị trường không chỉ bởi cảnh quan Hạ Long đang được bình chọn trên toàn thế giới mà ngành Than, đặc biệt là khu mỏ Quảng Ninh hiện đang được cả nước quan tâm và hướng về từ nhiều vụ sập hầm lò, việc buôn bán than thổ phí, lậu than qua biên giới… Bản thân em lại sinh ra, lớn lên và rất tự hào về vùng đất mỏ này nên em quyết định lựa chọn đề tài này cho Khoá luận tốt nghiệp của mình. Khi xác định được đề tài mình sẽ thực hiện, lựa chọn giữa hai hướng triển khai: - Làm về chân dung người công nhân mỏ làm việc tại hầm lò - Làm chung về tinh thần công nhân mỏ, cụ thể là tại vùng mỏ Quảng Ninh Xét thấy những khó khăn trước mắt nếu thực hiện theo hướng Phóng sự chân dung: nhân vật thường xuyên bận, không đủ thời gian để hiểu về gia đình, người thân, đặc điểm, tính cách… Công việc sẽ đòi hỏi phải thường xuyên ở tại Quảng Ninh trong thời gian dài. Mặt khác, tiếp cận công nhân hầm lò sẽ rất khó khăn, vì điều kiện an toàn nên lãnh đạo Công ty Than Mông Dương không cho phép tác giả được ở dưới hầm quá lâu. Chính vì thế, khi đi tìm hiểu và khai thác kĩ hơn các tư liệu, thì được hiểu biết nhiều hơn về tinh thần bất khuất kiên cường của công nhân mỏ từ xưa đến nay. Đồng thời cũng cảm thấy được lòng tự hào và nể phục sâu sắc đối với những công nhân mỏ. Cho nên, em chọn hướng đi thứ 2: Làm về tinh thần bất khuất của công nhân mỏ trong mọi thời đại, mọi hoàn cảnh. Kịch bản Thể loại: Phóng sự tài liệu. Tên tác phẩm: “Đất mỏ xưa và nay” Đối tượng phản ánh: Công nhân mỏ than lộ thiên và hầm lò tại vùng than Quảng Ninh, cụ thể là Công ty Than Cọc Sáu và Công ty Than Mông Dương. Nhân vật liên hệ để tìm hiểu thông tin và ghi hình: Ban giám đốc Công ty Than Cọc Sáu và Công ty Than Mông Dương, Đài Phát thanh - Truyền hình Tỉnh Quảng Ninh, anh hùng lao động Vũ Xuân Thuỷ - 74 tuổi và các cán bộ công nhân viên chức tại hai công ty. 2. Quy trình thực hiện phóng sự tài liệu truyền hình: “Đất mỏ xưa và nay” 2.1. Liên hệ tìm hiểu thông tin Khi đã lựa chọn được đề tài và được sự ủng hộ, động viên của Giảng viên hướng dẫn là PGS.TS Dương Xuân Sơn, tôi đã lần lượt tiến hành các bước liên hệ và tìm hiểu thông tin như sau: - Trong quá trình thực tập và làm việc, luôn quan sát và tranh thủ mọi điều kiện thuận lợi để ghi được thật nhiều chất liệu cho phóng sự. Bởi xác định, đây không phải là những chất liệu có thể quay lúc nào cũng được cho nên xác định thời điểm đầu tư thời gian nhiều nhất để thu thập hình ảnh và tư liệu. - Khi có những thay đổi chủ quan và khách quan, thuận lợi hoặc khó khăn, tôi sẽ trực tiếp trao đổi với giảng viên hướng dẫn để được thầy hỗ trợ hoặc tìm cách giải quyết. - Trong quá trình thu thập tư liệu, nội dung chính của phóng sự sẽ dần được hình thành và hoàn thiện hơn. - Luôn tâm niệm cố gắng ghi được những hình ảnh đắt nhất và chân thực nhất, không dàn dựng bất cứ trong hoàn cảnh nào. Do đặc trưng của thể loại Phóng sự tài liệu, nên tôi quan niệm: ghi được càng nhiều hình ảnh càng tốt, thu thập được càng nhiều thông tin sâu càng tốt để sau này bước Montage sẽ thuận lợi hơn rất nhiều, mà sản phẩm vẫn sống động. 2.2. Đề cương kịch bản: Xác định thể loại: Phóng sự tài liệu truyền hình: Nội dung thể hiện trong phóng sự là tinh thần công nhân mỏ qua các thời kỳ lịch sử. Qua phóng sự muốn gửi gắm những tình cảm, những tấm lòng của người công nhân vùng than với đất mỏ của mình. Phóng sự sẽ giúp người xem thêm hiểu hơn về đội ngũ công nhân mỏ cũng như tâm hồn của họ. - Phóng sự đậm chất tài liệu bởi: + Nhân vật trung tâm: Công nhân mỏ: mang mầu sắc lịch sử. Đã từ rất lâu, hình ảnh công nhân mỏ như là một hình ảnh đặc trưng của vùng than Quảng Ninh, họ là đại diện cho con người của vùng đất này. + Chất liệu: Về không gian: Bao trùm phóng sự là không gian của các công trường, hầm lò, cảng, moong khai thác than lộ thiên và hầm lò, bên cạnh đó là một vài không gian cảnh quan của Vịnh Hạ Long. + Về hình ảnh: Toàn phóng sự được thể hiện bằng các chất liệu chân thực, bằng phương pháp phục hiện, đan cài giữa quá khứ và hiện tại, giữa xưa và nay. Hình ảnh công nhân mỏ từ thời xa xưa được tái hiện nhờ những tư liệu có được của cuộc bãi công 1936 của công nhân mỏ. Hình ảnh của hiện tại là những hình ảnh đã quay được trong quá trình đi ghi hình tại hai địa điểm quay. + Ý kiến: Ý kiến của anh hùng lao động Vũ Xuân Thuỷ, của cán bộ và công nhân đang lao động và làm việc tại hai công ty Than. 3. Phóng sự tốt nghiệp làm về đề tài tinh thần công nhân mỏ than Quảng Ninh. Phóng sự gồm ba phần chính, cụ thể là: 3.1.Tinh thần công nhân mỏ trong chiến tranh 3.1.1. Nội dung Trong phần này, khoá luận sẽ tập trung thể hiện tinh thần công nhân mỏ trong thời kỳ 1936 - 1939. Cụ thể là tinh thần ấy được thể hiện rõ nét trong cuộc bãi công của công nhân mỏ năm 1936. Cách đây gần 72 năm, ngày 12/11/1936 hơn 3 vạn thợ mỏ vùng Hòn Gai, Cẩm Phả, Đông Triều thuộc tỉnh Quảng Ninh đã dũng cảm đứng lên làm cuộc tổng bãi công yêu cầu chủ mỏ phải tăng lương, chống đánh đập, ngược đãi công nhân, cải thiện điều kiện lao động. Nhờ tinh thần đấu tranh quả cảm, đoàn kết và ý thức kỷ luật cao, bất chấp các thủ đoạn lừa phỉnh dụ dỗ và đàn áp dã man của bọn chủ mỏ, bọn thống trị thực dân Pháp và tay sai. Cuối cùng bọn chủ mỏ phải chấp nhận mọi yêu sách của công nhân. Cuộc tổng bãi công đã đạt được thắng lợi hoàn toàn. Cuộc tổng bãi công được mở đầu tại vùng Cẩm Phả. Đây là một trung tâm khai thác lớn của công ty than Bắc Kỳ, nơi tập trung đông công nhân nhất và cũng là nơi diễn ra nhiều mâu thuẫn gay gắt giữa thợ và bọn chủ mỏ. Cuộc tổng bãi công nổ ra tại đây có tác động mạnh mẽ toàn khu mỏ và lan rộng như một đám cháy lớn. Sau gần 10 ngày đấu tranh quyết liệt bất chấp mọi thủ đoạn lừa bịp và đàn áp dã man của địch. Cuộc bãi công đã thắng lợi vào 3 giờ chiều ngày 20/11/1936. Bọn chủ mỏ và cả bọn thống trị Pháp ra thông báo chấp nhận tất cả mọi yêu sách của cuộc bãi công. Sau khi công nhân Cẩm phả kết thúc cuộc bãi công thì ngày 22/11 đến ngày 24/11 tại các mỏ Mông dương, Hòn Gai, Cửa Ông, Bãi Cháy... Công nhân mỏ cùng lần lượt nghỉ việc để hưởng ứng. Một sự kiện có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc tổng bãi công lần này là mối quan hệ anh em gắn bó giữa những người thợ điện nhà máy điện Cọc 5 và công nhân mỏ vùng Hòn gai - Cẩm phả. Bất chấp sự ngăn cản của địch, công nhân nhà máy điện vẫn đòi nghỉ việc để hưởng ứng cuộc bãi công. Trước ý chí và quyết tâm mạnh mẽ của công nhân mỏ nên sáng ngày 28/11/1936 công nhân mỏ vùng Hòn gai, Mông dương, Cửa ông đã cùng giành được thắng lợi. Cuộc tổng bãi công đã toàn thắng trên một địa bàn rộng thu hút hơn 3 vạn người tham gia kéo dài gần 17 ngày căng thẳng, quyết liệt thể hiện ý chí sắt đá của những người thợ mỏ than Việt Nam. Thắng lợi vang dội của cuộc tổng bãi công đã làm rung chuyển hệ thống cai trị của bọn thực dân xâm lược và tay sai, thúc đẩy mạnh mẽ phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân cả nước trong thời kỳ 1936- 1945. Đây là cái mốc quan trọng đánh dấu bước trưởng thành của đội ngũ công nhân ngành than về ý thức chính trị, trình độ giác ngộ và đấu tranh giai cấp dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Đông Dương, nay là Đảng cộng sản Việt Nam. Gần bảy mươi hai năm đã đi qua nhưng chiến thắng của thế hệ những người thợ mỏ năm 1936 mãi mãi là niềm tự hào trong lịch sử và truyền thống của ngành than Việt Nam. Sự kiện đó như một chương mở đầu bản anh hùng ca của những người thợ mỏ được viết bằng xương máu, bằng tâm lực của các thế hệ thợ mỏ Việt Nam. 3.1.2.Hình thức thể hiện Trong phần nội dung này, hình thức thể hiện là dựa trên băng tư liệu nguồn lấy từ Đài Phát thanh - Truyền hình tỉnh Quảng Ninh, trên cơ sở nghiên cứu tài liệu lịch sử có liên quan để viết lời bình và thể hiện lời bình một cách sâu sắc và chặt chẽ. Nội dung lời bình sẽ tái hiện được lịch sử của cuộc tổng bãi công năm 1936 và thể hiện được tinh thần công nhân mỏ than Quảng Ninh trong chiến tranh. 3.2.Tinh thần công nhân mỏ trong thời kỳ đổi mới 3.2.1.Nội dung Phần này sẽ nhấn mạnh tinh thần công nhân mỏ trong thời kỳ đổi mới. Cuộc sống hiện đại đã giải phóng rất nhiều cho sức lao động của con người nhưng công việc của những người thợ mỏ vẫn là một công việc thủ công đầy bất trắc, nguy hiểm. Hiện nay, trước rất nhiều lựa chọn về nghề nghiệp nhưng đa phần những người công nhân mỏ, họ vẫn một mực gắn bó hết mình với vùng đất và công việc này. Công nhân mỏ được chia thành: Công nhân mỏ lộ thiên là những người làm việc khai thác và sản xuất than trên mặt đất; công nhân hầm lò là những người khai thác than dưới hầm lò - rất nguy hiểm. Khóa luận này sẽ tập trung thể hiện tinh thần của cả công nhân mỏ lộ thiên và công nhân hầm lò để từ đó khái quát hoá lên tinh thần chung của những người công nhân mỏ thong thời kỳ đổi mới. Mặc dù giờ đây, họ không phải gánh chịu những nguy hiểm và sự đe doạ của chiến tranh nhưng ở họ vẫn cháy lên ngọn lửa của tình yêu quê hương đất mỏ, yêu nghề, kiên cường trong lao động sản xuất và lãng mạn trong đời sống văn hoá tinh thần. Cán bộ công nhân viên vùng than vừa làm vừa học và rút kinh nghiệm, qua nhiều năm trăn trở, đấu tranh vượt lên chính mình và với sự năng động sáng tạo đã làm ra nhiều sản phẩm mà thị trường cần. Từ mạnh dạn đổi mới công tác quản lý, chỉ huy điều hành sản xuất, đầu tư chiều sâu, không ngừng cải tiến, đổi mới thiết bị công nghệ đến tập trung tháo gỡ những khó khăn trở ngại. Từ trước tới nay, công nhân mỏ luôn nổi tiếng với giọng hát trời phú, họ luôn dùng tiếng hát của mình để động viên tinh thần đồng nghiệp trong những giờ nghỉ giải lao. Và ngày nay, mặc dù công việc nặng nề nhưng Tập đoàn Than – Khoáng sản nói chung và những người công nhân vùng Than nói riêng luôn luôn tổ chức các buổi liên hoan nghệ thuật quần chúng, các giải thể dục thể thao để động viên và cổ vũ tinh thần công nhân mỏ, qua đó chúng ta sẽ luôn thấy được, thợ mỏ họ yêu đời và nhiệt huyết như thế nào. Đứng trước những yêu cầu mới, ngành than và khoáng sản là một ngành kinh tế quan trọng của đất nước, do đó phải phát huy tốt các nguồn lực bên trong, đồng thời khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực bên ngoài đảm bảo cho nền kinh tế nước ta phát triển nhanh và bền vững, xứng đáng là giai cấp tiên phong trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do đó, đội ngũ công nhân ngành than phát triển toàn diện sẽ đáp ứng được yêu cầu trong tình hình mới; thợ mỏ Quảng Ninh đã không ngừng tăng cường công tác giá

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLBC 18.doc
Tài liệu liên quan