Trong những năm gần đây các ngân hàng Việt Nam đã ồ ạt đưa ra thị trường nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm chiếm lĩnh thị trường và chứng tỏ sự hiện đại của mình. Sau đây tôi xin được trình bày đại diện 2 ngân hàng, hiện thời đang phát triển dịch vụ E- banking mạnh nhất trong hệ thống NHTM Việt Nam
73 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 9626 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Dịch vụ E- Banking tại Việt Nam, Thực trạng và các giải pháp phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
” tại nơi giao dịch của ngân hàng.
Những rủi ro trong hoạt động dịch vụ E- Banking.
Việc tìm hiểu các yếu tố trên dẫn đến rủi ro hoạt động kinh doanh ngân hàng điện tử là hết sức cần thiết. Ngân hàng cần phải nhận biết, và đánh giá đúng các loại rủi ro này, để có những biện pháp quản trị đúng đắn, từ đó đem lại hiệu quả cao nhất cho ngân hàng.
E- banking là một loại hình hoạt động của NHTM, do đó nó cũng chứa đựng những rủi ro cơ bản như: rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro hối đoái,… Đồng thời, do những đặc điểm riêng biệt, hình thức giao dịch công nghệ cao này còn mang theo những loại hình rủi ro đặc thù vốn có. Trong phạm vi của khóa luận chỉ đề cập đến ba loại rủi ro thường gặp nhất trong dịch vụ E- banking:
1.7.1. Rủi ro hoạt động.
Rủi ro hoạt động phát sinh từ khả năng xảy ra thiệt hại cho ngân hàng do hệ thống không đảm bảo sự thống nhất và đáng tin cậy cùng thiết.
Các yếu tố về an ninh là vấn đề cần được quan tâm nhất vì các ngân hàng thường là đối tượng tấn công của những kẻ đột nhập hệ thống điện tử từ bên ngoài hoặc bên trong nhằm tác động lên các sản phẩm hoặc hệ thống của ngân hàng. Rủi ro hoạt động còn có thể phát sinh do nhầm lẫn của khách hàng, do các hệ thống ngân hàng điện tử bị thiết kế hoặc triển khai không hoàn chỉnh.
Có thể tạm chia các rủi ro hoạt động thành một số nhóm nhỏ sau:
Một là, rủi ro an ninh: Phát sinh từ khâu kiểm soát tiếp cận vào hệ thống quản lý rủi ro và các chứng từ quan trọng được lưa giữ tại ngân hàng, thông tin trao đổi giữa ngân hàng và các đối tác. Một lỗ hổng an ninh có thể dẫn đến những trách nhiệm pháp lý do bọn lừa đảo cố tình tạo ra cho ngân hàng, việc để lọt những trường hợp tiếp cận ngoài thẩmq quyền có thể dẫn đến những thiệt hại trực tiếp hoặc gây ra trách nhiệm pháp lý cho khách hàng và các rắc rối khác.
Hai là, rủi ro thiết kế, duy trì hệ thống: Các hệ thống đã lựa chọn có thể không được thiết kế hoặc triển khai tốt, trong quá trình vận hành có thể bị lỗi gián đoạn hoặc chạy chậm. Nhiều ngân hàng lại dựa vào các nhà cung cấp dịch vụ bên ngoài và các chuyên gia độc lập để triển khai, vận hành và hỗ trợ các phần khác nhau của hoạt động E- banking. Việc này cũng có tiềm ẩn rủi ro vì các nhà cung cấp dịch vụ có thể không có chuyên gia cần thiết cho việc cung ứng các dịch vụ mà ngân hàng mong muốn hoặc không cập nhập kịp thời công nghệ của họ. Các hoạt động của nhà cung cấp dịch vụ có thể bị gián đoạn do hệ thống của họ bị hỏng hoặc do các khó khăn về tài chính, điều này sẽ ảnh hưởng đến việc cung cấp sản phẩm và dịch vụ của ngân hàng. Tốc độ thay đổi nhanh chóng rất đặc trưng của CNTT lại tạo ra rủi ro do hệ thống của ngân hàng có thể bị lạc hậu. Hơn nữa, việc công nghệ thay đổi nhanh chóng có thể khiến các nhân viên không thể hiểu được đầy đủ bản chất của công nghệ mới mà ngân hàng sử dụng. Điều này sẽ gây ra những rắc rối khi vận động các hệ thống mới hoặc hệ thống được cập nhập.
Ba là, rủi ro do nhầm lẫn của khách hàng: Khi thiếu những biện pháp cần thiết để xác nhận giao dịch, các khách hàng sẽ có khả năng phủ nhận những giao dịch mà trước đó họ đã chấp nhận, điều này gây tổn thất cho ngân hàng. Các khách hàng sử dụng thông tin cá nhân (thông tin chứng thực, số thẻ tín dụng hoặc số tài khoản ngân hàng) trong các giao dịch điện tử không được bảo mật sẽ tạo điều kiện cho bọn tội phạm tiếp cận được với các tài khoản của họ. Hậu quả là, ngân hàng có thể phải chịu tổn thất tài chính do ngân hàng thực chất là không chấp thuận các giao dịch đó.
1.7.2. Rủi ro uy tín.
Rủi ro uy tín là rủi ro dư luận đánh giá xấu về ngân hàng, gây khó khăn nghiêm trọng cho ngân hàng trong việc tiếp cận các nguồn vốn hoặc khách hàng rời bỏ ngân hàng. Rủi ro uy tín cũng có thể phát sinh khi các hệ thống hoặc sản phẩm không hoạt động như dự kiến và gây ra phản ứng tiêu cực lan rộng trong công chúng. Một lỗ hổng nghiêm trọng về an ninh, cho dù do bên ngoài hay bên trong tấn công lên một hệ thống nào đó của ngân hàng sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng tới uy tín của ngân hàng. Rủi ro uy tín còn có thể phát sinh trong trường hợp khách hàng gặp vấn đề với dịch vụ được cung ứng nhưng không nhận được thông tin cần thiết về sản phẩm sử dụng và các quy trình giải quyết trục trặc; hoặc có thể phát sinh từ các trục trặc lớn ở các mạng lưới giao tiếp khiến cho khách hàng gặp khó khăn trong việc tiếp cận các quỹ hoặc thông tin tài khoản của họ, nhất là trong trường hợp không có các phương tiện tiếp cận khác để thay thế. Những tổn thất lớn do nhầm lẫn của một ngân hàng cũng có thể khiến các khách hàng của một ngân hàng khác có các sản phẩm và dịch vụ E- banking giống hoặc tương tự nghi ngờ vào sản phẩm và sản phẩm của ngân hàng đó.
1.7.3. Rủi ro pháp lý.
Rủi ro pháp lý phát sinh từ những vi phạm, hoặc do không tuân thủ pháp luật, các quy định hoặc các thông lệ đã được xác lập, hoặc do quy định không rõ các quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên đối với giao dịch.
Do tương đối mới mẻ nên trong nhiều hoạt động E- banking, các quyền và nghĩa vụ của các bên đối với các giao dịch loại này còn chưa rõ ràng. Các ngân hàng tham gia vào hoạt động E- banking có thể sẽ phải đối mặt với các rủi ro pháp lý có liên quan đến việc bảo vệ quyền riêng tư và công bố về khách hàng. Những khách hàng này không được thông tin đầy đủ về quyền và nghĩa vụ của họ sẽ có thể khởi kiện ngân hàng.
Ngoài ra, các ngân hàng có thể phải đối mặt với những yêu cầu pháp lý khác nhau khi mở rộng các hoạt động dịch vụ E- banking bán kẻ qua Internet. Ngân hàng có thể phải chịu rủi ro pháp lý do không tuân thủ đầy đủ những quy định và pháp luật khác nhau của các nước này, như luật bảo vệ khách hàng, các yêu cầu báo cáo và lưu trữ, quy định về quyền riêng tư và luật chống rửa tiền….
CHƯƠNG 2: TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ E – BANKING TẠI VIỆT NAM
2.1. Tính tất yếu của sự phát triển dịch vụ E- Banking tại Việt Nam.
Dịch vụ- một trong những mũi nhọn kinh tế mà nhiều quốc gia sử dụng như một lĩnh vực kinh tế then chốt trong quá trình phát triển. Ở Việt Nam, nhà nước ta cũng nhận thấy lợi thế của dịch vụ, đã và đang xây dựng cơ sở hạ tầng và phát triển dịch vụ trong tương lai theo tinh thần Chỉ thị 49/2004/CT-TTg ngày 24/12/2004 của Thủ tướng Chính phủ về phát triển dịch vụ trong kế hoạch phát triển Kinh tế- Xã hội 5 năm 2006-2010 để phát triển kinh tế đất nước.
Đã có nhiều ý kiến và đề xuất nâng mức thu nhập từ lĩnh vực dịch vụ lên 45% của một số loại hình doanh nghiệp. Trong hoạt động Ngân hàng, nhiều Ngân hàng trên thế giới đã lấy thu phí dịch vụ Ngân hàng làm chủ đạo, làm nguồn doanh thu chính trong kinh doanh Ngân hàng thay thế lãi suất tín dụng truyền thống. Bởi trong thực tiễn kinh doanh ngân hàng, hoạt động tín dụng vẫn là lĩnh vực mang nhiều ruỉ ro nhất cho các Ngân hàng.
Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới, lĩnh vực dịch vụ mới có cơ hội và được xem là tiềm năng phát triển. Các Ngân hàng thương mại đang coi dịch vụ ngân hàng là một trong những lĩnh vực quan trọng trong xu hướng phát triển của mình. Cùng với đó là sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, đặc biệt là ngành công nghệ thông tin (CNTT), đã tác động mạnh đến mọi mặt hoạt động của đời sống, kinh tế - xã hội, làm thay đổi nhận thức và phương pháp sản xuất kinh doanh của nhiều lĩnh vực, nhiều ngành kinh tế khác nhau, trong đó có lĩnh vực hoạt động ngân hàng.
Theo đó, với nhu cầu đa dạng của người sử dụng và mở rộng hoạt động của các ngân hàng, các NHTM nhà nước, NHTM cổ phần và các TCTD đã và đang xúc tiến khẩn trương xây dựng và triển khai các ứng dụng, giải pháp hỗ trợ cho giao dịch qua mạng và Internet. Phát triển các dịch vụ của NHĐT là xu hướng tất yếu, mang tính khách quan trong nền kinh tế hiện đại, trong thời đại hội nhập kinh tế quốc tế. Lợi ích đem lại của NHĐT là rất lớn cho khách hàng, ngân hàng và cho nền kinh tế, nhờ tính tiện ích, tiện lợi, nhanh chóng, chính xác và bảo mật.
Là kết quả tất yếu của quá trình phát triển CNTT, được ứng dụng trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, các Ngân hàng trên thế giới đã và đang phát triển mạnh các hoạt động dịch vụ của NHĐT. Đối với nước ta, đây là lĩnh vực hoạt động hoàn toàn mới. Do hành lang pháp lý chưa đầy đủ, các tổ chức tín dụng (TCTD) đã phát triển riêng biệt một số dịch vụ có tính chất tương tự như NHĐT: Xây dựng và phát triển trang Web cho ngân hàng (chủ yếu để quảng bá dịch vụ, lĩnh vực hoạt động, cơ cấu tổ chức và mô hình quản lý) chưa phải dịch vụ NHĐT đích thực; homebanking; thông tin giao dịch ngân hàng qua mạng điện thoại (Mobile banking). Trong đó, hoạt động ngân hàng qua mạng điện thoại (hữu tuyến và không dây) được phát triển với nhiều tiện ích như: cung cấp thông tin về tài khoản qua tin nhắn; thông tin về thị trường: tỷ giá, lãi suất, giá cả; giao dịch chứng khoán… thực hiện các giao dịch thanh toán tiền điện thoại, tiền taxi, tiền điện, nước. Điều này đòi hỏi các NHTM ở Việt Nam phải “hợp tác” được với nhà cung cấp dịch vụ viễn thông cùng nghiên cứu phát triển dịch vụ… khi công nghệ điện tử viễn thông và “công nghệ không dây phát triển” là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển dịch vụ ngân hàng ảo.
E-Banking, là dịch vụ NHĐT “hoàn hảo” nhất, khách hàng quan hệ, giao dịch và thanh toán với ngân hàng qua mạng - Là dịch vụ có tính tiện ích cao nhất, nhưng đòi hỏi tính an toàn, bảo mật trong thanh toán cao nhất, bởi lẽ rủi ro trong hoạt động dịch vụ này là không nhỏ.
2.2. Tình hình phát triển dịch vụ E- Banking tại Việt Nam.
Cơ sở hạ tầng cho hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử.
Hiện tại, cơ sở hạ tầng cho hoạt động ngân hàng điện tử và tiền điện tử ở Việt Nam vẫn còn khá lạc hậu. Đánh giá tổng hợp về cơ sở hạ tầng cho giao dịch điện tử ở Việt Nam có thể là khó khăn. Tuy nhiên các khảo sát về sự sẵn sàng cho thương mại điện tử của nền kinh tế cho thấy mức độ sẵn sàng tham gia thương mại điện tử của Việt Nam còn ở mức rất thấp so với các nước trong khu vực (WB-2001). Theo cách đo lường mức độ sẵn sàng tham gia thương mại điện tử, Việt Nam đạt 4, 4 điểm, là mức thấp so với các nước khác trong khu vực. Trong điều kiện như vậy, giao dịch ngân hàng và dịch vụ ngân hàng hiện đại (như e -banking, internet banking, tiền điện tử...) thường phát triển chậm và gặp nhiều rủi ro (những khó khăn thường gặp có thể là tốc độ đường truyền chậm, lỗi do người sử dụng, và người tiêu dùng,...)
Hoạt động ngân hàng điện tử ở Việt Nam.
Trong những năm qua, Việt Nam đã có rất nhiều nỗ lực trong việc hiện đại hóa công nghệ ngân hàng. Ngày 26/3/2002, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã chính thức khai trương hệ thống thanh toán bù trừ điện tử. Hiện tại các giao dịch được thực hiện thuận tiện và chính xác cũng như rất nhanh chóng. Các ngân hàng thương mại cũng đang tích cực hiện đại hoá công nghệ. Một số NHTMNN và TMCP đã hoàn thành giai đoạn I và đang tiếp tục triển khai giai đoạn II của dự án “Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng và Hệ thống thanh toán ngân hàng” do Ngân hàng thế giới tài trợ. Các sản phẩm được đưa ra cũng vì thế mà khá phong phú và đa dạng, bao gồm:
Dịch vụ thẻ ngân hàng.
Kể từ năm 1993, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam phát hành thẻ ATM đầu tiên ở Việt Nam, các sản phẩm thẻ được dân chúng sử dụng ngày càng nhiều ở Việt Nam. Đến nay, Việt Nam đã đạt tỷ lệ bình quân là 4.500 người / máy ATM. Các ngân hàng thương mại là các định chế được phép phát hành các loại thẻ; các định chế tài chính khác chưa được phép cung cấp dịch vụ này. Sự phát triển của thị trường thẻ đã góp phần quan trọng vào việc đáp ứng nhu cầu thanh toán của khách hàng và thực hiện chủ trương đẩy nhanh thanh toán không dùng tiền mặt của Nngân hàng Nhà nước Viêt Nam. Hiện tại ở Việt Nam có đã có rât nhiều ngân hàng Việt Nam được phát hành thẻ tín dụng (credit card) và thể ghi nợ (debit card).
Trong vài năm gần đây, thị trường thẻ ngân hàng tại Việt Nam phát triển mạnh mẽ. Nhiều ngân hàng đã phát hành các loại thẻ có độ bảo mật cao và cung cấp nhiều tiện ích đi kèm cho khách hàng sử dụng thẻ. Ví dụ với hệ thống ATM của Vietcombank, khách hàng không những có thể thanh toán hàng hóa, dịch vụ… tại các điểm chấp nhận thẻ của Vietcombank mà còn cho phép khách hàng thanh toán cước phí điện thoại, chuyển tiền, thanh toán phí bảo hiểm và các cước phí khác như tiền điện, tiền nước… thông qua tài khoản riêng. Hoặc như hệ thống máy ATM của ngân hàng TMCP Đông Á (EAB), khách hàng có thể rút tiền, gửi tiền được vào tài khoản khách hàng mở tại EAB qua máy ATM cùng với đó là các máy ATM thế hệ mới có khả năng phục vụ đa dạng nhu cầu giao dịch của khách hàng như: gửi tiền, rút tiền, chuyển tiền, thanh toán… đặc biệt phục vụ cho khách hàng giao dịch qua Sổ tiết kiệm điện tử của Ngân hàng Đông Á.
Có thể nói, thẻ ngân hàng đã trở thành phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt chủ yếu phục vụ cho các giao dịch bán lẻ. Hiện tỷ trọng thanh toán bằng thẻ hiện chiếm 8% trong tổng số món giao dịch của các phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt. Tốc độ tăng trưởng bình quân của lượng thẻ phát hành ra lưu thông những năm gần đây năm khoảng 150-300%/năm. Tính đến năm 2009 lượng thẻ phát hành ra lưu thông là 19 triệu thẻ, so với 234.677 thẻ của năm 2003 và 12 triệu thẻ của năm 2008.
Trong tổng các loại thẻ do các tổ chức phát hành thẻ trong nước phát hành, hầu hết là thẻ ghi nợ nội địa (chiếm 93,87%), tiếp theo là thẻ ghi nợ quốc tế (3,65%), thẻ tín dụng quốc tế (2,22%), thẻ tín dụng nội địa (0,31%). Điều này phản ánh đặc điểm tiêu dùng của người Việt Nam nói chung, đồng thời cho thấy dịch vụ thẻ đã tạo ra một kênh dẫn vốn quan trọng cho các ngân hàng, vì hầu hết lượng thẻ phát hành đều gắn với tài khoản tiền gửi cá nhân và một số dư tiền gửi nhất định trong đó.
Trong hệ thống ngân hàng hiện nay đã có hơn 30 ngân hàng triển khai phát hành thẻ, với khoảng 130 thương hiệu thẻ khác nhau, trong đó 54% là thương hiệu thẻ nội địa. Theo nguồn tài chính sử dụng thẻ thì 59% là các thương hiệu thẻ ghi nợ, 39% là các thương hiệu thẻ tín dụng và 2% là thương hiệu thẻ trả trước. Các dịch vụ tiện ích đi kèm thẻ bao gồm: rút tiền mặt; chuyển khoản; thanh toán hoá đơn hàng hóa dịch vụ; mua hàng hoá trực tuyến, thấu chi tài khoản, hưởng các ưu đãi về dịch vụ và giảm giá mua hàng tại các điểm liên kết, vấn tin tài khoản và in sao kê, chi lương qua tài khoản, nhận tiền kiều hối, bảo hiểm tai nạn, giao dịch qua kênh ngân hàng điện tử và các dịch vụ khác.
Các ngân hàng không ngừng đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật cho hoạt động thẻ, tính đến tháng 11/2007 bao gồm 4.280 ATM, 22.959 POS, so với 2.500 ATM và 14.000 POS của năm 2006. Bên cạnh đó, nhằm chia sẻ cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thẻ và tạo thuận lợi cho người sử dụng, các công ty làm dịch vụ kết nối trung gian cũng ra đời nhằm đón đầu xu thế thanh toán không dùng tiền mặt. Các liên minh thẻ hiện nay bao gồm: i) Công ty Smartlink có 25 thành viên, với 2056 máy ATM (48%), 17.502 máy POS/EDC (57%) và số lượng thẻ đã phát hành 4.721.946 thẻ (57%); ii) Liên minh thẻ Đông Á có 5 thành viên tham gia đã phát hành 1.766.053 thẻ (21%), với 783 máy ATM (18%), 1682 máy POS/EDC (57%) và iii) Công ty cổ phần chuyển mạch tài chính quốc gia Banknetvn với số lượng máy ATM chiếm 62% (2654 máy), máy POS/EDC chiếm 46% (10.548) và đã phát hành 5.170.229 thẻ (chiếm 62%). Các liên minh này đã phần nào kết nối hoạt động thẻ của các ngân hàng lại với nhau.
Các ngân hàng Việt Nam, ngoài việc làm đại lý thanh toán cho các tổ chức thẻ tín dụng quốc tế (Visa, Mastercard, JCB, American, Express) như ngân hàng TMCP Ngoại Thương (Vietcombank), ngân hàng TMCP Công Thương (Vietinbank), ngân hàng TMCP Á Châu (ACB)…, còn trực tiếp phát hành thẻ tín dụng quốc tế như Vietcombank phát hành Vietcombank Mastercard, Vietcombank Visa và Vietcombank American Express; ACB phát hành thẻ ACB- Mastercard và CAN- VISA; Techcombank có thẻ Techcombank Visa,...
Năm 2007
Năm 2008
Năm 2009
Số thẻ phát hành
Số máy ATM
Số điểm POS
Dịch vụ ngân hàng trực tuyến.
Hiện nay các NHTM đều đang nỗ lực phát triển dịch vụ ngân hàng trực tuyến với mục đích đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ để phục vụ khách hàng và tăng nguồn thu phí dịch vụ cùng với đó là tạo ra hình ảnh một ngân hàng đa tiện ích.
Hiện tại, hầu như ngân hàng nào cũng đã triển khai dịch vụ ngân hàng trực tuyến ở các mức độ khác nhau.
Thực tế, việc các ngân hàng đã không hẹn mà gặp khi trong tháng 12-2009 cùng đưa ra những dịch vụ ngân hàng trực tuyến. Chẳng hạn như, Ngân hàng TMCP Quốc tế (VIB) vừa chính thức công bố việc ứng dụng công nghệ mới với các dịch vụ tiện ích trọn gói VIB4U, cùng với đó VIB4U còn có thể thực hiện các giao dịch thương mại điện tử và thanh toán trực tuyến (E-payment).Khách hàng không những có thể mua sắm hàng hóa online trên các website bán hàng trực tuyến, các chợ điện tử mà còn có thể thanh toán các hóa đơn trả sau trực tuyến (như hóa đơn điện thoại, truyền hình cáp, Internet, hóa đơn điện, nước…). Trước đó, VPBank cũng thông báo triển khai trên toàn hệ thống dịch vụ Internet Banking - i2b. Trước mắt, thông qua i2b, khách hàng của VPBank có thể tra cứu thông tin các tài khoản hiện có tại ngân hàng; thực hiện chuyển khoản từ tài khoản thanh toán của khách hàng tới tài khoản thanh toán của khách hàng khác trong cùng hệ thống VPBank... Trong thời gian tới, i2b của VPBank sẽ được bổ sung thêm các tiện ích khác như: thanh toán trực tuyến khi mua bán hàng qua mạng; thanh toán các hóa đơn tiền điện, nước, điện thoại; đặt vé, tour trực tuyến; chuyển khoản ngoài hệ thống... Giữa tháng 12/2009, MB cũng kết hợp với Viettel cho ra mắt BankPlus. BankPlus có thể tra cứu số dư tài khoản; nộp/rút tiền từ tài khoản; chuyển tiền trong hệ thống Smartlink của MB; chuyển tiền người nhận bằng CMND; ví điện tử; thanh toán hóa đơn cho thuê bao di động trả sau, nạp tiền cho thuê bao di động trả trước của Viettel; thanh toán các loại hóa đơn khác… Cũng trong tháng 12 này, Ngân hàng TMCP Đông Á (DongA Bank) liên tiếp triển khai ngân hàng trực tuyến với dịch vụ Thanh toán hóa đơn với Viễn thông TP. HCM.
2.3. Tình hình phát triển dịch vụ E- Banking tại một số NHTM của Việt Nam.
2.3.1. Cơ sở pháp lý của hoạt động ngân hàng điện tử.
Để mở đường thương mại điện tử nói chung và dịch vụ NHDT nói riêng ra đời và phát triển tại Việt Nam nói chung, trong thời gian gần đây Quốc hooik và Chính phủ Việt Nam đã cho ra đời hàng loạt những văn bản pháp luật nhằm điều chỉnh các hoạt động trong lĩnh vực này. Cụ thể:
Luật Giao dịch điện tử của Quốc hội nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ nghĩa Việt Nam số 51/2005/QH11 ngày 29 tháng 11 năm 2005.
Luật Công nghệ thông tin.
Nghị định số 57/2006/NĐ-CP về thương mại điện tử.
Quyết định số 28/2006/QĐ-BTC - sửa đổi, bổ sung Quyết định 28/2005/QĐ-BTC quy định mức phí cấp phép và quản lý tên miền.
Quyết định số 018/2007/QĐ-BTM - ban hành Quy chế cấp chứng nhận xuất xứ điện tử
Nghị định số 71/2007/NĐ-CP - quy định chi tiết và hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật công nghệ thông tin về công nghiệp công nghệ thông tin.
Nghị định số 63/2007/NĐ-CP - quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Nghị định số 27/2007/NĐ-CP - quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử trong hoạt động tài chính.
Nghị định số 26/2007/NĐ-CP - quy định chi tiết thi hành Luật Giao dịch điện tử về Chữ ký số và Dịch vụ chứng thực chữ ký số.
Nghị định số 97/2008/NĐ-CP - quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ internet và thông tin điện tử trên internet.
Nghị định số 90/2008/NĐ-CP - chống thư rác.
Thông tư số 10/2008/TT-BTTTT - quy định giải quyết tranh chấp tên miền quốc gia Việt Nam.
Quyết định số 343/2008/QĐ-TTg - thành lập Ban chỉ đạo quốc gia về công nghệ thông tin.
Nghị định số 28/2009/NĐ-CP - xử phạt vi phạm hành chính trong dịch vụ internet và thông tin điện tử.
Thông tư số 28/2009/NĐ-CP - quy định hồ sơ và thủ tục cấp phép, đăng ký, công nhận các tổ chức cung cấp dịch vụ chứng thực chữ ký số.
Thông tư số 03/2009/TT-BTTTT - quy định mã số quản lý và mẫu giấy chứng nhận mã số quản lý đối với nhà cung cấp dịch vụ quảng cáo bằng thư điện tử, tin nhắn, nhà cung cấp dịch vụ tin nhắn qua mạng Internet.
Trong những năm gần đây các ngân hàng Việt Nam đã ồ ạt đưa ra thị trường nhiều sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại nhằm chiếm lĩnh thị trường và chứng tỏ sự hiện đại của mình. Sau đây tôi xin được trình bày đại diện 2 ngân hàng, hiện thời đang phát triển dịch vụ E- banking mạnh nhất trong hệ thống NHTM Việt Nam.
2.3.2. Thực tiễn phát triển của dịch vụ E- banking ở ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB).
2.3.2.1. Giới thiệu tổng quát về VCB.
Ngày 1/04/1963, ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB) chính thức ra đời theo Nghị Định 115/CP ngày 30/10/1962 của Hội đồng Chính phủ trên cơ sở bộ máy của Cục Ngoại hối nay là Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Vốn điều lệ của VCB là …. . Với bộ máy tổ chức gồm 59 chi nhánh và 87 phòng giao dịch nằm tại các đô thị và khu vực kinh tế trọng điểm. 01 sở giao dịch và tổng số hơn 7000 cán bộ, VCB là ngân hàng thương mại có thế mạnh về nghiệp vụ thanh toán, kinh doanh ngoại tệ, huy động vốn và đầu tư cho nền kinh tế. Đây cũng là ngân hàng luôn được đánh giá là một trong những ngân hàng thương mại của Việt Nam đi đầu trong lĩnh vực phát triển công nghệ.
2.3.2.2. Thực tiễn phát triển của dịch vụ E- banking ở ngân hàng TMCP Ngoại Thương Việt Nam (VCB).
Năm 1999, sau một thời gian thử nghiệm. VCB đã chính thức đưa hệ thống Ngân hàng Bán lẻ vào sử dụng. Lần đầu tiên ở Việt Nam đã xuất hiện một ngân hàng có khả năng cung cấp dịch vụ ngân hàng một cửa- gửi tiền ở một nơi, rút tiền ở mọi điểm giao dịch của hệ thống VCB trên toàn quốc. Một số báo cáo bước đầu đã có thể được tạo tại mọi nơi trong hệ thống VCB trên cơ sở nhiều tiêu chí khác nhau.
Với sự ra đời của trang Web VCB, mọi khách hàng đều có thể truy cập được thông tin về các dịch vụ, sản phẩm cùng một số thông tin về tài khoản khi xem trang Web này. Khách hàng có thể được giải đáp trực tuyến hoặc được chỉ dẫn thông tin về trung tâm giải đáp. Đây cũng là một phương thức quảng cáo hết sức hiệu quả của dịch vụ ngân hàng.
Là ngân hàng đầu tiên ở Việt Nam về ứng dụng CNTT trong hoạt động ngân hàng, VCB đã sớm quan tâm đến dịch vụ E- banking. Ngày 15/05/2002 VCb đã khai trường dịch vụ VCB- Online và Hệ thống Giao dịch tự động (Connect 24) và vào ngày 01/07/2008 thành lập Trung Tâm dịch vụ khách hàng (Call center), VCB đã trở thành NHTM đầu tiên của Việt Nam thực hiện thanh toán trực tuyến không chỉ trong toàn hệ thống mà còn đến các ngân hàng ngoài hệ thống trong cũng như ngoài nước. Ngoài ra VCB cũng thực hiện quả lý dữ liệu tập trung. Hệ thống VCB- Online đã xóa bỏ mọi rào cản về không gian và thời gian nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của khách hàng. Nhờ khả năng quản lý dữ liệu tập trung, VCB- Online cho phép khách hàng mở tài khoản một nơi nhưng vẫn có thể thực hiện các giao dịch trên tài khoản của mình tại bất kỳ chi nhánh hay phòng giao dịch nào của VCB.
Vào tháng 01/2008 VCB đã tiến hành triển khai hàng loạt các sản phẩm E- banking như VCB- iB@nking, VCB- SMS B@nking, VCB E- Tour... và các sản phẩm E- Banking khác nhằm cung cấp cho khách hàng sản phẩm dịch vụ tốt nhất, lúc này việc giao dịch online không chỉ giới hạn chuyển tiền giữa các tài khoản mà còn mở rộng đến các sản phẩm dịch vụ ngân hàng truyền thống khác như: tín dụng, tài trợ thương mại, mua bán ngoại tệ…
Hệ thống Giao dịch tự động Connect 24.
Với Hệ thống giao dịch tự động ( Connect 24), khách hàng hoàn toàn có thể thực hiện các giao dịch tự dộng 24/24 giờ tại bất kỳ máy ATM nào của VCB trên phạm vi toàn quốc. Thông qua Hệ thống giao dịch tự động này, khách hàng có thể rút tiền mặt từ các khoản tiền gửi cá nhân, rút tiền mặt bằng thẻ tín dụng quốc tế; thẻ ghi nợ quốc tế; kiểm tra số dư tài khoản; in bảng kê các giao dịch gần nhất; chuyển khoản trong hệ thống VCB; thanh toán hóa đơn tiền điện thoại, điện và các dịch vụ gia tăng khác (áp dụng ở một số địa bàn. Trong trường hợp mất thẻ, tiền trong tài khoản của khách hàng vẫn được đảm bảo an toàn bằng số mã PIN mà chỉ cá nhân chủ thẻ biết và bằng thông bảo của chủ thẻ tới ngân hàng. VCB luôn có bộ phận Trung Tâm dịch vụ khách hàng trực 24/24h để hỗ trợ, giải đáp thắc mắc của khách hàng nhằm đem đến cho khách hàng sự phụ vụ tốt nhất.
Trong năm 2009, tất cả các chi tiêu về thẻ của VCB đều vượt kế hoạc đề ra về số lượng thẻ mới phát hành cũng như doanh số thanh toán.
VCB là ngân hàng có số lượng thẻ phát hành và doanh số thanh toán không ngừng gia tăng qua các năm và luôn giữ vị trí dẫn đầu về các chỉ tiêu này trên thị trường thẻ Việt Nam. Tổng số lượng thẻ do VCB phát hành được 966.234 thẻ, tăng 11,7% so với năm 2008. Doanh số thanh toán thẻ quốc tế đạt 567 triệu USD, đạt 105,5% kế hoạch năm. VCB hiện chiếm hơn 53% thị phần thanh toán thẻ quốc tế, gần 36% thị phần phát hành thẻ quốc tế, 21% thị phần phát hành thẻ nội địa và hơn 33% thị phần doanh số sử dụng thẻ các loại. Trung bình mỗi ngày có khoảng 200.000 giao dịch được thực hiện trên hệ thống máy ATM của VCB.
VCB luôn chú trọng đầu tư cho hoạt động phát triển mạng lưới, tạo cơ sở hạ tầng kỹ thuật để thúc đẩy hoạt động thanh toán và sử dụng thẻ của khách hàng được thuận lợi, dễ dàng và hiệu quả. Đến cuối năm 2009, VCB đã tiếp tục là ngân hàng có mạng lưới ATM cũng như POS lớn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Dịch vụ E- Banking tại Việt Nam, Thực trạng và các giải pháp phát triển.doc