LỜI CẢM ƠN! 1
MỞ ĐẦU 2
CHƯƠNG I 4
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ 4
XUÂN DIỆU - MỘT KHÔNG GIAN TRẦN THẾ 4
XINH ĐẸP, ĐẦY SỨC SỐNG 4
1. Trong không gian ấy, những hiện tượng và sự vật chủ yếu là trăng, hoa, cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con đường những dòng sông, những dẫy núi và thấp thoáng một ít gương mặt tuổi trẻ. 14
2. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu tràn ngập âm sắc quyến rũ của trần gian, phản chiếu một cách sinh động nỗi đam mê lớn lao đối với cuộc đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi sĩ. 15
3. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là một không gian " vừa tầm tay với của con người". Trong cái không gian ấy, tất cả đều đáng yêu, tươi tắn, gần gũi và thân thiện. Đó là một không gian cho con người 17
CHƯƠNG II 19
KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT TRONG THƠ XUÂN DIỆU 19
1. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu - một không gian tình ái. 19
2. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu bị ám ảnh bởi sự tàn phá của thời gian: 26
KẾT LUẬN 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 39
41 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 3748 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu - Một không gian tồn tại trong những đối cực, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iễu vui vầy.
(Dâng)
Lá liễu dài như một nét mi
(Nhị hồ)
Cho liễu người khô, ngọc mắt phai
(Kẻ đi đày)
Tóc liễu gợi nhắc đến tóc người đàn bà:
"Tóc liễu buông xanh"
"Tóc buồn buông xuống.."
Không gian trong thơ Xuân Diệu là một thế giới náo nức âm thanh và ánh sáng. Đó là một không gian dào dạt gió, tưng bừng muôn khúc nhạc thần tiên của trời đất và lòng người. Không gian ấy cũng tràn ngập "tiếng chim vui", tiếng nổ giòn lách tách của hoa đêm, tiếng gió xinh thì thào.... Mơ hồ hơn nhưng cũng không kém phần rạo rực bồi hồi là những khúc nhạc thầm lên tiếng "say mê", "tiếng tung hô bằng ánh sáng", là "dư âm giọng nói đã lâu ngày, một sớm tím bỗng dịu dàng đồng vọng". Đó là cả một bản tấu của những thanh âm dìu dặt, du dương, yên bình và mê đắm.
Đó là một không gian ửng rạng ban mai, bừng sáng nắng nhưng cũng nhiều khi mông lung trong sương và mơ hồ huyền diệu dưới ánh trăng. Những luồng ánh sáng đó, những mầu sắc trần gian đó chủ yếu thể hiện sức sống, nét thanh tân, vẻ tươi tắn, dung mạo kiều diễm của tạo vật.
"Giữa vườn ánh ỏi tiếng chim vui
Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời
Sao buổi đầu xuân êm ái thế
Cánh hồng kết những nụ cười tươi
(Nụ cười xuân)
Có một điều khá lý thú là trong không gian thơ Xuân Diệu, thấp thoáng một số gương mặt tuổi trẻ, nhưng chủ yếu là gương mặt thiếu nữ. Người ta có thể hiểu vì đây là thơ của một thi sĩ đàn ông, một chàng trẻ tuổi đa tình. Và sự lấn át hẳn về số lần xuất hiện của dung nhan thiếu nữ so với hình bóng nửa kia của nhân loại chứng tỏ rất rõ ràng một lần nữa là tình yêu chiếm một vị trí quan trọng nhất trong tâm hồn nhà thơ Xuân Diệu. Đến mức chỉ còn đối tượng của ái tình là hiện ra thật rõ rệt còn những gương mặt khác, ngoài tầm chú ý cao độ của chủ thể thì nhoè phai, mờ nhạt hẳn.
Gương mặt đó khi thì bừng sáng long lanh như buổi bình minh:
"Thiếu nữ nhìn sương chói mặt trời"
Khi tươi tắn trong niềm vui
"Em vui đi răng nở ánh trăng rằm"
"Thiếu nữ làm duyên đứng mỉm cười"
Khi bâng khuâng
"Thiếu nữ bâng khuâng đợi một người"
Khi rầu rĩ, mơ màng
"ít nhiều thiếu nữ buồn không nói
Tựa cửa nhìn song nghĩ ngợi gì"
Nhưng đều nhận được những nâng niu, âu yếm của nhà thơ. Và dường như cả tạo vật cũng đẹp một cách đầy nữ tính trong thơ Xuân Diệu. Cả không gian thơ Xuân Diệu tràn ngập những duyên dáng, tình tứ, tha thướt, yêu kiều, tươi thắm, dịu dàng vốn là những đặc tính của một nhan sắc yêu kiều đầy nữ tính. Trăng được hình dung như "vú mộng tràn đầy". Liễu được nhìn như suối tóc dài thiếu nữ:
"Tóc liễu buông xanh quá mĩ miều"
Và cả trời đất có khi cũng tràn ngập sức quyến rũ của tuổi trăng tròn lẻ:
"Son sẻ trời như mười sáu tuổi
Má hồng phơi phới mắt long lanh"
(Rạo rực)
Nhìn chung có thể nhận rõ những đặc điểm sau đây của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu trước cách mạng:
1. Trong không gian ấy, những hiện tượng và sự vật chủ yếu là trăng, hoa, cây, lá, vườn, nắng, mưa, mây, gió, sương, những con đường những dòng sông, những dẫy núi và thấp thoáng một ít gương mặt tuổi trẻ.
Đó chủ yếu là những gì thuộc về thiên nhiên, là một không gian được nhìn từ góc độ của những hiện tượng và sự vật tự nhiên, thiên tạo.
Trong không gian ấy hình bóng của con người cụ thể không rõ lắm (trừ một đôi gương mặt tuổi trẻ như đã nói trên). Đó cũng không phải là một không gian gồm chứa những dấu vết, những chứng tích, những thành quả của văn hoá, của lịch sử kiểu như không gian nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khoa Điềm sau này
"Ôi đất nước đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta"
(Đất nước)
Đặc điểm này vốn bắt nguồn từ một quy luật chung của nghệ thuật lãng mạn: chủ nghĩa lãng mạn lý tưởng hoá thiên nhiên, tìm thấy ở thiên nhiên một nơi chốn lý tưởng cho cái đẹp cư ngụ, đặt thiên nhiên trong thế đối lập với xã hội, với loài người, với đô thị. Xã hội loài người là xấu xa và nguy hiểm. Đô thị phồn hoa là nơi dung chứa tội ác và tội lỗi, là sa mạc tinh thần giam hãm những cá nhân cô độc. Ngược lại thiên nhiên là trong sạch và thánh thiện, " là lý tưởng đã hoá đá", là cội nguồn của cái đẹp và là sức mạnh xoa dịu, cứu vớt, an ủi con người bị thương từ xã hội, từ đô thị trở về.
Nghiêng hẳn về phương diện thiên nhiên trong tạo dựng không gian nghệ thuật, thơ Xuân Diệu đã thể hiện thật rõ nét một quy luật của văn học lãng mạn.
2. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu tràn ngập âm sắc quyến rũ của trần gian, phản chiếu một cách sinh động nỗi đam mê lớn lao đối với cuộc đời và khát vọng sống mãnh liệt của thi sĩ.
Đây là một không gian của sức sống, của niềm vui, của những giá trị tích cực, của thế giới được nhìn từ phương diện đáng yêu nhất, sung mãn nhất...Không gian nghệ thuật ấy được xây dựng bởi những chất liệu của thực tại, là không gian của những cái " ở đây" và " bây giờ". Thơ Xuân Diệu là một bài ca về trần gian hiện tại trong dung mạo yêu kiều nhất của nó. Đây chính là điểm phân biệt thơ Xuân Diệu với thơ nhiều thi sĩ lãng mạn khác cùng thời, cùng trào lưu với ông.
Không gian nghệ thuật hân hoan, tươi rói trong thơ Xuân Diệu thật khác so với không gian tĩnh lặng, cao rộng đến rợn ngợp trong thơ Huy Cận mà ở đó con người chỉ là những chấm nhỏ đơn côi.
" Lơ thơ cồn nhỏ gió đìu hiu
Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều
Nắng xuống, trời lên sâu chót vót
Sông dài, trời rộng, bến cô liêu..."
(Tràng Giang)
Xét về phương diện này. Xuân Diệu ở vào thế hoà hợp " hữu nghị", tương giao thân ái với không gian. Còn Huy Cận lại thường rợn ngợp, khắc khoải với mặc cảm bị chìm đi, bị khuất lấp, bị bỏ mặc, bị tan biến trong một không gian khổng lồ ở tầm vũ trụ và trống vắng đến mức đe doạ.
Không gian nghệ thuật thơ Xuân Diệu bao giờ cũng được cảm nhận từ thời điểm hiện tại, được tạo dựng bởi những vật liệu thực có thể cảm nhận và kiểm chứng rằng các giác quan. Đó là một thế giới sinh động và hiện hữu. Trái lại, trong thơ của một thi sĩ nổi tiếng hoài cổ là Chế Lan Viên, không gian nghệ thuật lại được lấp đầy bởi những đầu lâu và xương cốt, oan hồn và ma quỷ, những đổ vỡ và hoang phế.
" Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới thời gian
Những sông vắng lê mình trong bóng tối
Những tượng chàm lở lói rỉ rên than
Đây những cảnh ngàn sâu cây lả ngọn
Muôn ma hời sờ soạng dắt nhau đi......"
( Trên đường về)
Đó là một không gian của khổ đau và hờn oán, một không gian được nhìn từ phương diện tan rữa, lụi tàn với những sắc màu tàn khốc nhất.
" Chiều hôm nay bỗng nhiên ta lạc bước
Vào nơi đây thế giới vạn cô hồn
Hơi người chết toả đầy trong gió lướt
Tiếng gió kêu dung chuyển cỏ xanh non
Trên một nấm mồ tàn ta nhặt được
Khớp xương ma trắng tựa não con người
Tuỷ đã cạn, nhưng vẫn đầm hơi ướt
Máu tuy khô, còn đượm khí tanh hôi"
( Xương Khô)
Đó là một không gian " rờn rợn khí yêu ma" được xây dựng lên bởi những chất liệu chắt ra từ hồi ức, từ hoài niệm và chủ yếu là từ tưởng tượng. Đó là một không gian hoang đường và kỳ ảo, khác rất xa với cái cõi đời tươi tắn, nõn nà và ấm nóng, nồng nàn của Xuân Diệu.
Ngược lại, cảm hứng chủ đạo ca ngợi vườn trần, xưng tụng sự sống sẽ còn xuyên suốt cuộc đời Xuân Diệu, qua tất cả những chặng đường sáng tạo về sau của nhà thơ.
3. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là một không gian " vừa tầm tay với của con người". Trong cái không gian ấy, tất cả đều đáng yêu, tươi tắn, gần gũi và thân thiện. Đó là một không gian cho con người
Có nhà nghiên cứu đã nhận xét: " Xuân Diệu, khó lòng làm chủ được những không gian tầng cao như Huy Cận, Hàn Mặc Tử" . Điều này hoàn toàn phù hợp với các tạng riêng của một nhà thơ thích hiện diện ngay ở giữa cõi đời, quyến luyến say mê mọi vẻ đẹp hồng tươi rực rỡ của đời sống, trần thế, Sợ "bóng tối" và " hư vô"
Đặc biệt ở những bài thơ có không gian trăng mặt bằng không gian càng rộng, sự lấn át càng lớn. Giữa không gian ấy ông bao giờ cũng trở nên nhỏ nhoi chao đảo.
"Trăng sáng trăng xa trăng rộng quá
Hai ngưòi nhưng chẳng bớt bơ vơ"
"Khắp biển trời xanh, chẳng bến trời
Mắt tìm thêm rợn ánh khơi vơi"
( Buồn trăng)
( Lý Hoài Thu. Thơ Xuân Diệu trước CM tháng 8 năm 1945 . tr 107)
Trong thơ Xuân Diệu đôi khi cũng có những không gian hoành tráng
"Huy hoàng trăng rộng, nguy nga gió
Xanh biếc trời cao, bạc đất bằng"
( Buồn trăng)
Nhưng những phong cảnh trên không xuất hiện với tần số cao trong thơ ông và ngay trong bài thơ ấy thì rút cục chủ thể trữ tình cũng không tan biến vào khoảng bao la kia mà lại trở về cõi trần nức hương, gần gũi và an bình của mình.
Thế Lữ có một tuyên ngôn nghệ thuật
" Tôi chỉ là một khách tình si
Ham vẻ đẹp muôn hình muôn vẻ
Mượn cây bút nàng ly tao tôi vẽ
Và mượn cây đàn ngàn phím tôi ca"
Cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ
Nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay...
( Cây đàn muôn điệu)
Trong sự phong phú vô cùng của chất liệu nghệ thuật mà người nghệ sĩ lãn mạn lựa chọn, Xuân Diệu không có thiên hướng đi tìm những cảnh vĩ đại, sóng nghiêng trời, thác ngàn đổ ", ông nghiêng hẳn về những " nét mong manh thấp thoáng cánh hoa bay"
Nếu diễn đạt bằng những từ ngữ mỹ học, ta có thể nói rằng trong không gian nghệ thuật của thơ Xuân Diệu, cái xinh xắn, cái duyên dáng, cái đẹp xuất hiện với số lượng nhiều hơn hơn hẳn so với cái cao cả, cái vĩ đại, cái khổng lồ, cái siêu phàm.
Chương II
Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu
Một không gian tồn tại trong những đối cực
Một đặc điểm nổi bật của không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu là nó không thuần nhất, không trong suốt mà chứa đựng những mâu thuẫn, những đối cực - Sự đối lập của những trạng thái rất khác nhau đã tạo nên cái xốn xang, bồn chồn và hối hả rất điển hình cho thơ Xuân Diệu.
1. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu - một không gian tình ái.
Xuân Diệu là nhà thơ thiết tha gắn bó với cuộc đời. Mà đỉnh điểm của lòng yêu đời là khát vọng ái tình. Sự sống ở trạng thái sung mãn nhất sẽ trào lên thành tình yêu, thành nhu cầu giao hoà, ân ái, dâng hiến và chiếm lĩnh Đối với Xuân Diệu, tình yêu là tinh hoa của sự sống, là biểu tượng rực rỡ nhất của tuổi thanh xuân, là nguồn hạnh phúc vô biên cho con người, nguồn thi hứng vô tận cho thơ ca. Phần lớn các bài thơ của Xuân Diệu trong giai đoạn này là thơ tình yêu. Đương thời và mãi về sau, Xuân Diệu luôn được coi là thi sĩ của tình yêu, là hoàng tử của thơ tình Việt Nam thế kỷ XX. "Là một nhà thơ luôn mang trong mình nỗi ao ước được tận hưởng mọi vẻ đẹp của đời sống trần thế, Xuân Diệu đã chọn tình yêu để gửi gắm lòng yêu đời và nỗi khát sống của mình" (Lý Hoài Thu -Sđd. tr.51). "Một nét đặc sắc nữa trong cảm xúc tình yêu của thơ Xuân Diệu là ông đã nâng tình yên lên thành triết lý về sự sống. Nhiều người đã nói về sự đa thanh, đa sắc trong tình yêu của Xuân Diệu. Nhưng có lẽ điều đáng nói nhất ở đây lại chính là ở chỗ Xuân Diệu xem tình yêu cao hơn chính nó, đó không chỉ là tình yêu nữa, mà là sự sống "(Lê Tiến Dũng- Những cách tân nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu giai đoạn 1932- 1945 - NXB Giáo dục - Hà Nội - 1998 - Tr.75)
Thế Lữ đã nhận xét từ rất sớm là: "Ham yêu, biết yêu, Xuân Diệu muốn tận hưởng tình yêu vì ông thấy chỉ tình yêu mới gồm được bao nhiêu ý nghĩa". Thế Lữ gọi Xuân Diệu là "Một con người ân ái đa tình". "Bằng những cảm xúc chân thực và khát vọng ân ái chính đáng của mình, Xuân Diệu đã thiết lập nên một thứ "chủ nghĩa yêu đương" hoàn toàn mới mẻ, phù hợp với quan niệm sống và yêu của thế hệ trẻ đương thời" (Lý Hoài Thu, Sdd tr. 52).
Thơ tình Xuân Diệu vừa thể hiện đến mức độ cao nhất, mức độ điển hình tâm thế mới, quan niệm sống mới của nghệ thuật lãng mạn, của phong trào thơ mới lại vừa có những nét đặc sắc riêng biệt chỉ riêng thuộc về cá tính sáng tạo của ông. Thơ tình Xuân Diệu phản ánh cái tôi vô cùng mạnh mẽ và độc đáo của nhà thơ.
Hơn ai hết, Xuân Diệu đã nâng tình yêu lên thành một triết lý sống, xem tình yêu là tinh hoa, là cốt lõi của sự sống. Ông tôn thờ tình yêu như là một thứ tôn giáo của "vườn trần". Xuân Diệu cũng là nhà thơ đã đem lại cho tình yêu trong thơ những sắc màu trần gian nhất. Nói cho thật chính xác, thơ tình Xuân Diệu đã kết hợp được một cách hài hoà giữa thể xác và linh hồn, giữa tâm linh và nhục thể, giữa dâng hiến và hưởng thụ. Xuân Diệu thần thánh hoá tình yêu nhưng không đi quá xa về phía đạo lý và khắc kỷ theo kiểu lý tưởng hoá. Thơ tình Xuân Diệu tràn trề những cảm giác ấm nóng, đê mê, nồng nàn và đắm đuối mà không trượt dài về phía nhục dục và thô thiển. Có nhà nghiên cứu đã viết " Xuân Diệu là người đưa nhục thể vào thơ một cách đầy tinh tế" Nhục thể trong tình yêu Xuân Diệu là nhục thể của một tâm hồn "mang sắc lòng tươi quá" nhưng lại không thô tục. Ông đã diễn tả bao nhiêu sắc độ của tình yêu với những trạng thái mạnh mẽ như muốn "ôm", muốn "siết", muốn "say", muốn "cắn", muốn "ngoàm", muốn "hút" mà không gợi lên sự sống sưọng của xác thịt, trái lại chỉ gợi cảm giác nồng nàn, tha thiết của tình yêu" (Lê Tiến Dũng. Sđd. tr.72).
Tình yêu như là cảm hứng chủ đạo trong thơ Xuân Diệu sẽ nhào nặn không gian nghệ thuật của thơ ông. Đó là một không gian tràn ngập tình yêu, thấm đẫm hương vị tình ái. Đó là một không gian phản chiếukhát vọng tình yêu mãnh liệt của nhà thơ đến mức tự nó cũng trở nên gợi tình và khát tình ở mọi nơi và mọi lúc.
Chúng ta đều biết rằng thời gian là nỗi ám ảnh lớn nhất trong thơ Xuân Diệu. Thời gian trôi chảy một cách vô tình và không thể nào cưỡng lại được. Mọi vật trên thế gian này đều bị cuốn trôi đi cùng với dòng chảy của thời gian. Theo Xuân Diệu, chỉ có thể chống lại thời gian bằng cách sống hết mình trong hiện tại, sống tối đa trong cương độ và tốc độ, sống ở trạng thái sung mãn và mãnh liệt nhất: yêu đương. Trong cuộc đấu tranh chống lại thời gian của Xuân Diệu, ông lấy không gian làm một đồng chí, một đồng loã của mình.
Không gian trong thơ Xuân Diệu chan chứa hương tình yêu.
"Tóc liễu buông xanh quá mỹ miều
Bên màu hoa mới thắm như kêu
Nỗi gì âu yếm qua không khí
Như thoảng đưa mùi hương mến yêu"
(Nụ cười xuân)
Chỉ trong thơ ông người ta mới được tận hưởng cái mùi vị nội tâm rất đặc biệt ấy: mùi hương mến yêu. Trong bầu khí quyển đậm đặc tình áiđó, mọi vật đều trở nên tình tứ và duyên dáng. Cả những hiện tượng tưởng như là tự nhiên nhất, vô tình nhất cũng hoá ra không phải là vậy, hoá ra là đầy ngụ ý, đầy ám ảnh và tất cả đều gợi nhắc đến những ý tứ, những động tác của tình yêu.
"ánh sáng ôm trùm những ngọn cao
Cây vàng rung nắng lá xôn xao.
Gió thơm phơ phất bay vô ý
Đem đụng cành mai sát nhánh đào"
(Nụ cười xuân)
"Là một tâm hồn khao khát tình yêu, Xuân Diệu, luôn luôn tiếp cận thiên nhiên qua lăng kính ái ân. Nhà thơ thường mang cái cảm xúc trẻ trung, sôi nổi của tâm hồn mình trải lên cảnh vật. Ông nhìn thấy trong sắc nắng mùa xuân những hồi hộp xao xuyến của một thứ tình yêu ngây thơ, non trẻ Và cũng chỉ Xuân Diệu mới nhìn thấy nét gợi tình lạ lùng này:
"Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần"
(Lý Hoài Thu. Sđd. tr.47)
Thiên nhiên đồng dạng với tâm hồn đa tình của nhà thơ. Trong văn học lãng mạn, người ta hay nói đến thiên nhiên nhưlà người chứng giám, như là kẻ thứ ba tham gia vào những cuộc tình tự. Trong thơ Xuân Diệu, thiên nhiên dường như tiến xa hơn nhiều vai trò chở che và chứng kiến đó: nó cũng trở nên đắm say như chính bản thân tác giả đang yêu.
Khi nhà thơ ở trong trạng thái ngây ngất.
"Với bàn tay ấy ở trong tay"
đến độ có thể nguôi quên hận tháng ngày, mỗi sầu hận ám ảnh dai dẳng nhất và sâu sắc nhất tâm hồn con người: thì thiên nhiên cũng lạc vào trạng thái căng tràn những khát khao giao hoà và ân ái. Cảnh vật không đứng yên, không tĩnh lặng. Chúng mải miết tìm kiếm và quyết luyến nhau.
" Một tối bầu trời đắm sắc mây
Cây tìm nghiêng xuống nhành hoa gầy
Hoa nghiêng xuống cỏ trong khi cỏ
Nghiêng xuống làn rêu, một tối đầy
Những lời huyền bí toả lên trăng
Những ý bao la rủ xuống trần
Những tiếng ân tình hoa bảo gió.
Gió đào the thẻ bảo hoa xuân"
(Với bàn tay ấy)
Em đã được xem bức tượng Mùa xuân vĩnh cửu của nhà điều khắc người Pháp Rôđanh. ở tác phẩm đó, tư thế ái ân âu yếm của một đôi tình nhân được mô tả như là vẻ đẹp lý tưởng và vĩnh cửu của nhân loại. Người đọc cũng có một cảm tưởng tương tự, dường như trong bài thơ này của Xuân Diệu, hoa, cỏ, rêu, cây, gió, mây, trăng cũng đang ở vào tư thế ái ân, đang quấn quýt, giao hoà với nhau đầy âu yếm trong một niềm hoan lạc vô biên. Và đólà một trạng thái yêu đương ở tầm không gian, ở tầm vũ trụ, ở quy mô tổng thể vì không chỉ những sự vật cụ thể mới tham gia vào vũ điệu tình ái đó, mà là cả trời và đất, cả không gian và trần gian. Những thông điệp của tình yêu được gửi từ dưới đất "lên trăng" và từ bao la" rủ xuống trần".
Đến "Hoa đêm" thì đã là cả một cuộc tình tự đắm say mà gió và hoa trở thành những nhân vật chính. Không gian và thời gian đêm trong thơ Xuân Diệu khác nhiều so với không gian và thời gian đêm trong thơ của nhiều nhà thơ lãng mạn khác. Trong thơ Huy Cận hay thơ Chế lan Viên, đêm thường đồng nghĩa với những gì là buồn bã, âm u, hoặc rùng rợn, ma quái. Đêm ám ảnh con người. Đêm đem lại bao nhiêu là cảm nhận day dứt hơn về cái nhỏ nhoi của kiếp người, về sự trống vắng và bao la của không gian đối lập với những chấm nhỏ cá thể bơ vơ và đơn côi. Đêm ảo não với bao nhiêu hồn ma, bóng quỷ hiện về
Ngược lại, đêm trong thơ Xuân Diệu là thời khắc của tình ái. Hình như bóng đêm, bóng trăng đều trợ lực, đồng loã với những cặp tình nhân. Trong đêm, hương tình còn có phần nồng nàn hơn cả ban ngày. Đây là không gian yên lành và mơ mộng của "Hoa đêm"
"Chen lá lục, những búp lài mở nửa
Hớp bóng trăng đầy miệng nhỏ xinh xinh
Vì gió im và đêm cứ làm thinh.
Đoàn giây phút cũng lần khân, nghỉ đã.
Trăng ở đó đất vườn thêu bóng lá
Trời trên kia vàng mạ, sáng như băng.
Lá lim dim trên mấy ngọn bằng bằng.
Cành lả lả chờ tay ai đón đẩy"
(Hoa đêm)
Các cô gái hoa đêm xuất hiện với dung mạo thật yêu kiều, rất nồng nàn và khát khao tình ái mà cũng rất trắng trong, tinh khiết:
"Bông hoa lài thức dậy, sánh từng đôi
Hoa lài xanh dưới ánh nguyệt tuôn trời
ánh nguyệt trắng trên hoa lài đúc sữa
Sao họ khéo nõn nà mà bợ ngợ
Những nàng hoa chờ đợi gió phong lưu!
Đáng yêu thay trong vẻ khẽ nghiêng đầu
Lá xanh đỡ yêu yêu thân tuyết bạch
Nguyệt lác đác tiếng nở giòn lách tách
Lòng phơi phơi chừng đợi cái ong châm
Miệng thở ra hương, hương toả tình ngầm
Hoa kỹ nữ đã mở lời trêu ghẹo"
Chàng gió được mô tả như là một công tử phiêu lãng và phong tình:
"Chàng gió lạ đi khuya ngoài khuất nẻo
Nghe tiếng thơm liều liệu đếm tìm hương
Cánh du lang tha thướt phấn qua tường
áo công tử dải là vương não nuột"
Và cuộc tình tự của họ mới thần tiên làm sao, rất đắm đuối nồng nàn mà cũng rất mơ màng, bay bổng:
Này hoa ngọc đã giật mình trắng muốt
Thoảng tay tình gió vuốt, bỗng lao đao
Hương hiu hiu nên gió cùng ngọt ngào
Hôn nho nhỏ mà đầu hoa nặng chĩu
Là màu sắc hay chỉ là âm điệu
Là hương say hay ấy chính rượu thơm
(Hoa đêm)
Cả không gian trong "hoa đêm" rạo rực ham muốn ái tình. ánh trăng "Mối lái phủ màng tơ mơ mộng" càng làm cho cuộc tình tự trở nên hoang đường và kỳ ảo, như nhuốm màu sắc của những mối tình "Liêu trai". Cuộc ái ân dường như đã đi quá quan hệ tài tử - giai nhân, chớm đến chiều "lả lơi ông bướm" kiểu kỹ nữ và khách phong tình với những "lòng phơi phơi", "tay tình gió vuốt" những "hôn nho nhỏ", "lao đao", "đầu nặng trĩu" và "nghìn ngón tay ôm ".. Những cuộc tình tự được đẩy lên đến độ nồng nàn và đắm say nhất mà tuyệt nhiên chưa hề gợi khắc gì đến những cảm xúc nhục thể. Tất cả vẫn còn dừng lại trong e ấp, trong chừng mực, trong nâng niu và trân trọng lẫn nhau. Thơ tình Xuân Diệu là như thế, như nhiều nhà nghiên cứu đã nhận xét:
"Vượt lên trên tất cả những cảm giác nhục thể, Xuân Diệu muốn vươn tới cái lý tưởng của tình yêu: Sự hoà hợp tuyệt vời giữa tâm linh và thân thể. Thơ Xuân Diệu chưa bao giờ dừng lại ở khoái cảm bản năng mà ở cái kết thúc của mỗi bài thơ ông thường thâu tóm toàn bộ tư tưởng tình yêu và nâng thêm một tầng nghĩa mới. Thơ tình Xuân Diệu, vì vậy vừa bộc lộ được những khát khao lành mạnh của nhịp sống trần thế, vừa hết sức thanh tao, mơ mộng" (Lý Hoài Thu - Sđd tr.65).
"Cảm xúc nhục thể trong thơ Xuân Diệu hiện ra với tất cả sự cao cả và trần thế của nó, là biểu hiện của một khát vọng sống, của chất sống chứ không phải là một cảm giác "xác thịt" thuần tuý" (Lê Tiến Dũng, Sđd, tr.73)
2. Không gian nghệ thuật trong thơ Xuân Diệu bị ám ảnh bởi sự tàn phá của thời gian:
Văn học lãng mạn có cách nhìn về thời gian khác hẳn so với nhiều nền văn học khác. Ngay trong cùng thời điểm xuất hiện của thơ Mới, Tố Hữu, nhà thơ cách mạng trẻ tuổi đã có một quan niệm khoẻ khoắn và đầy lạc quan về bước đi của thời gian. Trong cách hiểu của Tố Hữu, sự vận động của thời gian về cơ bản là một quá trình tích cực. Từ quá khứ qua hiện tại đến tương lai là sự phát triển, sự sinh trưởng, sự nảy nở, sự đổi thay về hướng tươi sáng, tốt đẹp.
Ngày mai cô sẽ từ trong tới ngoài
Thơm như hương nhụy hoa lài
Sạch như nước suối ban mai giữa rừng
Ngày mai gió mới ngàn phương
Sẽ đưa cô đến một vườn đầy xuân
Ngày mai trong giá trắng ngần
Cô thôi kiếp sống đầy thân giang hồ.
Ngày mai bao lớp đời dơ.
Sẽ tan như đám mây mờ đêm nay.
Cô ơi tháng rộng ngày dài.
Mở lòng ra đón ngày mai huy hoàng
(Cô gái Sông Hương)
Tố Hữu thường tâm niệm:
"Rồi mai đây tất cả sẽ là chung
Tất cả sẽ là vui và ánh sáng"
Cái ngày mai ấy thật tốt đẹp, thật hứa hẹn và hơn hẳn cái hiện tại "đêm nay". Ngược lại, văn học lãng mạn quan niệm sự vận động của thời gian là đồng nghĩa với những gì thuộc về mất mát, suy tàn, phôi phai, huỷ diệt. Quá khứ là vàng son. Hiện tại so với quá khứ là một sự suy đồi, sa đoạ. Còn tương lai hiện ra thật mịt mù, thật bất định và không hề hứa hẹn một chút gì tốt đẹp.
Chế Lan Viên viết:
"Cả dĩ vãng là chuỗi mồ vô tận
Cả tương lai là chuỗi huyệt chưa thành
Và hiện tại, biết cùng chăng hỡi bạn
Cũng đương chôn lặng lẽ chuỗi ngày xanh
Trong nắng hè lá tươi đà đổi sắc
Dệt mùa thu sắp đến. Tựa đời ta
Chuỗi ngày xanh, hùa theo nhau phai nhạt
Dệt tấm màn, quàng liệm tấm hồn ta!
(Những nấm mồ)
Huy Cận hay hồi tưởng lại "thời muôn năm trước"
"Đêm mơ lay ánh trăng tàn
Hồn xưa gửi tiếng thời gian, trống dồn"
(Chiều xưa)
Nhưng trong thơ ông, cũng như trong thơ của nhiều nhà thơ lãng mạn khác thời kỳ thơ mới, những gì đẹp đẽ, vàng son đều bay vèo, ngược chiều thời gian vào cõi xưa, vào hư vô nên nhà thơ cảm thán:
"Màu năm tháng cũng ngậm ngùi thế nhỉ"
(Trò chuyện)
Vũ Hoàng Chương thì run rẩy và buông xuôi bất lực từ rất sớm trước những bước đi tàn nhẫn của thời gian.
"Mưa lùa gian gác xép
Ngày trắng theo nhau qua
Lá rơi đầy ngõ hẹp
Đời hiu hiu xế tà"
" Ngoài ba mươi tuổi duyên còn hết
Một ván cờ thua ngả bóng chiều"
Nhưng có lẽ người cảm thán thường xuyên nhất và day dứt nhất trước dòng thời gian trong thơ Mới chính là Xuân Diệu .
Trong thơ Xuân Diệu, không một cái gì trên cõi đời này chống trả lại được sức mạnh tàn phá của thời gian, dù đó là trời, đất, mây, nước, núi sông hay một cọng lá, một nhành hoa, một sắc xuân son sẻ, một nét thu mơ màng và cả lòng người, tình yêu, tuổi trẻ. Trong thơ ông, thế giới biến đổi khôn lường và không ngừng như một dòng sông.
"Thuyền qua, mà nước cũng trôi
Lại thêm mây bạc trên trời cũng bay
Tôi đi trên chiếc thuyền này
Giòng mơ tơ tưởng cũng thay khác rồi.
Cái bay không đợi cái trôi
Từ tôi phút trước, sang tôi phút này"
(Đi thuyền)
Điều đáng nói ở đây là trong dòng chảy trôi vô tận đó, người ta dễ dàng nhận ra xa hướng chung của vận động là sự xấu đi, sự phai tàn, sự mất mát. Đời người là thế:
"Tóc ngời mai mốt không đen nữa
Tuổi trẻ khô đi, mặt xấu rồi".
(Hư vô)
Tình yêu là thế:
"Tình thổi gió, màu yêu lên phơi phới
Nhưng đôi ngày, tình mới đã thành xưa
Nắng mọc chưa tin, hoa rụng không ngờ
Tình yêu đến tình yêu đi ai biết.
Trong gặp gỡ đã có mầm li biệt"
(Giục giã)
Lòng người là thế
"Ai nói trước lòng anh không phản trắc
Mà lòng em sao lại chắc trơ trơ?"
(Giục giã)
Và tạo vật cũng là thế:
" Hoa nở để mà tàn
Trăng tròn, để mà khuyết
Bèo hợp để chia tan
Người gần để li biệt
Hoa thu không nắng cũng phai màu
Trên mặt người kia in nét đau"
(Hoa nở để mà tàn)
Nét riêng đầu tiên của Xuân Diệu là nhà thơ cảm nhận sự thay đổi, sự chảy trôi của thời gian không chỉ trên những nét tổng thể, trên toàn khối không - thời gian như ở nhiều nhà thơ khác mà ngay trong từng phiến đoạn của dòng trôi, từng khoảng khắc nhỏ nhất của thời gian. Nghĩa là trong thơ Xuân Diệu, thời gian không chỉ là đã trôi qua, mà nó đang trôi qua.
" Thong thả, chiều vàng thong thả lại
Rồi đi đếm xám tới dần dần.
Cứ thế mà bay cho đến hết
Những ngày những tháng những mùa xuân"
(Giờ tàn)
"Vừa xịch gối chăn, mộng vàng tan biến
Dung nhan xê dịch, sắc đẹp tan tành
Vàng son đương lộng lẫy buổi chiều xanh.
Quay mặt lại cả lầu chiều đã vỡ"
(Giục giã)
Mổ xẻ, phân tích cái sự trôi đó, nhà thơ nhìn thấy ẩn hoạ tàn phai ở ngay trong lòng sự vật, tiềm tàng từ những trạng thái sơ khởi, những "sẽ" và "đang"
"Trong gặp gỡ có mầm li biệt.."
(Giục giã)
"Xuân đương tới nghĩa là xuân đương qua
Xuân còn non, nghĩa là xuân sẽ già"
(Vội vàng)
Nét đặc biệt thứ hai trong cảm nhận thời gian của Xuân Diệu là nhà thơ không can tâm c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0296.doc