Khóa luận Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở Giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG 1. CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN 3

1.1 Hoạt động cho vay của Ngân hàng thương mại 3

1.1.1 Hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại 3

1.1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại 9

1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 10

1.2.1 Khái quát về doanh nghiệp tư nhân 10

1.2.1.1 Khái niệm và đặc điểm của doanh nghiệp tư nhân 10

1.2.1.2 Vai trò của doanh nghiệp tư nhân trong nền kinh tế 12

1.2.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 14

1.2.2.1 Khái niệm về hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 14

1.2.2.2 Quy trình cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 17

1.2.3. Mở rộng hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Ngân hàng thương mại 19

1.3 Những nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của ngân hàng thương mại 21

1.3.1 Những nhân tố chủ quan 21

1.3.2 Những nhân tố khách quan 25

CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 29

2.1 Tổng quan về Sở giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 29

2.1.1 Lịch sử hình thành và phát triển của Sở giao dịch 29

2.1.2 Mô hình tổ chức của Sở Giao dịch 31

2.1.3 Tình hình hoạt động của Sở giao dịch trong 3 năm trở lại đây 33

2.1.3.1 Hoạt động huy động vốn 33

2.1.3.2 Hoạt động cho vay 36

2.1.3.3 Hoạt động dịch vụ 39

2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 40

2.2.1 Khái quát về các doanh nghiệp tư nhân là khách hàng của Sở giao dịch 40

2.2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 41

2.2.2.1 Quy trình cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 41

2.2.2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 44

2.3 Đánh giá thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 49

2.3.1 Những thành tựu của Sở giao dịch trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân 49

2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 51

2.3.2.1 Hạn chế 51

2.3.2.2 Nguyên nhân 52

CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP MỞ RỘNG CHO VAY ĐỐI VỚI CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN VIỆT NAM 58

3.1 Định hướng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch trong thời gian tới 58

3.1.1 Nhu cầu vay vốn của các doanh nghiệp tư nhân tại Hà Nội trong thời gian tới 58

3.1.2 Định hướng mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch trong thời gian tới 60

3.2 Giải pháp mở rộng cho vay đối với doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 61

3.2.1 Tăng cường huy động vốn 61

3.2.2 Tăng cường hoạt động marketing 63

3.2.3 Điều chỉnh chính sách tín dụng theo hướng cởi mở hơn với doanh nghiệp tư nhân 68

3.2.4 Đổi mới quy trình cho vay phù hợp với doanh nghiệp tư nhân 69

3.2.5 Nâng cao chất lượng công tác quản lý rủi ro tín dụng 71

3.3 Một số kiến nghị 73

3.3.1 Kiến nghị đối với các doanh nghiệp tư nhân 73

3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 75

3.3.3 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 76

3.3.4 Kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền liên quan 77

KẾT LUẬN 80

 

 

doc86 trang | Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1006 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở Giao dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
10.926 100.0% 34.0% 13,620.606 100.0% 35.0% (Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005 – 2007) Số vốn tăng dần qua các năm cho thấy khả năng huy động vốn của SGD khá tốt. Tốc độ tăng trưởng vốn khá đều, khoảng 34%/năm. So với mục tiêu tăng trưởng bình quân huy động vốn 22-25%/năm thì SGD đã đạt được mức cao hơn. Đối với TG từ tổ chức kinh tế, con số này tăng liên tục trong 3 năm gần đây. Hơn nữa, tốc độ gia tăng khá cao, thường đạt 63-65%/năm. Điều đó chứng tỏ, SGD không chỉ củng cố quan hệ với các KH truyền thống mà đã thu hút được nhiều KH mới. Nhờ việc đưa ra chế độ lãi suất hấp dẫn, các công cụ huy động linh hoạt và cung cấp các dịch vụ thanh toán hiện đại, SGD đã huy động được lượng tiền gửi lớn từ phía các tổ chức kinh tế. Trong cơ cấu TG từ tổ chức kinh tế, cả hai nhóm TG có kỳ hạn và TG không kỳ hạn đều có sự tăng trưởng. Song, TG không kỳ hạn có tốc độ tăng trưởng cao hơn, thường đạt 95-100%/năm, so với tốc độ 50%/năm của TG có kỳ hạn. Điều này có thể được lý giải bởi hai lý do: thứ nhất là nhà đầu tư nước ngoài phải mở tài khoản vốn đầu tư tại NH, mà luồng vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp đổ vào Việt Nam đang tăng rất nhanh. Thứ hai là thị trường chứng khoán phát triển kéo theo sự gia tăng số lượng tài khoản mà nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán. Chính hai lý do này đã làm cho lượng tiền gửi thanh toán tại SGD tăng cao. Bộ phận TG của dân cư: thứ nhất, lượng TG giảm dần qua các năm. Nguyên nhân là các NHTM Nhà nước nói chung và SGD nói riêng thường áp dụng mức lãi suất huy động thấp hơn các NHTM cổ phần khác. Chính điều này đã hạn chế sức cạnh tranh của SGD trong cuộc chạy đua về lãi suất huy động với các NH khác. Thứ hai, xét về cơ cấu thì TG tiết kiệm luôn chiếm tỷ trọng lớn nhất, từ 80-90% tổng tiền gửi của dân cư, và có xu hướng tăng dần qua các năm. Đó là nhờ hệ thống công nghệ hiện đại, SGD đã áp dụng nhiều hình thức huy động mới như tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm “Ổ trứng vàng” để thu hút lượng tiền gửi ngắn hạn từ phía dân cư. Trong khi đó, công cụ huy động vốn trung - dài hạn của SGD lại tỏ ra kém hiệu quả. Bằng chứng là lượng tiền huy động từ phát hành kỳ phiếu, trái phiếu và chứng chỉ tiền gửi giảm dần qua các năm, cả về giá trị lẫn tỷ trọng. Như vậy, nguồn huy động của SGD chủ yếu là nguồn ngắn hạn. Thực tế này đã đặt ra cho SGD khó khăn lớn trong việc kiểm soát rủi ro kỳ hạn cũng như đáp ứng nhu cầu vay của KH, bởi lĩnh vực hoạt động chính của SGD vẫn là tài trợ các dự án đầu tư xây dựng, cần vốn lớn với kỳ hạn dài. Về cơ cấu vốn huy động, có thể nhận thấy sự thay đổi theo hướng: tỷ trọng TG của tổ chức kinh tế tăng dần qua các năm, tương ứng với sự suy giảm tỷ trọng TG của dân cư. Hình 2.1 Biến động cơ cấu vốn huy động TG dân cư đang có xu hướng chuyển dịch từ NHTM nhà nước sang khối NHTM cổ phần, do mức lãi suất cao mà các NHTM cổ phần đưa ra. Chính vì thế, SGD cần quan tâm hơn nữa đến việc huy động vốn từ bộ phận này, bởi nguồn vốn từ dân cư có tiềm lực rất lớn và ngày càng quan trọng đối với các NH. Hơn nữa, phần lớn người dân vẫn còn tâm lý tin tưởng vào các NHTM nhà nước. Đó là yếu tố mà SGD có thể tận dụng để tăng cường huy động vốn từ dân cư. 2.1.3.2 Hoạt động cho vay Có thể nói cho vay là hoạt động tiếp nối của huy động vốn. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh doanh mà HSC giao cho, SGD đã không ngừng mở rộng khách hàng, nâng cao chất lượng và tăng cường quy mô các khoản cho vay. Bên cạnh đó, SGD cũng chú ý tới việc đảm bảo an toàn tín dụng trên cơ sở chấp hành các nguyên tắc, chỉ số an toàn và giới hạn tín dụng mà HSC quy định. Cơ cấu cho vay theo thành phần của SGD được thể hiện trong bảng số liệu dưới đây: Bảng 2.2 Cơ cấu cho vay theo thành phần Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị TT Giá trị TT Tăng Giá trị TT Tăng DN tư nhân 625.796 13.0% 1000.15 20.0% 59.8% 1358.471 26.2% 35.8% DN nhà nước 4188.02 87.0% 4000.602 80.0% -4.5% 3826.533 73.8% -4.4% TỔNG CỘNG 4813.816 100.0% 5000.752 100.0% 3.9% 5185.004 100.0% 3.7% ( Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005 – 2007) Dư nợ cho vay của SGD tăng trưởng liên tục qua các năm với tốc độ trung bình 3.8%/năm. Với phương châm “Hiệu quả kinh doanh của KH là mục tiêu hoạt động của NH”, các sản phẩm tín dụng của SGD ngày càng được đa dạng hoá, không ngừng đáp ứng nhu cầu của KH. Mặt khác, cùng với sự phát triển của thị trường chứng khoán, SGD đã mở rộng cho vay đầu tư, kinh doanh chứng khoán và cho vay cầm cố bằng chứng khoán. Vì thế, qua 3 năm, hoạt động tín dụng của SGD có sự tăng trưởng với tốc độ khá ổn định. Mặt khác, tỷ trọng cho vay đối với các DN tư nhân tăng dần. Trong quá trình hội nhập của Việt Nam, các DN tư nhân đã thích nghi nhanh chóng, tỏ rõ sự nhạy bén linh hoạt và đóng vai trò ngày càng quan trọng vào sự phát triển kinh tế. Do đó, xu hướng chung của các NHTM là tăng cường cho vay các DN này. Hiệu quả từ việc cho vay các DN tư nhân đã thúc đẩy SGD tăng tỷ trọng của nhóm này trong cơ cấu tín dụng. Nếu xét về kỳ hạn, cơ cấu cho vay của SGD lại thay đổi theo chiều hướng tăng dần các khoản cho vay ngắn hạn, giảm cho vay trung – dài hạn để phù hợp với cơ cấu nguồn của SGD. Điều này được thể hiện qua hình 2.2: Hình 2.2 Cơ cấu cho vay theo kỳ hạn ( Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005-2007) Đây chính là cơ cấu mà SGD áp dụng, nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Thông qua việc đa dạng hoá các hình thức cho vay ngắn hạn như: Cho vay hỗ trợ vốn trong khi chờ thanh toán của chủ đầu tư, cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, chiết khấu bộ chứng từ, cho vay tiêu dùng, cho vay cầm cố,SGD đã mở rộng cho vay ngắn hạn để đảm bảo sự phù hợp về kỳ hạn với nguồn huy động. Bên cạnh đó, cho vay trung dài hạn vẫn được duy trì với tỷ trọng nhất định để đảm bảo thu nhập cho SGD. Chính nhờ sự thay đổi hợp lý về cơ cấu, chất lượng tín dụng của SGD đã tăng lên, biểu hiện rõ ràng nhất là tỷ lệ nợ quá hạn giảm dần qua các năm Hình 2.3 Tỷ lệ nợ quá hạn qua các năm ( Nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005 – 2007) Căn cứ vào những phân tích trên, có thể nhận định rằng, SGD đã làm tốt công tác mở rộng khách hàng, đảm bảo an toàn và nâng cao chất lượng tín dụng. Nhờ đó, hoạt động cho vay của SGD đã phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu. 2.1.3.3 Hoạt động dịch vụ Trước đây, hoạt động của NH chủ yếu tập trung cho vay. Lợi nhuận từ hoạt động cho vay chiếm tới trên 90% tổng lợi nhuận của NH. Tuy nhiên, hoạt động dịch vụ ngày càng có ảnh hưởng tới lợi nhuận, hình ảnh và thương hiệu nên các NHTM đều đang nỗ lực phát triển mảng hoạt động này. SGD cũng đã thành công trong việc tăng doanh thu từ dịch vụ, điều đó được thể hiện qua bảng sau: Bảng 2.3 Doanh thu từ dịch vụ qua các năm Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị Giá trị Tăng Giá trị Tăng Thu dịch vụ ròng 25.6 49.512 93.40% 58.397 18% ( Nguồn: Báo cáo thường niên của SGD năm 2005 – 2007) Hướng tới mô hình NHTM hiện đại, SGD luôn chú trọng đến việc nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ. Việc áp dụng hiệu quả hệ thống công nghệ hiện đại cho phép SGD đưa ra thị trường hàng loạt sản phẩm dịch vụ tiện ích như Home banking, Phone Banking, Thanh toán trong nước và quốc tế, Chuyển tiền kiều hối toàn cầu, Dịch vụ thẻ, séc, Bảo hiểm, Bảo lãnh NHBên cạnh đó, thị trường chứng khoán phát triển đã tạo ra cho các NHTM nói chung và SGD nói riêng cơ hội để khai thác các dịch vụ phục vụ thị trường chứng khoán. Các dịch vụ như môi giới chứng khoán, tư vấn đầu tư, chi trả tiền đặt cọc, nhận tiền trúng thầu mua cổ phiếungày càng phát triển. Nhờ những hoạt động phục vụ thị trường chứng khoán, nâng cao chất lượng dịch vụ, SGD đã thu hút được rất nhiều khách hàng đến với mình. Số lượng cá nhân và các tổ chức kinh tế mở tài khoản, sử dụng dịch vụ thanh toán, bảo lãnhcủa SGD tăng lên đáng kể. Năm 2006 chứng kiến bước đột phá trong lĩnh vực này, khi mà doanh thu từ hoạt động dịch vụ tăng tới 93% so với năm 2005. Những năm tới đây, đội ngũ cán bộ của SGD sẽ làm hết sức mình để hướng tới mục tiêu tăng trưởng doanh thu dịch vụ bình quân 25-27%/năm, đồng thời tăng tỷ lệ doanh thu từ hoạt động dịch vụ trong tổng doanh thu của SGD. 2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 2.2.1 Khái quát về các doanh nghiệp tư nhân là khách hàng của Sở giao dịch Trước hết, các DNTN có quan hệ tín dụng với SGD có số lượng rất ít và đa số là các DN vừa và nhỏ. Hiện nay, SGD có 69 khách hàng là DNTN. 90% trong số đó là DN vừa và nhỏ với quy mô vốn không quá 10 tỷ đồng và quy mô lao động không quá 300 người. Nhìn chung, bộ phận khách hàng là DNTN của SGD vẫn còn rất nhỏ, cả về số lượng lẫn quy mô. Tuy vậy, hầu hết khách hàng DNTN của SGD đều là những DN có hiệu quả sản xuất kinh doanh cao. Có thể kể đến một số khách hàng tiêu biểu như KOVA, Sơn Hà, DIANA, Mai Linh, Ladoda, Hoà Phát, Alphanam Đây đều là những doanh nghiệp đã có chỗ đứng trên thị trường và đang dần khẳng định được thương hiệu. Nhu cầu đầu tư để mở rộng sản xuất, nâng cao năng lực cạnh tranh của những doanh nghiệp này là rất lớn. Không những thế, các khách hàng này đều có uy tín, có lịch sử tín dụng tốt. Có thể nói rằng, bộ phận khách hàng DNTN của SGD, tuy có số lượng ít, quy mô nhỏ nhưng nhu cầu về vốn lại rất lớn và tiềm năng phát triển tốt. Với nền tảng khách hàng đó,thực trạng cho vay các DNTN của SGD diễn ra như thế nào? 2.2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 2.2.2.1 Quy trình cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch Quy trình cho vay bắt đầu từ khi cán bộ tín dụng tiếp nhận hồ sơ của KH và kết thúc khi tất toán, thanh lý hợp đồng tín dụng. Quy trình này được áp dụng chung cho toàn hệ thống BIDV và có thể được tóm tắt theo sơ đồ sau: Tiếp nhận và hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn Thẩm định các điều kiện tín dụng Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh Từ chối cho vay Từ chối cho vay Xét duyệt cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng Giải ngân và giám sát việc sử dụng vốn vay Thanh lý hợp đồng tín dụng Bước 1: Tiếp nhận và hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn Khi DNTN có đề nghị vay vốn của SGD, cán bộ tín dụng trao đổi với DN đó để tìm hiểu về mục đích vay vốn, hoạt động kinh doanh, vị thế của DN trong ngành nghề kinh doanh của họ. Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần xác định xem liệu dự án sắp được tài trợ có nằm trong khả năng của KH hay không; có phù hợp với chính sách tín dụng của SGD hay không. Nếu phù hợp, cán bộ tín dụng hướng dẫn KH về hồ sơ vay vốn. Nếu không, yêu cầu vay vốn của KH sẽ bị từ chối. Kết thúc bước 1, cán bộ tín dụng phải đảm bảo đã nhận được tất cả các thông tin, tài liệu cần thiết, để phục vụ cho bước tiếp theo. Bước 2: Thẩm định các điều kiện tín dụng Đây là khâu quan trọng nhất, quyết định tới chất lượng của khoản cho vay. Cán bộ tín dụng phải thẩm định theo rất nhiều nội dung. Trước hết, cán bộ tín dụng phải có những đánh giá chung về khách hàng, bao gồm tư cách pháp lý, năng lực điều hành, năng lực quản lý sản xuất kinh doanh, các rủi ro chủ yếu của khách hàngTiếp theo, cán bộ tín dụng phải kiểm tra tính chính xác, trung thực của báo cáo tài chính mà KH cung cấp. Cán bộ tín dụng cũng cần đánh giá tình hình quan hệ của KH với SGD hay các chi nhánh khác trong hệ thống BIDV, với các tổ chức tín dụng khác. Bước tiếp theo là phân tích phương án sản xuất kinh doanh để kết luận về tính khả thi, hiệu quả của nó. Thẩm định tài sản đảm bảo cũng là nội dung không thể thiếu của bước này. Sau khi thẩm định khách hàng vay vốn, cán bộ tín dụng phải thẩm định các điều kiện tín dụng. Cụ thể, cán bộ tín dụng xác định phương thức cho vay; xác định số tiền cho vay; lãi suất; thời gian cho vayCán bộ tín dụng còn phải xem xét khả năng nguồn vốn của SGD, để biết được SGD có thể đáp ứng yêu cầu vay của khách hàng hay không. Bước 3: Xét duyệt cho vay và ký kết hợp đồng tín dụng Sau khi thẩm định các điều kiện vay vốn ở bước 2, cán bộ tín dụng lập Tờ trình cho vay kèm theo báo cáo thẩm định, hồ sơ vay vốn trình trưởng phòng tín dụng. Trưởng phòng tín dụng kiểm tra và cho ý kiến vào tờ trình rồi trình lãnh đạo. Lãnh đạo sẽ xem xét lại hồ sơ mà trưởng phòng tín dụng trình để quyết định duyệt đồng ý cho vay, không cho vay Trong vòng 10 ngày làm việc (đối với cho vay ngắn hạn) và 25 ngày (đối với cho vay trung dài hạn) kể từ khi DNTN cung cấp hồ sơ vay vốn đầy đủ theo quy định, SGD phải có văn bản trả lời cho DN đó về quyết định của mình. Nếu đề xuất vay vốn không được phê duyệt, cán bộ tín dụng chuyển trả lại hồ sơ cho KH. Nếu được chấp thuận, hồ sơ tín dụng được chuyển lại cho trưởng phòng tín dụng. Cán bộ tín dụng gặp KH để đảm bảo rằng các điều kiện vay vốn được KH chấp nhận. Các điều khoản của hợp đồng tín dụng được quyết định và thống nhất bằng văn bản. Sau khi có sự thống nhất, Giám đốc SGD hoặc Phó giám đốc phụ trách tín dụng sẽ ký hợp đồng với KH. Bước 4: Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn vay Trước khi giải ngân, cán bộ tín dụng quản lý giải ngân phải xác định rằng các tài liệu và các điều kiện đã được đáp ứng đầy đủ. Cán bộ tín dụng quản lý giải ngân gửi thông báo giải ngân cho phòng Dịch vụ khách hàng và phòng này có trách nhiệm giải ngân cho KH khi nhận được tài liệu này. Việc kiểm tra, giám sát được tiến hành định kỳ hoặc đột xuất với 100% khoản vay. Quá trình này được thực hiện sau khi cho vay nhằm hướng dẫn, đôn đốc KH sử dụng đúng mục đích, hoàn trả nợ gốc và lãi vay đúng hạn, đồng thời thực hiện các biện pháp thích hợp nếu KH không thực hiện đúng các cam kết. Bước 5: Thu nợ, lãi, phí và xử lý phát sinh Cán bộ tín dụng phải thông báo trả nợ đến KH vay vốn trước ngày đến hạn trả ít nhất 10 ngày. Trường hợp KH không trả được nợ đúng kỳ hạn và có văn bản đề nghị thì cán bộ tín dụng xem xét, đề xuất điều chỉnh kỳ hạn nợ hoặc gia hạn nợ. Còn khi bị phân loại là nợ xấu, toàn bộ khoản vay được chuyển sang nợ quá hạn và tính lãi suất nợ quá hạn. Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng Khi KH trả hết nợ, cán bộ tín dụng phối hợp với bộ phận kế toán để tất toán khoản vay. Sau đó, cán bộ tín dụng kiểm tra tình trạng tài sản đảm bảo; làm thủ tục xuất kho. Hợp đồng tín dụng đương nhiên hết hiệu lực khi DNTN trả hết nợ. 2.2.2.2 Thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch Trước xu thế phát triển mạnh mẽ của khối DNTN, SGD BIDV cũng đã nhận thức được tầm quan trọng của việc thiết lập mối quan hệ với các DN này. Hoạt động cho vay đối với DNTN tại SGD ngày càng được chú trọng hơn. Điều đó được thể hiện qua một số phương diện sau: Thứ nhất, số lượng các DNTN vay vốn tại SGD tăng nhanh. Sự gia tăng mạnh mẽ về số lượng của các DNTN tại Hà Nội đã làm cho số DNTN vay vốn tại SGD cũng tăng lên. Năm 2001, thủ đô mới chỉ có 2,181 DNTN thì tới năm 2007, con số này đã lên tới 42,000 (1). Tại SGD, trước năm 2003, số lượng DNTN vay vốn tại đây không vượt quá con số 10. Đến năm 2007, số khách hàng (1): www.mof.gov.vn là DNTN của SGD là 69. Nếu tính theo số tương đối thì số lượng các DNTN vay vốn tại SGD gia tăng với tốc độ khá cao, khoảng 50%/năm. Tuy nhiên, so với số lượng rất đông đảo các DNTN đang hoạt động tại Hà Nội thì con số này là quá ít ỏi. Điều đó cho thấy, SGD chưa phải là nơi hấp dẫn đối với các KH là DNTN. Thứ hai, dư nợ cho vay các DNTN tại SGD cũng có những chuyển biến tích cực. Có thể thấy rõ điều này qua bảng số liệu sau: Bảng 2.4 Cơ cấu dư nợ của DNTN theo kỳ hạn Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị TT Giá trị TT Tăng Giá trị TT Tăng Nợ ngắn hạn 450.573 72.0% 700.105 70.0% 55.4% 912.89 67.2% 30.4% Nợ TD hạn 175.223 28.0% 300.045 30.0% 71.2% 445.58 32.8% 48.5% TỔNG CỘNG 625.796 100.0% 1,000.15 100.0% 59.8% 1,358.47 100.0% 35.8% (nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005-2007) Dư nợ của DNTN tại SGD có sự tăng trưởng liên tục qua các năm với tốc độ cao. Trong tổng dư nợ của DNTN tại SGD, dư nợ của các khoản cho vay ngắn hạn luôn chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 70%. Điều này được lý giải bởi hai lý do. Một là các DNTN ít khi đầu tư vào những lĩnh vực xây dựng cơ bản, mà thường hoạt động trong các lĩnh vực có kỳ thu nhập ngắn, thời gian thu hồi vốn nhanh. Vì vậy, đa số các khoản vay của DNTN là khoản vay ngắn hạn, với quy mô tương đối nhỏ. Mặt khác, do đặc tính không ổn định trong hoạt động của các DNTN, các NHTM nói chung và SGD nói riêng thường ưu tiên cho các khoản vay ngắn hạn đối với các DN này để giảm bớt rủi ro tín dụng cho mình. Tuy nhiên, tình trạng này đang dần thay đổi. Dư nợ của các khoản cho vay trung dài hạn chiếm tỷ trọng ngày một lớn hơn. Hình 2.4 Cơ cấu dư nợ cho vay DNTN theo kỳ hạn Trước đây, SGD thường ưu tiên tài trợ cho những nhu cầu vay vốn ngắn hạn. Các DNTN rất khó tiếp cận với nguồn vốn trung dài hạn của SGD. Nhưng hiện nay, sự phát triển của các DNTN khiến cho nhu cầu vốn trung dài hạn của khối DN này cũng tăng lên. SGD phải điều chỉnh chính sách cho vay để có thể đáp ứng nhu cầu ngày càng lớn đó. SGD tăng cường cho vay trung dài hạn đối với các DNTN, làm cho các khoản cho vay trung dài hạn tăng trưởng với tốc độ cao hơn so với các khoản cho vay ngắn hạn. Kết quả là, tỷ trọng của các khoản cho vay trung dài hạn tăng lên, đồng thời tỷ trọng của các khoản cho vay ngắn hạn giảm đi. Điều đó cho thấy SGD đang chú trọng vào việc đáp ứng nhu cầu vay trung dài hạn của DNTN, góp phần vào việc mở rộng cho vay đối với DNTN của SGD. Thứ ba, tỷ trọng của dư nợ cho vay DNTN trong tổng dư nợ của SGD cũng tăng dần qua các năm. Thực tế này được phản ánh qua bảng 2.2 – Cơ cấu cho vay theo thành phần của SGD. Tỷ trọng dư nợ của DNTN tăng lên đồng nghĩa với sự suy giảm tỷ trọng dư nợ của DNNN. Bởi lẽ, trong những năm gần đây, SGD bắt đầu chủ động lựa chọn các dự án cho vay để đảm bảo an toàn tín dụng và nâng cao khả năng sinh lời. Chính vì thế, những DNNN làm ăn thua lỗ, kém hiệu quả sẽ không nhận được các khoản tín dụng từ SGD. Trái lại, các DNTN với những lợi thế riêng, năng lực cạnh tranh tốt ngày càng khẳng định được hiệu quả kinh doanh của mình. Sự phát triển của thành phần kinh tế này trong vài năm trở lại đây đã khiến cho nhiều NHTM, trong đó có SGD phải quan tâm nhiều hơn tới hoạt động cho vay đối với các DNTN. Tỷ trọng dư nợ của DNTN tăng lên chứng tỏ rằng SGD đang mở rộng cho vay đối với loại DN này. Tuy vậy, nếu đem so sánh với dư nợ của các DNNN thì dư nợ của các DNTN vẫn còn rất nhỏ bé. Hình 2.5 sau đây sẽ cho thấy rõ điều đó. Hình 2.5 Cơ cấu dư nợ theo thành phần Xét về dư nợ, các khoản cho vay đối với DNNN vẫn chiếm một tỷ lệ áp đảo so với các khoản cho vay đối với DNTN. Nguyên nhân chủ yếu do khách hàng truyền thống của SGD vẫn là các DNNN. Đối tượng khách hàng này được hưởng rất nhiều ưu đãi, cả về quy mô, lãi suất và thời hạn cho vay. Trong khi đó, các DNTN thường bị xếp hạng tín dụng thấp và không được hưởng nhiều ưu đãi. Chính vì vậy, tỷ trọng dư nợ của các DNTN dù có tăng nhưng vẫn chưa đáng kể. Mục tiêu để tỷ trọng này lớn hơn hoặc bằng 40% như SGD đã đặt ra từ năm 2005 vẫn chưa đạt được. Điều đó cho thấy, chính sách khách hàng của SGD còn kém hấp dẫn đối với các DNTN, khiến cho việc mở rộng cho vay đối với đối tượng này chưa thực sự hiệu quả. Thứ tư, doanh số cho vay các DNTN của SGD tăng dần. Tốc độ gia tăng rất lớn. Trong khi đó, doanh số cho vay đối với DNNN lại có sự suy giảm. Tất cả những điều này đều được thể hiện ở bảng 2.5 Bảng 2.5 Doanh số cho vay theo loại hình doanh nghiệp của SGD Đơn vị: tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Giá trị TT Giá trị TT Tăng Giá trị TT Tăng DNTN 1,266.08 13.0% 2,431.20 23.8% 92% 3,095.74 28.7% 27.3% DNNN 8,510.00 87.0% 7,813.79 76.2% -8% 7,690.80 71.3% -1.6% Tổng cộng 9,776.08 100.0% 10,244.99 100.0% 4.8% 10,786.54 100.0% 5.3% (nguồn: báo cáo thường niên của SGD các năm 2005-2007) Doanh số cho vay đối với DNTN tăng lên rõ rệt, cùng với sự sụt giảm doanh số cho vay đối với DNNN cho thấy SGD đã đạt được những kết quả nhất định trong việc hoạt động cho vay đối với DNTN. Cũng dựa vào bảng số liệu trên, ta có thể thấy rằng tỷ trọng của doanh số cho vay đối với DNTN đang có xu hướng lớn dần. Doanh số cho vay đối với DNTN tăng lên cả về tương đối lẫn tuyệt đối chứng tỏ rằng hoạt động cho vay đối với các DNTN đang được đẩy mạnh, để hoạt động của SGD phù hợp hơn với xu hướng phát triển chung của nền kinh tế. Qua những phân tích trên đây, có thể nhận định rằng, hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD đã có nhiều bước tiến đáng kể, biểu hiện ở sự gia tăng số lượng DNTN vay vốn, sự tăng trưởng dư nợ cho vay và doanh số cho vay Mặc dầu vậy, xét về tỷ trọng dư nợ thì giữa DNTN và DNNN vẫn còn chênh lệch quá lớn. Thực tế này đang dần thay đổi nhưng sự thay đổi đó diễn ra quá chậm. Tóm lại, hoạt động cho vay đối với các DNTN của SGD đã đạt được một số kết quả ban đầu, song vẫn còn hạn chế bởi những nguyên nhân khác nhau. Tất cả những vấn đề này sẽ được tìm hiểu kỹ hơn ở phần sau đây. 2.3 Đánh giá thực trạng cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân của Sở giao dịch 2.3.1 Những thành tựu của Sở giao dịch trong hoạt động cho vay đối với các doanh nghiệp tư nhân Năm 2003, SGD bắt đầu định hướng mở rộng cho vay đối với các DNTN. Từ đó cho đến nay, SGD đã có những thay đổi trong hoạt động cho vay của mình để thực hiện định hướng trên. Qua việc phân tích tình hình cho vay đối với DNTN của SGD, ta có thể thấy được một số thành tựu nổi bật như sau: Ngày càng nhiều DNTN nhận được vốn vay từ SGD. Năm 2007, số khách hàng là DNTN của SGD là 69. Trong khi đó, trước năm 2003, con số này không vượt quá 10. Sự gia tăng về số lượng với tốc độ khá cao, khoảng 50%/năm là kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố. Thứ nhất, nhu cầu vay vốn của các DNTN tăng nhanh do sự phát triển mạnh mẽ của khối DNTN. Thứ hai, SGD ngày càng chú trọng tới hoạt động cho vay đối với DNTN. Ngoài ra, đội ngũ cán bộ nhân viên SGD với tuổi đời trung bình rất trẻ, trình độ chuyên môn cao và tác phong phục vụ tốt đã để lại ấn tượng tốt trong lòng khách hàng. Mạng lưới chi nhánh của SGD cũng được mở rộng dần qua từng năm. Kết quả là ngày càng nhiều DNTN tìm đến SGD để vay vốn. Trong 3 năm, dư nợ cho vay và doanh số cho vay đối với DNTN đều gia tăng với tốc độ cao. Cụ thể, dư nợ cho vay tăng trưởng nhanh, đạt 1,358.47 tỷ đồng vào năm 2007. Doanh số cho vay còn tăng trưởng nhanh hơn, năm 2007 đạt 3,095.74 tỷ đồng. Sự phát triển mạnh mẽ của khối DNTN kéo theo nhu cầu vay vốn của thành phần kinh tế này tăng cao, cả về số lượng và quy mô các khoản vay. Chính vì thế, doanh số cho vay và dư nợ cho vay đối với DNTN của SGD cũng phải tăng nhanh để đáp ứng nhu cầu vay của các DNTN. Bên cạnh đó, tỷ trọng của doanh số cho vay và dư nợ cho vay có xu hướng lớn dần. Năm 2005, doanh số cho vay đối với DNTN chiếm 13%, năm 2006 chiếm 23.8% và năm 2007 đã chiếm tới 28.7%. Năm 2005, dư nợ cho vay DNTN chiếm 13%, năm 2006 chiếm 20% và đến năm 2007, tỷ lệ này lên tới 26.2%. Sự thay đổi tích cực này cho thấy quyết tâm lớn của SGD trong việc mở rộng cho vay đối với DNTN. Xét về cơ cấu dư nợ đối với DNTN thì các khoản cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đều có sự tăng trưởng. Đặc biệt, SGD tập trung cho vay các khoản ngắn hạn bởi khi cho vay các DNTN, khả năng thu hồi vốn của khoản ngắn hạn lớn hơn so với khoản trung dài hạn. Tuy nhiên, các khoản cho vay trung dài hạn đang có tốc độ gia tăng lớn hơn và tỷ trọng của nó trong tổng dư nợ cũng tăng dần. Năm 2005, cho vay trung dài hạn chiếm 28% tổng dư nợ, năm 2006 chiếm 30% và năm 2007, con số này là 32.8%. Thực tế này chứng tỏ SGD đang mở rộng cho vay trung dài hạn nhằm đáp ứng nhu cầu vốn ngày càng lớn của các DNTN. Hoà mình vào xu thế chung của các NHTM hiện nay là mở rộng cho vay đối với DNTN, SGD cũng đã đạt được những kết quả nhất định trong hoạt động này. Tuy nhiên, những kết quả ấy vẫn chưa xứng đáng với tiềm lực của SGD. Hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD vẫn còn hạn chế cần phải được khắc phục. 2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân 2.3.2.1 Hạn chế So với mục tiêu mà SGD đặt ra từ năm 2003, có thể khẳng định rằng hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD chưa được mở rộng. Đó chính là hạn chế trong hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD. Hạn chế này được biểu hiện qua một số khía cạnh sau đây: Trước hết, số DNTN vay vốn tại SGD còn quá ít, chỉ chiếm khoảng 0.16% tổng số DNTN đang hoạt động trên địa bàn Hà Nội. Ở Hà Nội có tới 42,000 DNTN. Với số lượng rất đông đảo, nhu cầu vay vốn của các DNTN là rất lớn. Vậy mà SGD mới chỉ đáp ứng được nhu cầu vay của 69 DN. Điều đó nghĩa là hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD vẫn chưa được mở rộng, so với nhu cầu thực tế của DN. Bên cạnh đó, tỷ trọng dư nợ cho vay DNTN còn rất nhỏ so với tỷ trọng của DNNN. Dư nợ cho vay DNTN chỉ chiếm khoảng hơn 20% tổng dư nợ của SGD. Mục tiêu để tỷ trọng này lớn hơn hoặc bằng 40%, mặc dù đã đặt ra từ năm 2003, nhưng cho đến nay vẫn chưa đạt được. Không thể nói rằng hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD được mở rộng khi tỷ trọng dư nợ cho vay DNTN chỉ bằng một nửa so với mục tiêu đề ra. Hạn chế trong hoạt động cho vay đối với DNTN của SGD là hoạt động này chưa được mở rộng so với mục tiêu đề ra. Để khắc phục hạn chế, việc tìm hiểu nguyên nhân của nó là rất cần thiết. 2.3.2.2 Nguy

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7680.doc
Tài liệu liên quan