LỜI MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG 1: 2
BẢO HIỂM Y TẾ VÀ THỰC HIỆN BẢO HIỂM Y TẾ TOÀN DÂN 2
1.1. Khái quát về bảo hiểm y tế 2
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của bảo hiểm y tế 2
1.1.2. Ý nghĩa, vai trò của bảo hiểm y tế 6
1.2. BHYT toàn dân và kinh nghiệm ở một số quốc gia 8
1.2.1. Quan điểm về BHYT toàn dân 8
1.2.2. Kinh nghiệm về thực hiện BHYT toàn dân ở một số quốc gia 11
CHƯƠNG 2: 18
THỰC TRẠNG VỀ BHYT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM 18
2.1. Quy định về BHYT toàn dân ở Việt Nam 18
2.1.1. Định hướng BHYT toàn dân ở Việt Nam 18
2.1.2. BHYT toàn dân theo quy định hiện hành của Việt Nam 21
2.2. Thực hiện lộ trình BHYT toàn dân ở Việt Nam thời gian qua 27
2.2.1. Những thành tựu đạt được 27
2.2.2. Những vấn đề còn tồn tại 34
CHƯƠNG 3: 45
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ THỰC HIỆN BHYT TOÀN DÂN Ở VIỆT NAM 45
3.1. Xác định cơ sở đảm bảo thực hiện lộ trình BHYT toàn dân ở Việt Nam 45
3.1.1. Cơ sở về kinh tế xã hội 45
3.1.2. Cơ sở về pháp luật 46
3.1.3. Cơ sở về nhận thức 47
3.2. Một số kiến nghị thực hiện lộ trình BHYT toàn dân theo Luật BHYT năm 2008 47
3.2.1. Ban hành các quy định hướng dẫn thực hiện 47
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục Luật BHYT 50
3.2.3. Đầu tư cơ sở khám chữa bệnh, đặc biệt ở tuyến cơ sở 51
3.2.4. Phối hợp chỉ đạo thực hiện Luật BHYT giữa các cơ quan quản lý nhà nước về BHYT, các cơ quan, tổ chức có liên quan 52
3.2.5. Xây dựng kế hoạch thực hiện đảm bảo lộ trình cho các nhóm đối tượng năm 2012, năm 2014 52
LỜI KẾT: 55
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO: 56
59 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4675 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số kiến nghị thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân ở Việt Nam theo luật bảo hiểm y tế năm 2008, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng tham gia là 10.448 nghìn người trong đó học sinh, sinh viên chiếm tới 8.096 nghìn người, nhân dân chiếm 2.352 nghìn người.
Với những con số tham gia BHYT bắt buộc và tự nguyện như trên cho thấy cơ sở quy định BHYT toàn dân đã đến thời điểm chín muồi, Luật BHYT đã hoàn thiện một bước về đối tượng tham gia bằng việc xác định một hình thức tham gia BHYT duy nhất là bắt buộc.
Thứ ba, về lộ trình cụ thể cho từng nhóm đối tượng
Khi xây dựng Luật BHYT có nhiều quan điểm khác nhau về lộ trình thực hiện BHYT toàn dân. Có quan điểm cho rằng nên quy định bắt buộc toàn dân ngay, có quan điểm cho rằng nên thực hiện theo lộ trình tư 3-5 năm đảm bảo bao phủ toàn dân. Luật BHYT đã lựa chọn thực hiện lộ trình theo quan điểm thứ hai vì các lí do sau:
Một là, theo các công ước của ILO mà WHO thì BHYT được thực hiện theo 3 nguyên tắc cơ bản: tham gia trên cơ sở bắt buộc, đóng góp theo thu nhập, quyền lợi hưởng theo bệnh tật, ba nguyên tắc này được coi là kim chỉ nam cho các nước hoạch định chính sách về BHYT.
Hai là, thực tiễn kinh nghiệm quốc tế cho thấy không một nước nào thực hiện thành công BHYT toàn dân nếu dựa trên sự tham gia tự nguyện. Theo tổng kết của WHO trong số hơn 60 nước thực hiện cơ chế tài chính qua BHYT mới chỉ có 27 nước thực hiện BHYT toàn dân đạt mục tiêu. Như Canada, Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái lan và các nước Tây Âu… và các nước này đều theo hình thức BHYT bắt buộc còn BHYT tự nguyện chỉ là hình thức trong thời kì quá độ hoặc hình thức BHYT bổ sung để hưởng các quyền lợi cao hơn.
Ba là, chỉ có BHYT bắt buộc toàn dân mới đảm bảo được sự điều tiết, chia sẻ rủi ro bệnh tật theo cả chiều ngang (thời điểm) và chiều dọc (thời kỳ)- người tham gia BHYT sẽ phải đóng góp ngay từ khi còn trẻ khỏe để bản thân họ nhận được những khoản chi phí rất cao khi ốm đau lúc tuổi già. Đồng thời ngăn cản hiện tượng lựa chọn ngược trong BHYT. Từ đó, đảm bảo cho sự tồn tại của quỹ BHYT.
Bốn là, điều kiện kinh tế xã hội của Việt Nam hiện nay chưa thể thực hiện ngay BHYT bắt buộc toàn dân. Theo kinh nghiệm của một số quốc gia để thực hiện BHYT toàn dân một cách thực sự thì GDP bình quân đầu người thường phải đạt từ 1500 USD/người/năm; trong khi GDP bình quân đầu người của Việt Nam năm 2008 là 1000USD/người/năm, năm 2009 khoảng 1100USD. Quốc hội khoá XII, kỳ họp thứ sáu đã thông qua Nghị quyết về các chỉ tiêu kinh tế năm 2010 trong đó thu nhập bình quân đầu người là 1200USD/người/năm. Như vậy về mặt tài chính, chỉ số GDP như hiện nay thì sự đóng góp từ thu nhập của người dân cùng với sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cũng chưa đủ để thực hiện BHYT toàn dân ở Việt Nam. Mặt khác, khả năng tổ chức thực hiện của Nhà nước và khám chữa bệnh của hệ thống y tế chưa thể đáp ứng ngay được khối lượng tăng đột biến nếu toàn dân tham gia BHYT, bởi vì, cơ sở hạ tầng cũng như đội ngũ cán bộ của ta còn nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Bên cạnh đó, nhận thức về BHYT của người dân chưa đầy đủ, ý thức tuân thủ pháp luật chưa cao. Thực trạng kinh tế xã hội nêu trên, không dễ giải quyết một sớm một chiều mà cần có thời gian và kinh phí. Nếu quy định ngay việc tham gia BHYT bắt buộc toàn dân thì sẽ không đảm bảo được tính khả thi của Luật.
Năm là, các nhóm đối tượng có đặc thù riêng nên tham gia BHYT của mỗi nhóm là không giống nhau. Vì vậy, không thể bổ sung cùng một lúc tất cả các nhóm đối tượng còn thiếu mà phải có lộ trình. Căn cứ vào tình hình kinh tế xã hội, nhóm đối tượng nào có khả năng tham gia BHYT trước thì áp dụng lộ trình sớm hơn. Có như vậy, mục tiêu BHYT toàn dân mới nhanh chóng đạt được.
Từ những luận cứ lý luận và thực tiễn đó, việc thực hiện BHYT toàn dân đã được thể chế trong Luật BHYT bằng lộ trình với từng nhóm đối tượng. Theo quy định tại Điều 12 Luật BHYT hiện hành phạm vi đối tượng tham gia bao gồm 24 nhóm đối tượng nhằm bao trọn toàn bộ dân chúng. Bên cạnh những đối tượng có tính “truyền thống” (những đối tượng thuộc diện tham gia bắt buộc như người lao động theo hợp đồng, công chức viên chức nhà nước, lực lượng vũ trang, đối tượng chính sách...) Luật bổ sung các nhóm đối tượng với lộ trình bắt buộc vào các thời điểm khác nhau:
- Sĩ quan, hạ sĩ quan nghiệp vụ và sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên môn kĩ thuật đang công tác trong lực lượng công an nhân dân; người đang hưởng trợ cấp thất nghiệp; người thuộc hộ gia đình nghèo; người dân tộc thiểu số đang sinh sống tại vùng có điều kiện kinh tế- xã hội khó khăn, đặc biệt khó khăn; thân nhân của người có công với cách mạng; trẻ em dưới 6 tuổi; người đã hiến bộ phận cơ thể người theo quy định của pháp luật về hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến, lấy xác. Những nhóm đối tượng trên sẽ thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc từ ngày luật bảo hiểm y tế có hiệu lực thi hành là ngày 01/07/2009.
- Học sinh, sinh viên. Đây là đối tượng “tiềm năng” thực hiện bảo hiểm y tế bắt buộc cho đối tượng này đã giúp cho khoảng 1/3 dân số có bảo hiểm y tế. Lộ trình thực hiện của đối tượng này là thời điểm 01/01/2010 .
- Người thuộc hộ gia đình làm nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, diêm nghiệp. Hiện nay nông dân chiếm khoảng 56% dân số cả nước, trong đó có khoảng gần 60% đã được nhà nước mua BHYT dưới nhiều hình thức như: người nghèo, người có công, đối tượng trợ giúp xã hội…Thực tiễn nhiều năm thực hiện BHYT cho thấy khó khăn nhất vẫn là BHYT cho nông dân. Theo Luật BHYT nông dân sẽ là đối tượng bắt buộc từ ngày 01/01/2012.
- Thân nhân của người lao động quy định tại Khoản 1 Điều 12 Luật BHYT mà người lao động có trách nhiệm nuôi dưỡng và sống trong cùng hộ gia đình; xã viên hợp tác xã, hộ kinh doanh cá thể. Những đối tượng này sẽ thực hiện BHYT bắt buộc từ ngày 01/01/2014 .
Đảm bảo tính khả thi cho việc thực hiện bảo hiểm y tế toàn dân và quyền lợi của đối tượng tham gia, khoản 3 điều 50 luật BHYT những đối tượng nêu trên khi chưa thực hiện BHYT bắt buộc theo lộ trình thì có quyền tự nguyện tham gia theo quy định của Chính phủ. Còn những đối tượng mà trước đây quy định áp dụng bắt buộc thì nay vẫn tiếp tục thực hiện. Ngoài ra, theo khoản 3 Điều 50 của Luật, đối tượng tham gia BHYT còn bao gồm “các đối tượng khác theo quy định của Chính phủ”. Đây là một quy định mở sẽ kịp thời bổ sung đối tượng tham gia BHYT trong trường hợp Luật BHYT chưa quy định đầy đủ lộ trình thực hiện BHYT của những đối tượng này sẽ do Chính phủ quy định. Nhưng chậm nhất là ngày 01/01/2014 theo quy định tại điểm đ, khoản 2 Điều 51 Luật BHYT.
Cùng với việc xác định lộ trình, Luật BHYT cũng đảm bảo tính khả thi bằng việc xác định sự an toàn tài chính, đảm bảo cân đối thu chi, nâng cao chất lượng KCB. Vì vậy cũng quy định mức đóng góp của người dân với giới hạn tối đa là 6% tiền lương, tiền công tháng, tiền lương hưu, trợ cấp BHXH hoặc mức lương tối thiểu chung. Trong điều kiện cụ thể xác định mức đóng sao cho phù hợp. Cụ thể hóa quy định của Luật BHYT năm 2008, Nghị định 62/2009/NĐ-CP ngày 27/07/2009 đã quy định mức đóng cụ thể của các đối tượng từ 01/01/2010 là 4,5% tiền lương, tiền công,… (Điều 3) trong đó người lao động đóng 1,5% tiền lương và người sử dụng lao động là 3% tiền lương, các đối tượng khác không có sự chia sẻ trách nhiệm đóng góp thì được xác định đóng toàn bộ 4,5% trên cơ sở căn tính mức đóng góp. Riêng với nhóm học sinh, sinh viên pháp luật hiện hành quy định mức đóng bằng 3% tiền lương tối thiểu, đây là mức thấp nhất trong các mức của các đối tượng do đặc thù riêng của nhóm đối tượng chủ yếu sống phụ thuộc này. Xoay quanh quy định này cũng có quan điểm cho rằng cần xác định mức hỗ trợ cụ thể của nhà nước đảm bảo công bằng cho các nhóm đối tượng trên phạm vi toàn quốc, song cũng có quan điểm cho rằng việc quy định cụ thể phụ thuộc vào điều kiện thực tế với điều kiện kinh tế - xã hội và tính khả thi của lộ trình BHYT toàn dân. Quan điểm này tỏ ra phù hợp trong tương quan chung quy định về mức đóng tối đa và sự linh hoạt của việc thực thi Luật BHYT.
Trong tương quan đảm bảo tính khả thi của lộ trình BHYT toàn dân, mức đóng cũng là yếu tố quyết định. Mức đóng quá cao thì người dân sẽ không tham gia BHYT. Mức đóng quá thấp thì không đảm bảo cho việc thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân. Một thời gian dài trước đây chúng ta duy trì mức đóng bằng 3% tiền lương là bất cập so với thực tế. Xét về tương quan đóng và hưởng cho thấy sự mất cân đối nghiêm trọng, mức đóng quá thấp song mức hưởng lại cao, đặc biệt theo quy định Nghị định 63/2005/NĐ-CP. Trong khi chế độ hưởng không ngừng mở rộng và nâng cao thì mức đóng không tăng, vẫn theo mức quy định từ khi ban hành chế độ. Đây chính là nguyên nhân gây nên sự mất cân bằng trong cân đối thu chi. Hiện nay theo quy định mức đóng tối đa là 6% tiền lương, tiền công, tiền trợ cấp, hưu trí, tiền lương tối thiểu,… Quy định này tỏ ra phù hợp và có tính khả thi, đảm bảo sự linh hoạt, chủ động trong việc điều hành chính sách BHYT trong từng giai đoạn, thời kỳ với những điều kiện kinh tế - xã hội, đồng thời đảm bảo tính ổn định của Luật sau khi ban hành trong điều kiện các chính sách có liên quan như tiền lương, viện phí có những thay đổi
Bên cạnh quy định về phạm vi đối tượng, hình thức tham gia, lộ trình thực hiện BHYT tàn dân Luật BHYT còn quy định cụ thể hơn trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức cá nhân; các quy định về chế tài xử phạt vi phạm; mức hưởng cũng có nhiều thay đổi không dựa trên một mức hưởng cụ thể như trước mà phụ thuộc vào tình trạng bệnh tật, nhu cầu khám chữa bệnh của người dân; quy định liên quan đến thẻ BHYT cũng có những thay đổi đáng kể; phạm vi hưởng BHYT của các đối tượng khác nhau là không giống nhau, thực hiện chế độ cùng chi trả; việc tổ chức khám chữa bệnh cho các đối tượng tham gia BHYT cũng có nhiều bước phát triển…Tất cả các quy định như trên nhằm đảm bảo cho việc thực hiện lộ trình BHYT toàn dân.
2.2. Thực hiện lộ trình BHYT toàn dân ở Việt Nam thời gian qua
2.2.1. Những thành tựu đạt được
Luật BHYT có hiệu lực từ ngày 01/07/2009 nhưng từ ngày 01/01/2010 Luật mới được chính thức triển khai trên cả nước. Sau một thời gian ngắn triển khai Luật BHYT nhằm thực hiện thành công BHYT toàn dân chúng ta đã đạt được kết quả đáng ghi nhận như sau:
Thứ nhất, về ban hành các văn bản hướng dẫn thi hành Luật và triển khai thực hiện
- Trong công tác ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện: Sau khi Luật BHYT ra đời nhiều văn bản hướng dẫn chi tiết cũng được ban hành đảm bảo cho việc thực hiện tiến tới mục tiêu BHYT toàn dân. Các văn bản đó như: Nghị định số 62/2009/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật BHYT; Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-TC hướng dẫn thực hiện một số điều của Luật BHYT và Nghị định số 62/2009/NĐ-CP; Thông tư số 10/2009/TT-BYT ngày 14 tháng 8 năm 2009 về đăng kí KCB ban đầu và chuyển tuyến KCB BHYT… Nghị định số 62/2009 có hiệu lực từ ngày 01/10/2009 đã đảm bảo hiệu lực của Luật trên thực tế. Văn bản này quy định chi tiết “các đối tượng khác” tại khoản 25 Điều 12 Luật BHYT như: công nhân cao su, thanh niên xung phong, người hoạt động không chuyên trách ở xã…; lộ trình thực hiện cho các đối tượng này. Đặc biệt, Nghị định đã quy định cụ thể mức đóng, mức hỗ trợ đóng BHYT của các đối tượng cho từng giai đoạn. Điều này đã làm cho Luật BHYT chính thức có hiệu lực trên thực tế. Mặc dù Luật BHYT năm 2008 có quy định mức đóng nhưng chỉ quy định trong giới hạn tối đa mà không quy định cụ thể cho từng nhóm đối tượng nên sau khi có hiệu lực theo quy định mà vẫn không có hiệu lực trên thực tế. Bởi vì người tham gia chưa biết phải đóng bao nhiêu, các cơ quan, tổ chức không biết thu và hỗ trợ như thế nào. Trong Nghị định này một loạt các vấn đề liên quan như mức hưởng, phạm vi hưởng, phương thức đóng của các nhóm đối tượng... cũng được làm rõ đảm bảo cho việc thực hiện lộ trình toàn dân.
Cùng với sự ra đời của Nghị định, các Bộ có liên quan cũng xây dựng, phối hợp ban hành các Thông tư, Thông tư liên tịch quy định chi tiết Luật và Nghị định như Thông tư liên tịch số 09/2009/TTLT-BYT-TC, Thông tư số 10/2009/TT-BYT. Các văn bản này đều hướng tới cụ thể hóa, chi tiết hóa các vấn đề đã được luật quy định. Đó là các vấn đề về đối tượng, lộ trình thực hiện, mức hưởng hay đăng kí KCB ban đầu, chuyển tuyến,… với mục tiêu tạo cơ sở cho việc thực hiện BHYT toàn dân.
Ngoài ra, để hướng dẫn, cụ thể hoá các quy định để thực hiện Luật BHYT Ban bí thư TW Đảng đã có chỉ thị số 37CT/TW yêu cầu các cấp, chính quyền, đoàn thể, nhân dân tiếp tục quán triệt sâu sắc và nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của BHYT. Từ đó, các cơ quan có trách nhiệm cũng ban hành nhiều văn bản để tổ chức thực hiện, triển khai đảm bảo thực hiện lộ trình BHYT toàn dân. Các cơ quan liên quan như Bộ y tế ban hành danh mục thuốc thuộc phạm vi BHYT thanh toán; Bộ Tài chính ban hành các văn bản quy định về các mức phí; BHXH Việt Nam có các văn bản hướng dẫn thực hiện trả chi phí khám chữa bệnh, quản lý và sử dụng quỹ BHYT…Ngay sau khi Luật và các văn bản hướng dẫn thi hành, Tỉnh uỷ, Ủy ban nhân dân tỉnh, Ủy ban nhân dân huyện, thành phố ban hành các văn bản chỉ đạo các ngành phối hợp triển khai thực hiện Luật BHYT; các sở, ban, ngành ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật BHYT.
- Trong công tác triển khai thực hiện: Nhằm đảm bảo cho việc thực hiện Luật trên thực tế, các cơ quan, ban ngành, tổ chức đã tổ chức nhiều hội nghị triển khai. Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố triển khai đến các phòng, ban; các sở, Liên đoàn lao động; BHXH tỉnh; các hội, đoàn thể và một số cơ sở KCB. Sở y tế chủ trì hội nghị triển khai tới bệnh viện đa khoa các huyện; trung tâm y tế. BHXH tỉnh cũng tổ chức hội nghị triển khai tới các cán bộ công chức BHXH; các sở y tế; các cơ sở KCB.
Đặc biệt hiện nay chúng ta đã có kết hợp việc tuyên truyền Luật BHYT trên các phương tiện thông tin đại chúng với nhiều hình thức khác nhau như đối thoại tọa đàm trực tiếp…Ngoài ra, một số ban ngành tổ chức Hội nghị triển khai Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn. Thời gian tổ chức thực hiện triển khai chủ yếu tập trung từ tháng 9, 10, 11/2009. Mục đích tổ chức hội nghị triển khai là đưa các quy định của Luật và các văn bản hướng dẫn tới tổ chức, người dân; giúp họ biết và hiểu được các quy định nhất là các quy định mới liên quan tới việc thực hiện lộ trình BHYT toàn dân. Qua đây họ có thể biết được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi tham gia BHYT, các nhóm đối tượng có thể biết được thời điểm mình thuộc diện bắt buộc tham gia từ đó họ có những chuẩn bị cần thiết cho việc thực hiện tránh trường hợp vi phạm luật.
Như vậy, sau khi Luật BHYT ra đời với mục tiêu hướng tới BHYT toàn dân các cơ quan, ban ngành đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn triển khai, phổ biến thực hiện Luật BHYT để BHYT có thể đến với mọi người tạo điều kiện tiến tới BHYT toàn dân vào năm 2014.
Thứ hai, thực hiện lộ trình thành công với nhóm học sinh, sinh viên theo quy định từ 01/01/2010.
Thực hiện lộ trình BHYT toàn dân, ngày 01/01/2010 nhóm đối tượng học sinh sinh viên chính thức tham gia theo loại hình bắt buộc. Đây là nhóm đối tượng có tiềm năng lớn được ưu tiên xác định đầu tiên trong lộ trình bởi những điều kiện thuận lợi so với những nhóm đối tượng khác. Theo tổng kết của BHYT tự nguyện trước đây, tỷ lệ tham gia của nhóm đối tượng này chiếm tới hơn 90%, có những tỉnh con số tham gia tới 100% học sinh. Vì vậy việc chuyển biến từ loại hình tự nguyện sang bắt buộc không gặp nhiều khó khăn bởi nhận thức và việc chuẩn bị tâm lý cho họ đã chín muồi. Với mức đóng thấp và có sự hỗ trợ từ ngân sách nhà nước, việc triển khai thực hiện bắt buộc với nhóm đối tượng này tỏ ra thuận lợi với những kết quả tốt.
Để thực hiện tốt quy định về BHYT bắt buộc đối với học sinh, sinh viên từ 01/01/2010 theo lộ trình BHXH Việt Nam đã ban hành công văn gửi Giám đốc BHXH các tỉnh, thành phố hướng dẫn việc thực hiện triển khai. Theo đó BHXH các tỉnh thành phố phổ biến thực hiện ở các cơ sở đào tạo trên địa bàn. Cuối năm 2009 hầu hết các trường đào tạo đều triển khai thực hiện mua BHYT cho học sinh, sinh viên của mình bằng việc ra thông báo số tiền phải nộp, hình thức, thời gian, địa điểm nộp và đưa ra các chế tài xử phạt nếu vi phạm. Cả nước 100% sinh viên các trường đại học ở loại hình chính quy đã tham gia mua BHYT và được cấp thẻ BHYT. Ở một số thành phố lớn, trước kia có số lượng học sinh, sinh viên tham gia BHYT tự nguyện lớn thì công tác thực hiện BHYT bắt buộc cho học sinh, sinh viên dễ dàng hơn như Đà nẵng, Hà Nội, Hải Phòng, thành phố Hồ Chí Minh,... Công tác BHYT học sinh trên địa bàn thành phố Hà Nội cuối năm 2009 có 100% số trường tiểu học đến đại học tham gia BHYT với trên 1 triệu học sinh, sinh viên [14]. Ở một số vùng có điều kiện kinh tế khó khăn thì công tác tổ chức và thu còn những vướng mắc nhưng hầu hết các cơ sở đào tạo số lượng học sinh, sinh viên tăng mạnh không trường nào không có học sinh, sinh viên tham gia BHYT. Như vậy, học sinh, sinh viên là đối tượng đầu tiên tham gia mua BHYT bắt buộc theo lộ trình nhưng đã đạt được những thành công đáng kể. Theo dự tính hết năm 2010 thì số học sinh, sinh viên tham gia BHYT ước tính là 23 triệu góp phần mở rộng diện tích bao phủ của BHYT lên khoảng 70% dân số [24].
Thứ ba, xây dựng được cơ sở vững vàng cho việc đảm bảo thực hiện lộ trình BHYT toàn dân theo tiến trình xác định.
Hướng tới mục tiêu BHYT toàn dân theo lộ trình đặt ra, chúng ta đã có những chuẩn bị cần thiết về cơ sở vật chất và nâng cao nhận thức của người dân về vấn đề này. Sau thời gian ngắn thực hiện, chúng ta đã thu được một số kết quả đáng ghi nhận như sau:
- Về cơ sở vật chất:
Để tổ chức tốt việc khám bệnh, chữa bệnh bằng BHYT, chúng ta đã tăng cường đầu tư, phân bổ ngân sách để củng cố và phát triển mạng lưới khám chữa bệnh, nhất là mạng lưới y tế cơ sở. Cả nước đã có gần 2000 cơ sở khám chữa bệnh cả công lập và ngoài công lập, khoảng 80% số trạm y tế xã, phường có hợp đồng khám chữa bệnh BHYT. Ngay từ đầu năm 2009 BHXH các tỉnh, thành phố chủ động ký hợp đồng với 2.215 cơ sở khám chữa bệnh (tăng 66 cơ sở so với năm 2008), trong đó tuyến trung ương là 55 cơ sở, phục vụ kịp thời việc khám chữa bệnh cho người tham gia BHYT [6]. Và theo hội nghị đánh giá thực hiện công tác y tế năm 2009 và triển khai kế hoạch năm 2010 của Bộ Y tế ngày 27/01/2010, trong năm 2009 có 11.663 cơ sở KCB có hợp đồng KCB có BHYT (trong đó 9,446 trạm y tế xã và 277 cơ sở y tế tư nhân) [23]. Tính tới ngày 25/12/2009, chúng ta đã không ngừng tăng cường cán bộ, bác sĩ và thiết bị y tế cho tuyến dưới, trực tiếp nâng cao chất lượng khám và chữa bệnh cho đồng bào ở vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn, xây mới 85 bệnh viện tuyến huyện, 16 bệnh viện đa khoa ở các tỉnh vùng núi khó khăn [13]. Việc xây dựng mới các bệnh viện, kí hợp đồng KCB có BHYT là bước đầu tiên trong công tác KCB cho nhân dân nói chung và thực hiện mục tiêu BHYT toàn dân nói riêng.
Ngoài ra, nâng cao trình độ, khoa học kỹ thuật cũng được chú trọng. Phục vụ nhu cầu chăm sóc sức khỏe người dân ngày càng tăng trong lộ trình thực hiện BHYT toàn dân, các cơ sở khám chữa bệnh đã không ngừng hiện đại hóa trang thiết bị y tế, trang thiết bị quản lý y tế. Hầu hết các cơ sở KCB đều đầu tư vào việc nhập máy móc hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý điều hành. Một số bệnh viện áp dụng các tiêu chuẩn quốc tế như bệnh viện Bạch Mai, nơi có số lượng người bệnh có thẻ BHYT đến KCB chiếm 60 đến 70% đã có 14 khoa phòng của bệnh viện đang triển khai áp dụng tiêu chuẩn ISO 9001:2008; đáng chú ý là một trong những khoa quan trọng nhất, Khoa Hóa sinh là đơn vị đầu tiên trong cả nước đạt tiêu chuẩn ISO 15189. Trước kia do không có máy móc hiện đại nhiều cơ sở y tế phải chuyển bệnh nhân lên tuyến trên, hay phải chuyển ra nước ngoài thì nay đã được hạn chế. Người KCB bằng BHYT có thể KCB đúng tuyến đảm bảo quyền lợi hưởng tối đa. Khi thực hiện lộ trình BHYT toàn dân số người tham gia vào BHYT không ngừng tăng lên nên việc quản lý thực sự khó khăn đặc biệt khi mới thực hiện. Với mục tiêu 100% bệnh viện trung ương, tuyến tỉnh và 80% bệnh viện tuyến huyện ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác quản lý bệnh viện [7]. Do vậy việc ứng dụng phần mềm công nghệ thông tin cũng được tiến hành một cách nhanh chóng đảm bảo quyền lợi của người có BHYT. Bên cạnh đó, việc không ngừng ứng dụng khoa học kỹ thuật mới đã góp phần hiệu quả công tác chăm sóc sức khỏe người dân.
Việc kí hợp đồng khám chữa bệnh BHYT với các cơ sở, củng cố trang thiết bị y tế, ứng dụng khoa học kỹ thuật mới… đã góp phần nâng cao điều kiện chăm sóc sức khỏe của người dân nói chung và đáp ứng nhu cầu khám chữa bệnh bằng BHYT nhằm tiến tới thực hiện BHYT toàn dân nói riêng.
- Nhận thức của người dân về BHYT:
Ðể chính sách bảo hiểm y tế thật sự góp phần bảo đảm an sinh xã hội và công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, Ban Bí thư Trung ương Đảng yêu cầu các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tiếp tục quán triệt sâu sắc và nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, ý nghĩa của bảo hiểm y tế. Phát động cuộc vận động toàn dân tham gia BHYT theo lộ trình quy định của Luật BHYT. Bộ Thông tin và Truyền thông chỉ đạo các cơ quan truyền thông tuyên truyền, phổ biến Luật BHYT và các văn bản hướng dẫn, nhấn mạnh ý nghĩa của BHYT trong hệ thống an sinh xã hội, động viên người dân tham BHYT…Bằng việc ban hành ngày càng đầy đủ, chi tiết hướng dẫn thi hành, mở rộng các cơ sở KCB, giảm thủ tục phiền hà, tổ chức các cuộc hội nghị, đa dạng các hình thức tuyên truyền Luật BHYT, ý nghĩa, vai trò của BHYT đã có phạm vi ảnh hưởng lớn đến người dân. Sau khi Luật BHYT ra đời, các cơ quan, đoàn thể, ban, ngành, tổ chức đã tích cực phổ biến các quy định tới người dân. Qua đó, người dân tiếp cận với quy định của Luật BHYT, nhận thấy được lợi ích từ việc tham gia BHYT bằng việc ngày càng nhiều người tham gia BHYT bằng chứng là số người tham gia BHYT tăng nhanh.
Sau gần 17 năm hoạt động BHYT đã đạt những thành tựu quan trọng. Số người tham gia BHYT không ngừng tăng lên, từ 5,6% dân số năm 1993 lên 46% dân số năm 2008 (khoảng 40,7triệu người) [10]. Luật BHYT ra đời và có hiệu lực thi hành thì con số này không ngừng tăng lên, theo báo cáo tổng kết công tác năm 2009 của BHXH Việt Nam thì số người tham gia BHYT toàn quốc đạt 53.029.088 người, chiếm khoảng 61% dân số. Theo Luật BHYT, các đối tượng quy định từ khoản 1 đến khoản 21 Điều 12 phải thực hiện BHYT bắt buộc, đây là những lộ trình đầu tiên hướng tới BHYT toàn dân. Ta thấy, những đối tượng trên đều là những đối tượng có thu nhập ổn định, có sự hỗ trợ của nhà nước, của các cơ quan, tổ chức, đơn vị. Họ là người lao động có hợp đồng lao động, người hưởng lương hưu, trợ cấp mất sức lao động, người có công với cách mạng, người thuộc hộ gia đình nghèo…và theo quy định tại Điều 13 Khoản 1 Luật BHYT trách nhiệm đóng BHYT cho những nhóm đối tượng trên thường do tổ chức, cơ quan, ngân sách nhà nước, hoặc được hỗ trợ một phần, hoặc theo tỷ lệ như: tổ chức BHXH; cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp học bổng, người sử dụng lao động đóng theo tỷ lệ với người lao động, ngân sách nhà nước đóng hoặc hỗ trợ một phần. Bởi những đặc điểm trên nên Luật BHYT mới quy định lộ trình sớm cho những đối tượng này vì khả năng thực hiện là dễ dàng hơn. Sau khi Luật BHYT có hiệu lực các đối tượng từ Khoản 1 đến Khoản 20 của Luật BHYT đã được tổ chức tham gia BHYT bắt buộc ở các cơ quan, tổ chức, đơn vị, các doanh nghiệp. Ở các tổ chức thuộc khu vực nhà nước, được ngân sách nhà nước hỗ trợ, tài trợ đóng BHYT thì việc tổ chức tham gia BHYT cho các đối tượng được triển khai một cách sâu rộng. Các đối tượng thuộc diện được BHXH đóng BHYT cũng được thực thi trên thực tế. Các cơ quan tổ chức có trách nhiệm đã tổ chức mua BHYT cho các đối tượng đảm bảo quyền lợi chăm sóc sức khoẻ. Đối tượng là người lao động cũng được hưởng các quyền lợi từ các quy định trên. Các doanh nghiệp có trách nhiệm cùng chi trả BHYT cho người lao động. Đặc biệt đã có trên 15 triệu người nghèo và hàng triệu các đối tượng chính sách khác: như người có công với cách mạng, Bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương bệnh binh, nạn nhân da cam…đã được cấp thẻ BHYT miễn phí từ nguồn ngân sách nhà nước. Số người được khám chữa bệnh BHYT tăng nhanh hàng năm. Tổng số lượt người KCB bằng thẻ BHYT trong năm 2008 khoảng 80 triệu lượt người cả nội trú và ngoại trú, năm 2009 trên 87,7 triệu lượt người cả nội trú và ngoại trú. Tần suất KCB của người tham gia BHYT tăng dần hàng năm. Công tác thu BHYT cũng đạt kế hoạch: thu BHXH, BHYT bắt buộc là 48.062 tỷ đồng, đạt 104% so với kế hoạch Thủ tướng Chính phủ giao, tăng 26,2% so với năm 2008; thu BHYT tự nguyện là 2.123 tỷ đồng, tăng 28% so với năm 2008 [6,7]. Các đối tượng học sinh, sinh viên thực hiện triển khai BHYT bắt buộc kế từ 01/01/2010, hầu hết các trường đều tiến hành theo quy định và đã đạt những kết quả đáng ghi nhận. Sau khi Luật BHYT ra đời với quy định mới mở rộng đối tượng tham gia và các quy định liên quan hướng tới BHYT toàn dân thì số lượng người tham gia BHYT tăng nhanh một cách đáng kể, đặc biệt là các đối tượng thuộc diện BHYT bắt buộc. Các tỉnh, thành phố tích cực triển khai thực hiện BHYT trên địa bàn nhằm thực hiện các chỉ tiêu đặt ra. Các cơ quan có trách nhiệm liên quan phối hợp cùng thực hiện hướng tới BHYT toàn dân như lộ trình đặt ra.
2.2.2
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số kiến nghị thực hiện BHYT toàn dân ở Việt Nam theo luật BHYT năm 2008.doc