Khóa luận Nâng cao hiệu qủa hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CHUNG VỀ UỶ BAN NHÂN DÂN

CẤP XÃ 4

1.1. Khái niệm về Uỷ ban nhân dân cấp xã 4

1.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND cấp xã 5

1.2.1. Nhiệm vụ quyền hạn của UBND xã, thị trấn 6

1.2.2. Nhiệm vụ, quyền hạn của UBND phường 9

1.3. Cơ cấu, tổ chức, hoạt động của UBND cấp xã 10

1.3.1. Cơ cấu của UBND cấp xã 10

1.3.2. Tổ chức của UBND cấp xã 12

1.3.3. Hoạt động của UBND cấp xã 13

CHƯƠNG II. HOẠT ĐỘNG CỦA UBND CẤP XÃ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 15

2.1. Những kết quả đạt được 15

2.2. Những tồn tại, hạn chế 21

2.3. Nguyên nhân của các thực trạng trên 27

2.3.1. Nguyên nhân khách quan 27

2.3.2. Nguyên nhân chủ quan 28

CHƯƠNG III. NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA UBND CẤP XÃ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY 30

3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã 30

3.2. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã 33

3.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã

ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 35

3.3.1. Phương hướng chung 35

3.3.2. Các biện pháp cụ thể nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND

cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay 38

3.3.2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật về UBND các cấp trong

đó có những quy định chi tiết, cụ thể đối với UBND cấp xã 38

3.3.2.2. Nâng cao chất lượng hoạt động của UBND cấp xã 39

3.3.2.3. Thực hiện cải cách tổ chức bộ máy của UBND cấp xã 42

3.3.2.4. Hiện đại hóa nền hành chính nhà nước ở cấp xã 45

3.3.2.5. Đổi mới công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, nâng cao chất lượng

đội ngũ cán bộ công chức cấp xã 47

3.3.2.6. Củng cố mối quan hệ của UBND cấp xã đối với nhân dân, huy

động sự tham gia có hiệu quả của nhân dân vào việc giám sát các hoạt

động của UBND cấp xã 51

KẾT LUẬN 54

 

doc60 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 21151 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nâng cao hiệu qủa hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g của việc đăng ký hộ tịch và tự giác đi đăng ký, đặc biệt là đối với sự kiện khai tử: do tâm lý người dân cho rằng “việc gì mà không mang lại quyền lợi cho mình thì không làm”. Trên thực tế, công chức Hộ tịch cũng không thường xuyên đôn đốc nhân dân thực hiện, phải đến khi có sự kiểm tra, rà soát của các cơ quan có thẩm quyền thì mới phát hiện ra được sự thiếu sót đó. Ví dụ: tại Thái Nguyên trong năm 2007, UBND cấp xã đã đăng ký quá hạn 3354 sự kiện sinh và đăng ký lại cho 6802 sự kiện sinh; đăng ký khai tử quá hạn cho 1950 sự kiện và đăng ký lại cho 510 sự kiện tử. [25] Đăng ký và quản lý hộ tịch là một nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của UBND các cấp trong đó có UBND cấp xã. Để làm tốt điều này, công chức Hộ tịch phải được trang bị kỹ năng, chuyên môn nhất định thì mới thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, đồng thời góp phần tuyên truyền, phổ biến sâu rộng về pháp luật hộ tịch trong nhân dân. * Hoạt động điều hành của UBND cấp xã. Hoạt động điều hành của UBND cấp xã hiện nay vẫn chưa thực sự đi vào nề nếp, nhiều nơi còn vi phạm pháp luật. Việc ban hành các văn bản quản lý, áp dụng pháp luật còn nhiều sai trái, gây tổn thất không nhỏ cho Nhà nước và nhân dân. Một vấn đề đang làm giảm sức mạnh trong hoạt động điều hành của UBND cấp xã đó là tình trạng không phân biệt được khi nào là ý kiến của cá nhân Chủ tịch UBND cấp xã, khi nào là ý kiến của thành viên UBND và ý kiến của tập thể UBND nên gây nhiều khó khăn, trở ngại khi thực hiện, đặc biệt là khi xảy ra sai phạm. Mặt khác, cũng do sự chưa phân định rõ chức năng, thẩm quyền nên có nơi, cán bộ, công chức của UBND cấp xã lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi cá nhân, gia đình thậm chí cho cả dòng họ gây ra sự bất bình trong nhân dân, giảm đi uy quyền của UBND cấp xã trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước ở địa phương. Do năng lực quản lý, điều hành yếu kém nên một số nơi UBND cấp xã không kiểm soát được tình hình, để mặc cho thôn xóm tự soạn ra quy chế, hương ước trái với quy định của pháp luật như việc tự đặt ra các hình thức xử phạt và mức phạt không đúng quy định (mức phạt có thể bằng thóc hoặc bằng tiền), cho rằng “phép vua thua lệ làng” khiến cho tình hình trị an ở nông thôn vốn đã phức tạp nay càng phức tạp hơn. Cũng do ý thức cục bộ của các cán bộ, công chức cấp xã, dựa trên mối quan hệ họ mạc, làng xóm, quen biết nên đã giải quyết thiên lệch về quyền lợi cho các cá nhân, tổ chức…làm cho nội bộ của UBND cấp xã một số nơi mất ổn định, sinh ra bè phái, làm giảm hiệu quả điều hành và làm mất lòng tin của nhân dân ở chính quyền nói chung và UBND cấp xã nói riêng. Hiện nay, ở một số nơi, UBND cấp xã có xu hướng đùn đẩy công việc xuống các trưởng thôn, tổ trưởng tổ dân phố tạo ra nguy cơ “hành chính hoá” thôn, khu phố, tổ dân phố khiến hình ảnh thôn, khu phố, tổ dân phố như một cấp hành chính cơ sở. Điều này sẽ làm ảnh hưởng tới tính ổn định của bộ máy quản lý, điều hành ở cấp xã, gây ra cách hiểu sai trong nhân dân về vị trí và vai trò của thôn, xóm, khu phố, tổ dân phố trên địa bàn. * Chất lượng đội ngũ cán bộ công chức của UBND xã, phường, thị trấn Số lượng cán bộ, công chức chuyên trách cấp xã hiện nay là 192.438 người [28]. Đây thực sự là một lực lượng đông đảo trong bộ máy hành chính nhà nước. Nhưng do khối lượng công việc phải giải quyết trên thực tế là rất lớn nên việc quy định số lượng cán bộ, công chức cấp xã từ 17 đến không quá 25 người là không phù hợp đối với những đơn vị hành chính cấp xã có dân số trên 04 vạn người. Chế độ chính sách đối với cán bộ, công chức cấp xã trong thời gian qua còn có nhiều quy định chưa thống nhất. Hiện nay Nghị định 159/2005/NĐ- CP về việc phân loại đơn vị hành chính cấp xã đã được thực hiện, theo số liệu tính đến ngày 30/12/2006 có 2981 xã loại I, 5657 xã loại II, 2292 xã loại III [28], nhưng hiện tại vẫn chưa có một quy định cụ thể nào về chế độ, chính sách cho cán bộ, công chức ở các xã loại I, II, III, cũng không tăng thêm số lượng cán bộ, công chức ở các xã này mà vẫn thực hiện theo NĐ 121/2003/ NĐ- CP quy định về chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn. Vì vậy, các quy định của pháp luật cần phải được sửa đổi cho phù hợp và thống nhất, tránh tình trạng tuỳ tiện trong việc áp dụng văn bản pháp luật. - Về độ tuổi: cán bộ, công chức cấp xã còn 5,39% số người trên 60 tuổi trong đó cán bộ giữ chức vụ do bầu cử chiếm 4,93%. - Về trình độ học vấn: Cán bộ, công chức xã chưa biết chữ là 0,13%. - Về trình độ lý luận chính trị: còn 34,82% chưa qua đào tạo về trình độ lý luận chính tri. - Về trình độ quản lý hành chính nhà nước còn 55,53% chưa được đào tạo. [28] Những con số này đã nói nên một thực trạng là: đội ngũ cán bộ UBND cấp xã thời gian qua, vốn đã thấp về trình độ văn hoá phổ thông, ít được bồi dưỡng về lý luận chính trị, chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức quản lý kinh tế và quản lý Nhà nước nên chưa theo kịp được với xu thế phát triển chung của thời đại. Cũng chính do ảnh hưởng của lối tư duy đại khái, giản đơn vẫn tồn tại không ít trong các cán bộ, công chức cấp xã, tư duy thực tiễn yếu kém nên chưa bám sát được những thay đổi hàng ngày trong cuộc sống của nhân dân để giải quyết kịp thời các vấn đề nảy sinh. Năng lực quản lý của các cán bộ chủ chốt ở UBND cấp xã còn hạn chế, chưa tạo được uy tín với nhân dân nên khi đối mặt với thời kỳ đổi mới, hội nhập toàn cầu, thay đổi phương tiện quản lý hiện đại không ít cán bộ chủ chốt cấp xã đã tỏ ra lúng túng, ngỡ ngàng trước yêu cầu của sự nghiệp đổi mới. Về chế độ tiền lương: cán bộ bầu cử và công chức chuyên môn có cùng trình độ đào tạo nhưng cán bộ bầu cử chỉ có hai bậc lương, công chức chuyên môn thì được hưởng lương theo ngạch và nâng lương thường xuyên theo quy định. Một số nơi, cán bộ bầu cử kiêm nhiệm chưa được hưởng 10% phụ cấp kiêm nhiệm lãnh đạo. Về chế độ hưu trí: NĐ 121/2003/ NĐ- CP của Chính phủ về chế độ, chính sách của cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn quy định: cán bộ chuyên trách, công chức cấp xã nếu có đủ 15 năm đóng bảo hiểm xã hội trở lên và đủ tuổi nghỉ hưu theo quy định của Bộ Luật lao động thì được hưởng chế độ hưu trí là không thống nhất với quy định của Luật Bảo hiểm xã hội năm 2005. Theo quy định của Luật Bảo hiểm xã hội thì thời gian công tác có đóng BHXH của cán bộ, công chức là 20 năm và phải đủ 55 tuổi đối với nữ và 60 tuổi đối với nam mới đủ điều kiện nghỉ hưu [15].Vì vậy, cần phải sửa đổi NĐ 121/2003/ NĐ- CP để phù hợp với Luật Bảo hiểm xã hội năm 2005 đồng thời tạo sự thống nhất trong khâu áp dụng pháp luật. Đối với cán bộ không chuyên trách cấp xã, toàn quốc có 568.899 cán bộ hưởng sinh hoạt phí [28]. Hiện nay số lượng và mức phụ cấp của cán bộ không chuyên trách cấp xã do HĐND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định đã tạo chênh lệch khá lớn và gây bất hợp lý giữa các địa phương. Có địa phương không cân đối được ngân sách nhưng quyết định mức phụ cấp cho cán bộ không chuyên trách cao hơn địa phương cân đối được ngân sách. Đa số các địa phương đề nghị cho cán bộ không chuyên trách cấp xã được đóng BHXH. Đứng trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước ta cần phải có sự chỉ đạo, quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa để những tồn tại trên đây cần sớm được khắc phục, đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ mới trong giai đoạn hiện nay. Nguyên nhân của các thực trạng trên Những tồn tại trong hoạt động của UBND cấp xã là hậu quả của nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan. 2.3.1. Nguyên nhân khách quan. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường, xu thế hội nhập, toàn cầu hoá và những mặt trái của nó đang tác động trực tiếp tới đời sống kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội của nhân dân. Đứng trước tình hình đó, UBND cấp xã cũng không tránh khỏi những khó khăn và lúng túng trong khâu tổ chức, lãnh đạo và điều hành. Do chúng ta vẫn chưa đưa ra được các giải pháp phát triển kinh tế ở nông thôn cũng như đô thị thật phù hợp và nhất quán. Trong bối cảnh như vậy UBND cấp xã rất khó thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ của mình. Do tính chất, đặc điểm truyền thống của làng xã Việt Nam với các phong tục, tập quán “đất lề, quê thói”, các quan hệ họ mạc phức tạp nên đã nảy sinh tâm lý ngại va chạm, né tránh… đã phần nhiều tác động đến hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã. 2.3.2. Nguyên nhân chủ quan Sự yếu kém, bất cập trong hoạt động của UBND cấp xã, ngoài những nguyên nhân do khách quan mang lại thì các nguyên nhân chủ quan là cơ bản: Chúng ta vẫn chưa thực sự đề cao vai trò của UBND cấp xã. Coi cấp xã là cấp cuối cùng trong hệ thống chính trị từ Trung ương tới cơ sở nên phải gánh chịu mọi trách nhiệm, nghĩa vụ mà đáng ra phải là của cấp tỉnh và cấp huyện. Bên cạnh đó, việc coi UBND cấp xã là “điểm đến” của mọi chủ trương, chính sách, và các giải pháp đổi mới hay cải cách nên cấp xã dường như đã và đang rơi vào tình trạng “quá tải”. Bởi vậy, hiện tượng công việc bị dồn ứ là điều hết sức dễ hiểu. Do trình độ của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã còn hạn chế, cơ chế tuyển dụng, bổ nhiệm chưa chặt chẽ, tiêu chuẩn tuyển dụng quá đơn giản nên chất lượng đầu vào thấp. Bên cạnh đó, các chế độ chính sách với cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn chưa được quan tâm và đầu tư đúng mức. Cán bộ, công chức cấp xã không được sàng lọc và đào tạo kịp thời, hoặc có đào tạo thì nặng về nội dung và lý thuyết, kỹ năng thực hành còn hạn chế nên sự điều hành, quản lý còn nặng về kinh nghiệm, ý chí, đôi khi còn áp đặt quyền lực cá nhân. Mặt khác, trong cơ chế hiện nay, trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể chưa được phân định rõ ràng nên cán bộ, công chức cấp xã dễ đùn đẩy, né tránh trước những việc gai góc xảy ra. Do các quy định của pháp luật hiện hành về chính quyền địa phương nói chung và UBND cấp xã nói riêng còn thiếu cụ thể và chưa được đổi mới nên đã không tạo được một hành lang pháp lý phù hợp cho từng cấp chính quyền, đặc biệt là đối với UBND cấp xã. Hiện tại, chúng ta vẫn chưa có một đạo luật cụ thể cho từng cấp chính quyền địa phương mà chỉ có một đạo luật chung cho cả ba cấp chính quyền là Luật tổ chức HĐND và UBND năm 2003 và cũng không có Nghị định hướng dẫn chi tiết Luật của Chính phủ. Như vậy, chúng ta đã và đang nhất thể hoá tính chất, cơ cấu tổ chức, nhiệm vụ quyền hạn của UBND các cấp vốn có rất nhiều điểm khác biệt. Một nguyên nhân nữa là từ sự nghèo nàn, thiếu thốn các điều kiện tối thiểu, cần thiết cho hoạt động công quyền của UBND cấp xã. Đến nay vẫn còn tới 10% UBND cấp xã chưa có trụ sở làm việc. Việc triển khai áp dụng các giải pháp kỹ thuật, nhất là công nghệ tin học vào hoạt động quản lý nhà nước còn chậm, đạt hiệu quả thấp [10, tr.139]. Một phần cũng do một số xã không tự cân đối được ngân sách, hoạt động trên cơ sở nguồn tài chính thiếu hụt thâm niên nên không còn khả năng đầu tư các trang thiết bị và điều kiện làm việc. Vì vậy mà không tạo ra được diện mạo của cơ quan công quyền theo yêu cầu của một nền hành chính hiện đại, hoạt động có hiệu quả. CHƯƠNG III NÂNG CAO HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA UBND CẤP XÃ Ở NƯỚC TA TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY. Theo Từ điển Bách khoa Việt Nam: Hiệu quả là kết quả mong muốn, cái sinh ra kết quả mà con người chờ đợi và hướng tới, nó có nội dung khác nhau ở các lĩnh vực khác nhau. [34, tr.289] Trong hoạt động quản lý nhà nước, hiệu quả chính là tiêu chí đánh giá các hoạt động quản lý của các chủ thể có thẩm quyền. Đối với UBND cấp xã, hoạt động quản lý nhà nước là hoạt động mang tính đặc thù, hoạt động này không trực tiếp sáng tạo ra các giá trị vật chất nhưng bản thân nó có những ảnh hưởng nhất định đến quá trình tạo ra giá trị vật chất, làm cho quá trình này diễn ra một cách nhanh chóng hay chậm chạp. Chính vì thế, kết quả của hoạt động này nhiều khi được đánh giá chủ yếu mang tính chất định tính chứ không phải định lượng. Bên cạnh đó, còn có nhiều yếu tố không thể định lượng một cách cụ thể, chính xác; chẳng hạn như năng lực, uy tín, trình độ, kỹ năng, kinh nghiệm và sự am hiểu về các lĩnh vực xã hội cơ bản của chủ thể tiến hành hoạt động quản lý nhà nước. Những yếu tố này có vai trò, tác dụng rất lớn đối với hoạt động quản lý nhà nước nhưng không thể lượng hoá như các chỉ số khác. Là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, UBND cấp xã tiến hành quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và dân cư trên địa bàn, nhằm hướng đến mục đích: làm cho xã hội ổn định và phát triển, đời sống nhân dân được nâng cao . Do vậy: Hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã là kết quả đạt được khi UBND cấp xã thực hiện quản lý nhà nước trên các lĩnh vực thuộc thẩm quyền của UBND cấp xã. 3.1. Quan điểm chỉ đạo của Đảng về nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã Ngay từ khi thực hiện công cuộc đổi mới, Nghị quyết đại hội Đảng VI ban chấp hành Trung ương Đảng đã đề ra phương hướng cải cách bộ máy nhà nước, xây dựng một bộ máy trong sạch, vững mạnh, có đủ năng lực để thực hiện nhiệm vụ chủ yếu “…thực hiện một quy chế làm việc khoa học, có hiệu quả; xây dựng bộ máy gọn nhẹ, có chất lượng cao với đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị và năng lực quản ký Nhà nước, quản lý kinh tế, quản lý xã hội”. [4, tr.118- 119] Nghị quyết xác định: “UBND các cấp cần nâng cao năng lực chỉ đạo, điều hành để tổ chức, thực hiện có hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước”. Đại hội Đảng lần VI là bước đột phá trong tiến trình hoàn thiện bộ máy nhà nước, cải cách hệ thống chính trị, cải cách kinh tế, mở rộng quyền tự do dân chủ của nhân dân. Sau 5 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần VII tiếp tục đưa ra phương hướng cải cách bộ máy nhà nước theo hướng “Nhà nước của dân, do dân, vì dân”. Đối với chính quyền cơ sở cần “xác định lại chức năng, nhiệm vụ của cả ba cấp chính quyền để sắp xếp lại tổ chức, đề cao quyền chủ động và trách nhiệm của địa phương, đông thời đảm bảo sự chỉ đạo thống nhất từ Trung ương… xây dựng chính quyền xã, phường vững mạnh” [5, tr.92]. Tiếp tục công cuộc đổi mới, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII đã đề ra phương hướng chủ yếu trong việc cải cách bộ máy nhà nước nhằm xây dựng, hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Nghị quyết nhấn mạnh việc thực hiện từng bước chế độ dân chủ trực tiếp ở cơ sở phải gắn liền với đổi mới tổ chức và hoạt động của chính quyền cơ sở: “kiện toàn đội ngũ cán bộ chính quyền cấp xã, có quy định cụ thể về chức danh, nhiệm vụ, quyền hạn, chính sách đãi ngộ; kiện toàn tổ chức, hoạt động của UBND cấp xã theo hướng tinh gọn, quy định rõ trách nhiệm, thẩm quyền của UBND và Chủ tịch UBND”. Nghiên cứu, tìm hiểu sự khác nhau giữa tổ chức và hoạt động cuả UBND cấp xã ở đô thị và nông thôn để từng bước điều cỉnh, bổ sung tổ chức và hoạt động của UBND phù hợp với từng địa bàn. Tại Nghị quyết đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, trong chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2001- 2010. Đảng và Nhà nước đã giao cho Chính phủ chỉ đạo công tác xây dựng chính quyền địa phương nói chung trong đó có UBND cấp xã. Nghị quyết đề ra phương hướng: “phân công, phân cấp nâng cao tính chủ động của chính quyền địa phương, kết hợp chặt chẽ quản lý ngành và quản lý theo lãnh thổ, thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, tổ chức hợp lý HĐND, kiện toàn các cơ quan chuyên môn của UBND và bộ máy chính quyền cấp xã, phường, thị trấn” [6, tr.113]. Tiếp theo đó, ngày 18/03/2002, Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam đã ban hành Nghị quyết Trung ương 5 khoá IX về đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị cơ sở ở xã, phường, thị trấn. Nghị quyết chỉ đạo: “Cần nâng cao hiệu lực của cơ quan hành chính theo hướng đề cao trách nhiệm và thẩm quyền của cơ quan hành chính cấp xã. Đối với những nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng, những công việc được phân cấp và những công việc tự quản ở cộng đồng dân cư, Chủ tịch UBND cấp xã đưa ra HĐND cấp xã bàn, quyết định chủ trương sau đó tổ chức thực hiện. Đối với những việc cấp trên uỷ quyền, UBND cấp xã thực hiện theo đúng quy định của cấp trên. Đối với công việc của thôn và các tổ chức tự quản khác, UBND cấp xã tổ chức hướng dẫn, hỗ trợ, giám sát việc tuân thủ pháp luật. Đối với các khiếu kiện của dân phải đề cao trách nhiệm giải quyết theo đúng thẩm quyền, không để dây dưa kéo dài” [7]. Gần đây, tại hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương khoá X đã ban hành NQ số 17- NQ/TW ngày 01/08/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trong đó có UBND cấp xã. Trên cơ sở đó Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 53/2007/NQ-CP ngày 07/11/2007 về chương trình hành động của Chính phủ thực hiện NQ hội nghị lần thứ 05 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X. Những quan điểm và tư tưởng chỉ đạo nêu trên sẽ là căn cứ để UBND cấp xã tổ chức, thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, nâng cao hiệu quả hoạt động, đáp ứng yêu cầu của xã hội trong thời kỳ hội nhập hiện nay. . Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã 3.2.1. Do yêu cầu phát huy nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi sự đổi mới tương ứng trong toàn bộ hệ thông chính trị. Hoạt động của UBND cấp xã có hiệu quả thì quyền dân chủ của nhân dân mới được đảm bảo và dược thực hiện một cách nghiêm túc UBND cấp xã là cấp gần dân nhất và được giao trọng trách quản lý một số lượng khá đông dân cư trên địa bàn cả nước. Vì vậy, hoàn thiện dân chủ là một vấn đề vô cùng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Khi người dân làm chủ thì sức sản xuất được giải phóng, khai thác và huy động tối đa mọi nguồn lực nhằm phát triển kinh tế, tạo ra của cải vật chất cho xã hội, từ đó người dân có điều kiện tăng thu nhập và cải thiện đời sống, nhân dân sẽ trực tiếp tham gia giám sát hoạt động quản lý hành chính nhà nước của UBND cấp xã. Đứng trước tình hình đó, một yêu cầu đặt ra cho UBND cấp xã là phải xây dựng và kiện toàn lại bộ máy thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt động có hiệu quả để hoàn thành nhiệm vụ thay mặt Nhà nước quản lý tất cả các lĩnh vực của đời sống, xã hội và dân cư trên địa bàn. 3.2.2. Do yêu cầu cải cách nền hành chính quốc gia nhằm xây dựng một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, từng bước hiện đại. Nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trong đó có UBND cấp xã là một yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay Thực hiện đường lối đổi mới, Đảng ta đã có nhiều chủ trương về cải cách hành chính và luôn xác định cải cách hành chính là một khâu quan trọng trong sự nghiệp đổi mới để phát triển đất nước. Để thực hiện tốt được nhiệm vụ, các cấp, các ngành cần phải hành động một cách cụ thể, thống nhất và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. UBND cấp xã, với tư cách là cơ quan hành chính nhà nước ở xã, phường, thị trấn, thường xưyên tiếp xúc trực tiếp với nhân dân, lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân nên cần phải không ngừng đổi mới và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động bằng chính chất lượng công việc và cách thức làm việc của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã hiện nay, đảm bảo cung cấp cho nhân dân một dịch vụ hành chính công tốt nhất, đáp ứng nhu cầu của một nền hành chính hiện đại trong giai đoạn hiện nay. 3.2.3. Trước sự tác động của nền kinh tế thị trường và xu thế toàn cầu hoá cần phải đổi mới tổ chức, hoạt động, cơ chế quản lý của các cấp chính quyền trong đó có UBND cấp xã để hạn chế những mặt trái của nền kinh tế thị trường Từ khi Việt Nam đã trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO, nền kinh tế nước ta đã có sự thay đổi đáng kể cả về lượng và chất. Đó là nhờ có sự tác động lớn từ phía Nhà nước với những chính sách đầu tư, ưu đãi thích hợp trong từng giai đoạn tạo điều kiện cho các tổ chức, doanh nghiệp và cá nhân phát huy tiềm năng vốn có của mình. Nền kinh tế của chúng ta không còn bó hẹp trong phạm vi quốc gia mà đã từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới. Tuy nhiên nền kinh tế thị trường với những mặt trái của nó như các tệ nạn xã hội, chủ nghĩa cá nhân, vị kỷ, lối sống thực dụng đã và đang tác động mạnh tới đời sống nhân dân. Nếu không có sự ngăn chặn kịp thời nó có thể sẽ làm băng hoại dần truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái ở mỗi làng quê, phố xóm ở Việt Nam. Quá trình đô thị hoá cũng đẩy một lực lượng lao động chủ yếu từ nông thôn ra thành thị mong tìm được việc làm, khiến cho lực lượng lao động ở nông thôn giảm dần và gây nên tình trạng lộn xộn, mất ổn định về an ninh trật tự ở khu vực thành thị. Đứng trước tình hình đó, UBND xã, phường, thị trấn cần phải có sự phối hợp với các các cấp, các ngành, các tổ chức đoàn thể liên quan để làm tốt công tác quản lý mọi lĩnh vực của đời sống xã hội trên địa bàn, ngăn chặn hoặc giải quyết kịp thời những mâu thuẫn có thể phát sinh. 3.2.4. Do sự phát triển của khoa học, công nghệ đã tác động mạnh mẽ tới tất cả lĩnh vực của đời sống xã hội đặc biệt trong lĩnh vực quản lý Khi các phương pháp và phương tiện quản lý truyền thống đã tỏ ra lạc hậu, không còn phù hợp với tình hình mới thì việc nắm bắt kịp thời các thông tin là nhiệm vụ quan trọng của tất cả các cơ quan nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Vì thông tin là căn cứ để quyết định và tổ chức thực hiện quyết định có hiệu quả. Điều này đòi hỏi bản thân bộ máy quản lý hành chính phải được tổ chức một cách tinh gọn. Nếu bộ máy cồng kềnh, nhiều nấc trung gian thì lượng thông tin sẽ không được xử lý kịp thời. Mặt khác, sự tiến bộ của khoa học, kỹ thuật và công nghệ đã cho ra đời hàng loạt các phương tiện quản lý hiện đại thay thế cho các phương tiện quản lý thủ công, tiết kiệm thời gian và công sức của người quản lý. Song cũng đòi hỏi người vận hành nó phải có trình độ, được đào tạo chuyên sâu thì mới có thể sử dụng và phát huy được những ưu việt của nó trong quá trình tiến hành quản lý. Cách duy nhất là tự đổi mới mình của chính bộ máy hành chính nhà nước dưới các góc độ: bộ máy tổ chức, con người, cơ sở vất chất… nhằm đạt được hiệu quả cao trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Đó cũng chính là đòi hỏi khách quan, vừa cấp thiết, vừa cơ bản không thể trì hoãn đối với UBND cấp xã trong giai đoạn hiện nay. 3.3. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay Phương hướng chung Xuất phát từ thực trạng tổ chức, hoạt động và chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của UBND cấp xã nước ta trong giai đoạn hiện nay, phương hướng đề ra để nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã trong việc tổ chức, quản lý mọi mặt của đời sống xã hội và dân cư trên địa bàn đó là: Thứ nhất, đổi mới tổ chức và hoạt động của UBND cấp xã Xác định lại chức năng, nhiệm vụ, xem xét lại toàn bộ cơ cấu, nguyên tắc, phương thức hoạt động của UBND cấp xã cùng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm cho bộ máy tinh gọn, hoạt động có hiệu quả. Trước hết, việc tuyển chọn cán bộ, công chức phải được tiến hành một cách công khai, dân chủ để dân có thể kiểm soát, tham gia đóng góp, xây dựng bộ máy đó ngày càng hoàn thiện. Đổi mới tổ chức của UBND cấp xã nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của UBND cấp xã, cải cách một bước nền hành chính quốc gia. Để làm được điều đó thì mục tiêu đề ra là phải xây dựng UBND cấp xã thật vững mạnh, trong sạch, có phương pháp quản lý khoa học nhằm đáp ứng tốt nhất yêu cầu của xã hội. Cụ thể: - UBND cấp xã phải thể hiện đầy đủ quyền lực hành pháp trong mối quan hệ thống nhất với quyền lập pháp. Quyền lực chính trị là thống nhất, không phân chia; hoạt động của UBND cấp xã phải phụ thuộc và phục vụ cho quyền lực chính trị. - Bộ máy của UBND cấp xã được tổ chức một cách khoa học, biết tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo tất cả những thành tựu về khoa học tổ chức và quản lý hành chính nhà nước của thời đại, một bộ máy được sắp xếp tinh gọn, ít đầu mối và hoạt động thực sự có hiệu quả. - Một bộ máy tổ chức theo quy định của pháp luật, phân định rõ chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn đồng thời phải được đảm bảo những điều kiện vật chất nhất định để phục vụ cho hoạt động thi hành nhiệm vụ. - Một bộ máy hoạt động theo quy chế và nề nếp chính quy, thủ tục hành chính đơn giản, tiếp cận và xử lý công việc một cách nhanh chóng, không cửa quyền, trì trệ, gây phiền hà cho nhân dân và đặc biệt là phải phát huy được tính chủ động, sáng tạo trong quản lý và điều hành mọi lĩnh vực của đời sống xã hội ở cơ sở. Thứ hai, là phải xây dựng và tuyển chọn một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã toàn tâm, toàn ý phục vụ nhân dân Đây là vấn đề vô cùng phức tạp, đòi hỏi phải có sự quan tâm, đầu tư rất nhiều từ phía Nhà nước, các ban, ngành, đoàn thể vì thực trạng bộ máy và đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay đang bộc lộ khá nhiều khiếm khuyết không còn phù hợp và thích ứng với điều kiện và tình hình mới. Yêu cầu đặt ra là phải kiện toàn đội ngũ cán bộ, công chức của UBND cấp xã hiện đang tỏ ra “bất cập” với những quan hệ xã hội mới đang phát sinh. Cần phải có chiến lược, phương pháp tiến hành đào tạo và đào tạo lại đối với đội ngũ cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu của công việc. Đẩy mạnh việc tuyển chọn đội ngũ cán bộ,công chức cấp xã có năng lực, trình độ, được đào tạo một cách bài bản và thành thạo công việc, tận tuỵ, biết tôn trọng kỷ luật, có trách nhiệm với công việc, với nhân dân. Nhưng song hành với điều đó họ cũng phải được hưởng một chế độ lương, thưởng, phụ cấp, trợ cấp phù hợp, tương xứng với trọng trách được giao. Thứ ba, nâng cao hiệu quả hoạt độ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNâng cao hiệu qủa hoạt động của Uỷ ban nhân dân cấp xã ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.doc
Tài liệu liên quan