Khóa luận Nghệ thuật kết cấu của Thuỷ Hử truyện

Mục lục

 

PHẦN MỞ ĐẦU 1

1. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI 1

1.1 Lí do chọn đề tài 1

CHƯƠNG 1: "THUỶ HỬ TRUYỆN" VÀ VẤN ĐỀ KẾT CẤU 3

1.1 VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ, TÁC PHẨM 3

1.2 GIỚI THUYẾT VỀ KẾT CẤU CỦA MỘT TÁC PHẨM VĂN HỌC. 9

CHƯƠNG 2 : KẾT CẤU VỚI HỆ THỐNG HÌNH TƯỢNG 12

2.1 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC CÁC TUYẾN NHÂN VẬT. 12

2.2 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI DẪN CHUYỆN 30

CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT KẾT CẤU VỚI XÂY DỰNG CỐT TRUYỆN 41

3.1 NGHỆ THUẬT TỔ CHỨC ĐOẠN, CHƯƠNG HỒI 41

3.2 NHÁNH CỐT TRUYỆN VÀ CỐT TRUYỆN THUỶ HỬ 48

3.3 THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT. 53

PHẦN KẾT LUẬN: 63

TÀI LIỆU THAM KHẢO 64

 

 

doc79 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4108 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghệ thuật kết cấu của Thuỷ Hử truyện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một mục đích rõ rệt “quan bức dân phản”. Trong “Thuỷ Hử truyện”,với nhóm nhân vật khổng lồ 108 anh ùng Lơng Sơn Bạc, trong quá trình qui tụ về Lương Sơn đã tồn tại cảm giác xen kẽ nhiều nhóm khác nhau chẳng hạn như: Tam Tựi Nguyễn Hùng, Thất TinhTụ Nghiã, nhóm Chu Vũ, Trần Đạt, Dương Xuân ở núi Thiếu Hoa, nhóm Lỗ Trí Thâm, Dương Chí ở núi Nhị Long anh em Giải Trân, Giải Bảo, Khổng Minh, Khổng Lượng...nhóm nhân vật có thể được xây dựng trên quan hệ huyết thống hoặc kết nghĩa, điều này nó mang rõ đặc tính Phương Đông.Theo Trần Lê Bảo: “Nói tới nhóm loại hình là một yêu cầu cao của tổ chức nhóm, tổ chức có tính nghệ thuật, tính mô hình và tính kết cấu chắc chắn” [9;194]. Vì vậy không phải bất cứ một nhóm nhân vật nào cũng là nhóm loại hình, liên hệ tính cách, mâu thuẫn tính cách và mục tiêu chung chính là bản chất của nhóm. Trong 108 anh hùng Lương Sơn Bạc mỗi người có một tính cách riêng thậm chí có mâu thuẫn xung đột nhưng chức năng không thể thiếu được đó là “thế thiên hành đạo” và luôn phải có một nhân vật trung tâm kéo theo các nhân vật khác đều phải phục tùng nhân vật ấy. Đó là Tống Giang với cương vị huynh trưởng cộng tài trí và lòng nghĩa hiệp, ông đã kéo về bên mình các anh hùng ở khắp mọi nơi có cùng tâm huyết ghét bỏ quan quân, tôn thờ đại nghĩa. Đặc biệ,t trong quần thể ấy mỗi cá nhân đều vì tập thể và lợi ích tập thể vì lợi ích cá nhân. Có biết bao lần nghĩa quân Lương Sơn Bạc đã đem quân đi cứu huynh đệ mình bị quan quân bức hại, những trận đánh Chúc Gia Trang, Tăng Đầu Thị hay chống lại các võ tướng triều đình chính là để bảo vệ tập thể khổng lồ của mình và ngọn cờ trung nghĩa .Chỉ cần một mắt xích bị phá vỡ là tập thể ấy sẽ tan rã. Ban đầu là sự ra đi của Công Tôn Thắng, kéo theo Chu Vũ , những cái chết của các đầu lĩnh như Trương Thanh,Sách Siêu, Đổng Minh, anh em Giải Trân, Giải Bảo... Cuối cùng, cái chết của Tống Giang đã kéo theo một loạt anh hùng trong nhóm này chết theo, Lư Tuấn Nghĩa, Lý Quỳ, Ngô Dụng, Hoa Vinh... Đồng thời, nó cũng báo hiệu nhóm một trăm linh tám vị anh hùng đã biến mất. Xuất phát từ ý đồ tư tưởng nghệ thuật của tác phẩm, việc đưa một trăm linh tám vị anh hùng đủ mọi ngành nghề, nơi chốn, tập hợp nơi bến nước là một kỳ công của tác giả. Nói như Kim Thánh Thán vơí lời bình ở hồi 16 “Một bộ sách vơ vét một trăm lẻ tám người, đều chứa cả vào Lương Sơn Bạc mà phải đưa từng người vào Thuỷ Đình của Chu Quý, từng người vào ăn uống ở nhà hàng, từng người phải bắn tên hiệu, và từng người phải dẫn qua đò...như kẻ bán gạo lại miệng tay nhặt từng hạt gạo một, thì bao giờ cho xong? Nếu chép từng người một đi đến như Lâm Xung kia thì sao gọi là văn của tài tử chép . Xét từ khi trời Thạch Kiệt, để tới ngày ghi tên họ mà xem, thì một trăm linh tám người kia lần lượt diễn ra, còn ví như những hạt châu to nhỏ chứa đựng cả vào một mâm ngọc vậy, nó còn tản tác xa gần chưa thể nhặt hết được! Vì lúc đầu nào phải một tay, hai tay nhặt hết để cùng bày, đối với việc ấy tác giả tả dần dà, như bày đặt thứ tự, nhân đó mà chợt cấu tứ lạ lùng”. [4;278] Mặt khác, nhóm loại hình này còn được liên kết bởi một yếu tố rất đặc trng của phương Đông thần bí, nó thuộc quan niệm vũ trụ, càn khôn của người Trung Hoa cổ, trong đó ta thường thấy một loạt các con số như tam, tứ, ngũ, lục thất, ...trong “ Thuỷ Hử truyện” ta bắt gặp "Thất tinh tụ nghĩa”, ba mươi sáu thiên cang, bảy mươi hai địa sát, một trăm linh tám anh hùng. Những con số đó có vai trò rất quan trọng nó làm cho những nhân vật dù có mối liên hệ lỏng lẻo hoặc cách xa nhau đều có thể tập kết một cách ngẫu nhiên tạo thành một quần thể anh hùng.Mặt khác, nó còn rất rễ ghi nhớ, lưu truyền trong lòng người đọc.Nó không chỉ có vai trò tập hợp nhân vật mà còn khiến cho nhóm có tính chất thần kỳ, siêu nhiên. Người đọc không thể quên được Tam kết nghĩa, Ngũ hổ tướng trong Tam Quốc, thập nhị kim thoa trong ”Hồng lâu mộng”, tứ chúng trong “Tây du ký ” đã được tổ ra sao hành động thế nào? Đối với “Thuỷ Hử truyện” để tổ chức nhân vật hiển nhiên là hoàn toàn không phải chỉ xuất phát ý đồ nghệ thuật của tác giả mà còn bị chi phối bởi bản thân đề tài và hệ thống chủ đề, tớ tưởng.Nó khiến cho các nhân vật khác xa nhau về hoàn cảnh xuất thân, tính cách tạo thành một quần thể anh hùng đem lại sức mạnh vô địch khiến cho bọn quan tham,vua hôn mê kinh hoàng, bạt vía.Cách ứng xử của họ đều theo lối “tứ hải giai huynh đệ", ở họ không có sự phân biệt địa vị, nghề nghiệp, sang hèn, kể cả vợ chồng, chú cháu, cô cậu không phân biệt thân sơ.Tất cả gọi nhau là anh em trong một đại gia đình. Đó chính là quan hệ "huyết duyên ”_một đặc điểm nổi bật của tiểu thuyết cổ Trung Hoa dùng loại quan hệ này để liên kết các nhân vật cũng như “ Tam quốc chí ” với "Tam kết nghĩa,” Tây du ký với "tứ chúng”... Như vậy, qua việc khảo sát nghệ thuật hệ thống nhân vật cho thấy số lượng nhân vật rất đông đảo,phong phú, đa dạng, nhiều loại người. Với tuyến tiền diện là việc miêu tả một trăm linh tám vị anh hùng Lương Sơn Bạc, tác giả đã cho thấy ngòi bút kỳ tài vô cùng biến hoá của mình. Các nhân vật được nhìn ở nhiều góc độ khác nhau, được đặt vào nhiều tình huống khác nhau có trùng lặp nhau nhưng đều thể hiện được tính cách cá biệt, độc đáo. Có được điều đó là nhờ sự tổ chức nhân vật thành nhóm từng tuyến liên kết với nhau trong một tổng thể thống nhất, hài hoà, cân đối, trên dưới tung hoành, trước sau giao kết, phải trái xuyên suốt, trong ngoài liên quan. ở đây, tuy rằng, số lượng nhân vật rất đông đảo nhưng tác phẩm vẫn đảm bảo tính thống nhất và toàn vẹn của kết cấu nhờ hiện thực của dòng lịch sử đang vận động và sự vận động của các nhân vật đều hướng tới đến một mục đích chung đó là sự phản kháng quyết liệt đứng lên chống lại quan quân để giành quyền sống bởi “bất phản kháng tức tử vong”.Tất cả đã tạo nghệ thuật kết cấu đồ sộ về phương diện hệ thống nhân vật, qua đó chủ đề, tư tưởng của tác giả, được thể hiện ở nhiều khía cạnh nói như Timôfiep”dù cấu tạo của tác phẩm nghệ thuật có phức tạp đến đâu, dù những tính cách mà chúng ta gặp trong tác phẩm có khác nhau đến đâu đi nữa bao giờ sự sáng tác cũng là khối hoàn chỉnh, thống nhất được tổ chức bởi tư tưởng chủ đạo, bởi thái độ thống nhất của tác giả đối với cuộc sống xã hội mà tác giả miêu tả ” [6;33] 2.2 HÌNH TƯỢNG NGƯỜI DẪN CHUYỆN Trong hệ thống nhân vật của Thuỷ hử còn có một nhân vật có vị trí hết sức quan trọng trong việc tổ chức hình tượng tạo ra kết cấu mạch lạch rõ ràng, góp phần đắc lực trong việc thúc đẩy cốt truyện phát triển và diễn biến của các sự kiện, tình tiết, hành động, lời nói của nhân vật. Đó là người trần thuật hay là người dẫn chuyện. Bất kỳ một tác phẩm tự sự nào cũng có người trần thuật, đó là một vị trí không thể thiếu trong sợi dây liên kết, tổ chức tác phẩm. Trong tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc chưa tồn tại nhân vật trần thuật với cá tính riêng biệt mà thường chỉ có hình tượng người dẫn chuyện thường gọi nôm na là "bà mối" giữa các hiện tượng được miêu tả trong một tác phẩm văn học với độc giả khó tính. Muốn cuộc”xe duyên” ấy thành công, người trần thuật phải cắt nghĩa, lý giải các sự việc xảy ra, nghiên cứu làm sáng tỏ mọi mối quan hệ trong trong tác phẩm. Mặt khác, tiểu thuyết cổ điển được xây dựng trên các thoại bản thời Tống, Nguyên. Muốn câu được nhiều khách, ngay cách bắt đầu câu chuyện, người kể chuyện đã phải ẩn mình trong các thủ thuật khêu gợi trí tò mò của độc giả với các hiện tượng, con người khác lạ, ly kỳ. M.Gorki trong "Bàn về văn học nói ”:" trong tiểu thuyết ,trong truyện, những con người được tác giả thể hiện đều hành động với sự giúp đỡ của tác giả, tác giả luôn ở bên cạnh họ, mách cho người đọc biết rõ cần phải hiểu nhân vật như thế nào, giới thiệu cho người đọc hiểu ý nghĩa thầm kín, những động cơ bí ẩn của phía sau hành động các nhân được miêu tả,tô đậm thêm cho tâm trạng của họ bằng những đoạn mô tả thiên nhiên, trình bày hoàn cảnh, và nói chung là luôn luôn giật dây cho họ thực hiện mục đích của mình, điều khiển một cách tự do và nhiều khi rất khéo léo, nhưng lại rất võ đoán. Mặc dù, người đọc không nhận thấy những hành động, lời lẽ, việc làm, các mối tương quan của họ, luôn tìm cách để làm cho các nhân vật trong truyện được rõ nét và có sức thuyết phục tối đa về phương diện nghệ thuật ” [6;30]. Trong Thuỷ Hử cũng như Tam Quốc người trần thuật là người “vô trọng lượng và vô hình”, ta chỉ có thể nhận ra tác giả đằng sau người trần thuật qua những lời nói, cách nhìn, cách thể hiện, phương thức tư duy, từ đó, những tư tưởng, quan niệm của tác giả được thể hiện rõ nét. Không nên lẫn lộn tác giả với người kể chuyện bởi”tác giả là người sáng tạo ra tác phẩm, ở ngoài tác phẩm. Muốn kể chuyện bằng tác phẩm tự sự, viết bằng văn tự nhà văn phải tạo ra người kể chuyện để thay mình kể chuyện. Lời kể là lời của người này, tuỳ thuộc vào đặc điểm giới tính, chức năng nhân vật mà tác giả giao cho. Tác giả hiện diện trong tác phẩm với tư cách một tác giả hàm ẩn, một sản phẩm được người đọc nhận ra và khái quát như là một trung tâm giá trị trong tác phẩm” [19;125]. Đặc biệt, Thuỷ Hử xuất phát từ truyện kể dân gian, từ những thoại bản cho nên vai trò của “thoại nhân” là rất lớn, người kể chuyện luôn luôn đứng về nhân vật giải thích cho người nghe hiểu về nhân vật.Tìm hiểu hình tượng người kể chuyện qua hai đặc điểm : ngôn ngữ và điểm nhìn trần thuật,chúng ta sẽ thấy được điều đó. 2.2.1 Ngôn ngữ người kể chuyện. Đó là, phương tiện hết sức độc đáo, cơ bản để bộc lộ tư tưởng, chủ đề của tác phẩm, nêu bật tính cách của các nhân vật, nó tạo nên ở người đọc thái độ nhất định đối với con người và sự vật được miêu tả. Ngôn ngữ người kể chuyện đóng vai trò chủ yếu trong việc dẫn dắt quá trình hình thành, phát triển và kết thúc của cốt truyện, qui định một phần kết cấu tác phẩm. “Thuỷ Hử truyện” với thể loại kết cấu chương hồi, cho nên nhân vật người kể chuyện xuất hiện trong tác phẩm với những câu nói dừơng như đã trở thành công thức chung như : vậy có thơ rằng..., bảo rằng..., kêu rằng..., nói đoạn..., nói xong...., Đầu mỗi hồi thường có hai câu thơ tóm tắt những vấn đề chính cần được triển khai trong hồi đó, ví dụ như hồi thứ hai: “Sử đại lang nửa đêm đốt trại Lỗ đề hạt giữa chợ giết người”[4;33] Hồi này người dẫn chuyện đưa người đọc vào sự kiện Sử Tiến bị phát hiện giao du với bọn cướp núi Thiếu Hoa, đem quân tới định bắt, sử tiến không làm cách nào đành phải đốt trại chạy lên núi Thiếu hoa. Sau đó gặp Lỗ Trí Thâm và xảy ra chuyên “Ba cú đấm đánh chết Trấn Quan Tây” Như vậy, với hai câu thơ mở đầu mỗi hồi, người dẫn chuyện đã lược thuật những sự chính sẽ xảy ra tiếp theo nhằm thu hút người đọc tò mò muốn nghe tiếp. Cuối mỗi hồi thường là câu quen thuộc : “’ Muốn biết sự việc ra sao xin xem hồi sau sẽ rõ, hoặc muốn biết nhân vật ấy là ai xin xem hồi sau sẽ rõ”. Câu nói đó đã trở thành nghệ thuật của người kể chuyện, gây sự tò mò cho người đọc, bắt buộc người đọc không thể bỏ giữa chừng mà phải tiếp tục xem tiếp hồi sau. Cứ như vậy, người đọc bị cuốn hút vào cốt truyện một cách kì lạ. Đây là cách kể mang phong cách dân tộc á Đông, đặc biệt là cách kể của người Trung Quốc. Tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc bắt nguồn từ truyện kể dân gian đòi hỏi người kể chuyện luôn tạo ra những tình tiết li kì, úp mở để lôi cuốn, kích động đông đảo người nghe. Mở đầu thì kể lại tóm tắt sự kiện đã xảy ra trước đó, sau khi thêm vài chuyện vòng vo nữa mới vào chỗ chính, kết thúc ở chỗ gay cấn nhất rồi buông thõng, không giải quyết để mời khán giả muốn xem xin mời ngày mai lại đến. Mặt khác do ảnh hưởng của truyền thống vă hoá bản địa Trung Hoa cho nên mỗi tình huống, mỗi xung đột đều được tác giả lí giải cặn kẽ nguyên nhân xảy ra cũng như lí do hoá giải nó. Chẳng hạn như đoạn dùng mưu cướp đồ lễ sinh nhật, hay đoạn Lỗ Trí Thâm đại náo rừng Dã Trư....Thi Nại Am đã khổ tâm, kì công xếp đặt cho sự việc li kì xảy ra khiến cho ngôn ngữ trở nên thiên biến, vạn hoá. Hết cái kì này đến cái kì khác, kì trong sự kiện, trong mô tả nhân vật, kì trong tính cách, tài năng nhân vật. Tất cả đều được tái hiện rõ nét trong ngôn ngữ người kể chuyện. Có thể nói đó là lời một nhân vật không hề tham gia vào những sự kiện diễn ra trong cốt truyện nhưng lại có “một tầm quan trọng hết sức to lớn trong việc xây dựng tác phẩm bởi cách quan niêm biến cố xảy ra, cách đánh giá nhân vật và các biến cố đều xuất phát từ cá nhân người kể chuyện”[6;44]. Ngôn ngữ người kể chuyện được cá tính hoá cao, không hề nhầm lẫn, tuy nhiên, mỗi lời nói của nhân vật đều là lời của tác giả. Các nhân vật không phát ngôn một độc lập mà hoàn toàn phụ thuộc vào tư tưởng tác giả. Người kể chuyện sắp xếp rải rác lời nói của họ vào trong ngôn ngữ của mình, chẳng hạn, đoạn “Ngô Học Cứu thuyết ba chàng họ Nguyễn”, người kể chuyện không những khéo sắp xếp các đoạn đối thoại xen kẽ giữa ba người và Trí Đa Tinh mà còn mượn lời của họ Nguyễn để thể hiện sự đánh giá căn bản đối với xã hội đương thời, đồng thời tính cách của nhân vật cũng hiện dần lên rõ nét. Đó là những con người thẳng thắn cương trực, nhận thức rõ thời thế, mơ ớc một cuộc sống no ấm, đủ đầy, tự do, khoáng đạt. Lời của Nguyễn Tiểu Ngũ khi nói về Lương Sơn Bạc: “Nếu quan quân mà động chắc là tàn hại dân, vì họ nghe các tiếng động ở đâu là họ bắt các giống lợn gà, chó má để mà chè chén với nhau”[4;228] hay như lời của Nguyễn Tiểu Nhị “Đám quan tư bây giờ thì lại gà mờ không biết lắm, những đứa ngập mắt chán vạn ra đấy nhưng nào có việc gì đâu”[4;229]. Hoặc trong vụ cướp Hoàng Nê Cương, tác giả mới chỉ cho biết mưu kế của Ngô Dụng là “cứ thế này...., thế này...”và sau đó cho xuất hiện bảy anh buôn táo. Khi sự việc xong xuôi, độc giả đang ngỡ ngàng, tác giả mới giải thích, phân tích: “Bảy anh hàng táo ấy là ai? Chính là Tiều Cái, Ngô Dụng, Công Tôn Thắng, Lưu Đường và ba anh em họ Nguyễn, còn anh hàng ruợu kia chính là Bạch Nhật Thử Bạch Thắng mà gánh rợu ấy toàn là rợu ngon cả. Khi bảy người uống một thùng, rồi Lưu Đường lại bỏ thùng rượu bên này uống luôn một gáo nữa cốt để cho bọn 15 người nọ biết là rượu tốt, đoạn rồi Ngô Dụng lại nấp trong rừng bỏ thuốc mê vào gáo, mà chạy xổ ra giả vờ múc trộm. Bấy giờ Bạch Thắng lại giằng lấy gáo rượu mà đổ vào thùng, làm cho thuốc mê pha lẫn với rượu, rồi sau đó mới bán cho lũ nọ...”[4;255]. Như thế, lời của nhân vật và người kể chuyện luôn luôn đồng hiện, tuy nhiên, lời người kể chuyện vẫn chiếm chủ yếu, các nhân vật đối thoại cũng chỉ là phát ngôn của tác giả về các sự vật, hiện tượng mà thôi. Tác giả dựa vào đó để bộc lộ chính kiến của mình, đồng thời, nhân vật cũng hiện lên sống động, sắc nét. Tuy nhiên, đó cũng là một hạn chế của phương thức dẫn chuyện tiểu thuyết cổ điển bởi nhiều khi nhân vật lại trở thành cái loa phát ngôn của tác giả, nói những điều mà chính tác giả muốn nói, chẳng hạn như những suy nghĩ, dằn vặt của Tống Giang với câu trung nghĩa, những lời Tống Giang khuyên Võ Tòng, Dương Chí sớm chiêu an triều đình đều mang màu sắc Nho giáo rõ rệt. Điều này có một tầm quan trọng đặc biệt , nó thể hiện lập trường, tư tưởng của người kể chuyện phù hợp với tư tưởng của Thi Nại Am. Tuy vậy, ngôn ngữ của người kể chuyện tạo ra những nét riêng của mình, dù có những quan điểm gần gũi với quan điểm của tác giả. Mặt khác, ngôn ngữ người kể chuyện phục vụ một cách đắc lực cho sự xuất hiện nhân vật. Có nhân vật với diện mạo được mô tả thông qua lời nói của chính nhân vật đó như Chu Quí, Công Tôn Thắng, Dương Chí...có nhân vật được tác giả giải thích một cách đột ngột xen vào sự việc của người khác, thân thế, tính cách được bộc lộ dần về sau như Lâm Xung, Lí Quỳ.... Nói như Mao Thuẫn : “Cũng giống như một người từ xa lại, lúc đầu chúng ta chỉ nhìn thấy anh ta mặc áo dài hay ngắn, sau lại thấy rõ anh ta béo hay gầy, sau đó lại thấy rõ mặt anh ta vuông hay tròn, cuối cùng mới thấy rõ lông mày và mắt cho đến cả tiếng nói, điệu cười của anh ta. Lúc đó mới có thể coi là ta đã nhìn rõ toàn bộ anh ta”[16;21]. Phương pháp mà Thuỷ Hử dùng để tả nhân vật chính là từ xa đến gần, chẳng hạn, đoạn Lỗ Trí Thâm cứu Lâm Xung thoát chết ở rừng Dã Trư, ban đầu ta chỉ nghe thấy tiếng hét, rồi bóng cây thiền trợng bổ xuống và hình ảnh trăng trắng, sau cùng mới thấy rõ là Lỗ Trí Thâm. Trường hợp khác chỉ vài dòng cũng đủ làm nổi bật bản chất của nhân và thái độ yêu ghét của tác giả. Ví như hồi một, tác giả dẫn chuyện về Cao Cầu: “Về đời nhà Tống, Triết Tôn hoàng đế làm vua, cách với đời vua Nhân Tôn hoàng đế đã xa, giữa phủ Khai Phong ở ngay Đông Kinh, thuộc khu của thành Tuyên Vũ Quân nảy nòi một tên con nhà lông bông mất dạy, là dòng họ Cao, bầy hàng đứng vào thứ hai. Anh ta thuở nhỏ không chịu làm ăn, chỉ thích múa thương, đánh gậy và đá cầu rất giỏi, bởi thế trong kinh gọi anh ta là Cao Cầu, đổi gọi Cao Nhị. Do chữ cầu có chữ mao là lông ở bên cạnh sau phát tích lên mới đổi chữ cầu có chữ nhân là người đứng cạnh. Anh chàng này lại giỏi thổi sáo, múa bộ, chơi bời nghịch ngợm đủ lối, mà còn đòi học thơ phú, võ vẽ sách vở, nhưng nói đến Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí, Tín, hạnh trung lương thì tuyệt nhiên không hiểu chút gì”[4;3].Những lời giới thiệu đó tuy không dài nhưng giúp độc giả hiểu được đầu mối của truyện và quan điểm yêu ghét rõ ràng của tác giả. Có trường hợp nhân vật vừa xuất hiện tác giả đã đi sâu khai thác, dùng những chi tiết ngẫu nhiên, gián tiếp giới thiệu và khắc hoạ tính cách nhân vật. Ví như hồi 37, Lý Quỳ vừa xuất hiện, tác giả đã bố trí hàng loạt những mẩu đối thoại xen kẽ để làm nổi bật tính cách của y. Khi Tống Giang và Đới Tung đang vui tâm sự mới uống với nhau vài chén thì thấy dưới lầu có tiếng ầm ĩ. Người bán hàng hớt hải chạy vào nói: “Cái người này chỉ có ông viện trưởng bảo mới được, xin phiền ngài giúp cho”. Đới Tung hỏi ai làm ầm ĩ dưới lầu, người bán hàng đáp : “Thiết Ngưu Lí đại ca mà Đới Viện trưởng vẫn sai khiến đó”. Đới Tung cười nói : “Lại thằng đó, sao nó lại vô lễ dưới đó. Ta cứ ngỡ là ai...”[4;27]. Mới vài dòng thế thôi nhưng người đọc cũng được làm quen với Lí Quỳ. Qua việc Lí Quì làm ầm ĩ dưới lầu, thái độ hớt hải của người bán hàng và sự thản nhiên cười nói của Đới Tung có thể hiểu được phần nào tính ngây thơ chất phác nhưng có phần thô lỗ, cục mịch của Lí Quỳ. Ngôn ngữ miêu tả như thế đạt hiệu quả nghệ thuật rất cao, nó khiến cho sự vật, hiện tượng được miêu tả hiện ra nối tiếp nhau như một cuốn phim vậy. Điều này cũng được thể hiện rõ qua việc miêu tả các trận đánh Chúc Gia Trang, Điền Hổ, Phương Lạp...ngôn ngữ người kể chuyện dường như ẩn đi để cho các sự kiện tự nó hiện ra trước mắt người đọc vô cùng sống động. Mặt khác, ngôn ngữ người kể chuyện dường như tỏ ra khách quan, miễn tham gia vào quá trình phát triển hành động mà để các nhân vật tự vận động, biểu hiện trước mắt người đọc một cách tự nhiên, không ép. Ngôn ngữ được sử dụng hết sưc chắt lọc với chiều hướng ý toại, ngôn ngoại, lời hết mà ý không hết. Các câu nói của nhân vật rất xúc tích, ngắn gọn, giàu tính tạo hình. Có được tài năng đó, tác giả đã trải qua nhiều năm gia công nghệ thuật, quan sát, thâm nhập thực tế, trau dồi vốn sống, sáng tạo nghệ thuật. Theo truyền thuyết thi Nại Am đã thuê người tạc tượng những anh hùng Lương Sơn Bạc để khi viết nhìn vào đó mà mô tả chính xác hơn. Đó chính là ngôn ngữ Bạch Miêu, một truyền thống tự sự của Trung Quốc, tức là thứ ngôn ngữ kể mộc không tô vẽ hào nhoáng. Khi miêu tả con người, sự vật, tác giả lược bỏ hết những chi tiết rờm rà, không thực tiễn, những hình dung từ vô ý nghĩa mà chỉ vẽ nét không tô màu, tất cả nó là sự bình dị cụ thể, chi tiết để nhân vật hiện lên một cách sáng rõ, không bị khuất lấp. Theo Kim Thánh Thán thì đoạn miêu tả Lâm Xung ở hồi thứ 9 là tiêu biểu cho bút pháp tả mộc, “chẳng hạn bấy giờ gió càng to mà tuyết xuống lại càng nhiều, Lâm Xung đi lật đật về tới thảo trường mở khoá cổng đi vào thì bỗng ngạc nhiên mà kêu lên rằng : “Trời ơi ! cái thảo trường kia đổ mất rồi ta ở đâu cho được”, đoạn rồi lại e đống lửa ở trong cha tắt mà lỡ ra bốc cháy thì nguy, liền lách tay vào sờ xem, thì thấy nước tuyết tưới vào nguội lạnh như tàn tro vậy, Lâm Xung lại lần vào sờ lên giường kéo được một cái khăn khoác lên trên mình thì thấy trời sắp tối”[4;159]. Hoặc như hình ảnh Võ Tòng giết chết bốn tên công sai tai bến Phi Vân Phố, hồi 30, rồi nghĩ ngợi : “Bây ta đã giết xong bốn đứa này rồi xong còn đámTrương đô Giám, Trương Đoàn Luyện, Tưởng Môn Thần vẫn cò đó thì sao cho thoả tức giận bấy nay” Chàng nghĩ vậy thì vác đao quanh quẩn hồi lâu rồi hốt nhiên định bụng, xăm xăm đi về lối Mạnh Châu”. Ngôn ngữ Bạch Miêu đã trở thành bút pháp đắc lực trong việc miêu tả hành động, suy nghĩ của nhân vật, đồng thời làm cho hình tượng người kể chuyện trở nên sống động. Trong Thuỷ hử cũng như Tam Quốc xuất hiện rất nhiều bài thơ, đây chính là chỗ để người dẫn chuyện thể hiện rõ cá tính, chính kiến của mình, đồng thời đó cũng là một trong những đặc điểm của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc, đóng vai trò quan trọng trong kết cấu tác phẩm. Thơ trong Thuỷ Hử có thể cho thấy thái độ của tác giả rất khác nhau, hoặc ngợi khen những hành động dũng cảm, nghĩa khí, hoặc ngậm ngùi khóc thơng cho số phận con ngời, hoặc châm biếm, đả kích chua cay...Tất cả đều bộc lộ rõ chủ đề, tư tưởng tác phẩm. Xưa nay, mọi ngời đều cho rằng thơ trong tiểu thuyết cổ điển phần lớn không phải là của tác giả mà người dẫn chuyện lấy thơ của người khác để bìmh chú cho vấn đề mình đang kể. Tuy nhiên, dù thế nào đi chăng nữa, việc đưa những vần thơ vào trong tiểu thuyết như Thuỷ Hử cũng bộc lộ một thái độ nhất định, một sự đánh giá khách quan hiện tượng cuộc sống. Chẳng hạn, hồi 11, khi Dương Chí bị Cao Cầu bức hại phải di bán đao kiếm sống, giết chết tên Đường Ngưu Nhị nhưng không chạy trốn mà đến luôn phủ Khai Phong đầu thú, tác giả buông một lời cảm kích : “Gươm thần chém hết oan gia Trừ loài đê tiện cũng là nghĩa chung Đường hoàng thay việc anh hùng Trời soi, đất xét dễ lòng sợ chi”[4;190] Những vần thơ ở đây phảng phất phong vị Đường thi, nhất là những câu thơ nói về các cuộc chia tay của hững anh hùng, hảo hán.Khi Tống Giang chia tay bọn Lí Tuấn, tâm trạng dường như nhuốm màu thiên nhiên, không chỉ có tâm trạng của người trong cuộc mà cả của người dẫn chuyện nữa : “Con buồm gió thổi phất phơ Tầm Dương trớc lại bây giờ Tầm Dương Cùng trong một ngọn trờng Giang Mà nay nước cuốn, sóng cuồng đi đâu”[4;19] Những đoạn thơ cuối mỗi hồi chính là sự suy ngẫm,trải nghiệm của tác giả về lẽ sống ở đời, điều ấy không chỉ cho người đọc biết được nội dung, tư tưởng của hồi đó mà còn là sự tổng kết mang tính chất răn dạy, luận đề, chẳng hạn như hồi 70: “Miền Thuỷ Bạc, vùng Lương Sơn Nước bèo gặp gỡ tâm can hen hò Tài kinh tế, chí giang hồ Giữa đường dựng một ngọn cờ nghĩa trung Từ đây hảo hán tang bồng Mảnh gương nghĩa hiệp soi chung muôn đời Trăm năm nhắn bạn anh tài Làm trai cho đáng lên trai mới là”[4;692] Phần “Hậu Thuỷ Hử” ta còn thấy xuất nhiều bài từ, khúc mang sắc thái dân gian của từ khúc đời Nguyên. Việc xuất hiện những bài thơ đó đều mang tính chất bình luận trữ tình ngoại đề, biểu hiện rõ nét thái độ của tác giả, hơn nữa, “có thể nói những đoạn thơ này đã làm cho tiểu thuyết chương hồi Trung Hoa mang sắc thái dân tộc riêng. Chúng trở thành một bộ phận không thể tách rời trong kết cấu tác phẩm với những tên gọi các hồi có nhịp điệu mà nhà văn nêu ra. Chúng cũng là những đoạn mở đầu và kết thúc truyền thống ở truyện kể dân gian trước đó.”[9;88] Tóm lại, đối với loại hình tiểu thuyết chương hồi thì người dẫn chuyện là linh hồn của tác phẩm tựa như một người nhạc trưởng dẫn dắt, tổ chức các nhạc công cho một bản đại hoà tấu. Về phương diện kết cấu hệ thống hình tượng, vai trò người dẫn chuyện rất quan trọng, từ đó mà bao vấn đề của tác phẩm được đưa ra và giải quyết một cách hợp lí, hài hoà, gây sự hứng thú cho người đọc. Có được điều đó, người dẫn chuyện phải có một điểm nhìn đúng đắn và xác đáng bởi : “Nghệ sĩ không thể miêu tả, trần thuật các sự kiện về đời sống được nếu không xác định cho mình một điểm nhìn đối với sự vật, hiện ưtợng, nhìn từ góc độ nào xa hay gần, cao hay thấp, nhìn từ bên trong ra hay từ bên ngoài vào....Do vậy, điểm nhìn trần thuật là một trong những yếu tố hàng đầu của tác phẩm nghệ thuật”[20;113]. Đặc biệt, điểm nhìn trần thuật còn qui định phạm vi kết cấu, tạo ra sự trác tuyệt, hoàn mỹ của một chỉnh thể nghệ thuật thống nhất. 2.2.2 Điểm nhìn trần thuật Thuỷ Hử truyện mang màu sắc của sử biên niên và truyện kể dân gian nên nó được tường thuật theo “trường nhìn tác giả”. Người kể chuyện đứng ở ngôi thứ ba, hoàn toàn đứng ngoài để dẫn dắt, sắp xếp hệ thống nhân vật, sự kiện, tình tiết trong kết cấu tác phẩm. Xuất phát từ điểm nhìn số phận, thi Nại Am đã phác hoạ ra cả một thời kỳ lịch sử loạn lạc, đau thương của xã hội phong kiến Trung Hoa, đồng thời làm rõ nguyên nhân phát sinh, phát triển và thất bại của cuộc khởi nghĩa do Tống Giang cầm đầu nói riêng và các cuộc khởi nghĩa nông dân thời bấy giờ nói chung. Sống trong lòng chảo ấy, số

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docVHDOCS 9.doc