MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
CHƯƠNG I:
XUẤT KHẨU TƯ BẢN VÀ NHỮNG BIỂU HIỆN MỚI CỦA NÓ TRONG CHỦ NGHĨA TƯ BẢN NGÀY NAY
1.1. Xuất khẩu tư bản - một trong những đặc điểm kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản độc quyền 5
1.1.1. Bản chất của việc xuất khẩu tư bản 5
1.1.2. Các hình thức xuất khẩu tư bản 8
1.2. Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản hiện đại 11
1.2.1. Quá trình xuất khẩu tư bản 11
1.2.2. Kết quả và những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay 21
CHƯƠNG II:
ĐÔI ĐIỀU RÚT RA TRONG VIỆC ÁP DỤNG ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI VÀO VIỆT NAM
2.1. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. 26
2.1.1. Sự cần thiết phải tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 26
2.1.2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam 27
2.1.3. Một số thuận lợi và khó khăn của Việt Nam trong việc thu hút sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài 37
2.2. Những tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài và một số giải pháp khắc phục trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam 39
2.2.1. Tác động tiêu cực của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam 39
2.2.2. Những giải pháp nâng cao hiệu quả tiếp nhận đầu tư nước đối với nền kinh tế Việt Nam 42
KẾT LUẬN
DANH MỤC CÁC TÀI LIỆU THAM KHẢO
47 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 11388 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. (5 - T.34).
Xuất khẩu tư bản với sự vận động hai chiều dẫn đến thành lập các Công ty xuyên quốc gia liên minh kinh tế khu vực NAFTA, EU, (7/1967) APEC...
1.2.1.2. Đặc điểm và những biểu hiện của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn những năm 1980 trở lại đây.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, bắt đầu từ những năm 80 trở đi, xuất khẩu tư bản mang tính chất khu vực hoá và toàn cầu hoá với quy mô lớn và tốc độ chưa từng có.
Từ những năm 1980 trở lại đây thế giới dần dần chuyển từ xu thế đối đầu căng thẳng sang đầu tư phát triển kinh tế. Khái niệm "đối đầu", "chiến tranh lạnh" của những năm 60 trở nên lỗi thời, hoàn cảnh đó đã tạo thuận lợi hiếm có để mỗi quốc gia phát triển kinh tế theo con đường riêng của mình.
Xu thế xuất khẩu tư bản những năm 80 trở lại đây bộc lộ rõ ở việc thay đổi địa bàn đầu tư, vai trò các nước xuất khẩu tư bản, hình thức xuất khẩu tư bản và sự liên kết kinh tế trên quy mô toàn cầu, cụ thể như sau:
Nếu như những năm 60 - 70 về trước, vai trò xuất khẩu tư bản tập trung vào Mỹ và Tây Âu và một số quốc gia phát triển chiếm tới 98% số tư bản của thế giới. Đến nay vị trí độc quyền đó đang bị thu nhỏ lại, trong các xuất khẩu tư bản mới phải kể đến Nhật Bản, ấn Độ, Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Xingapo, các nước Bắc Âu. Đó là kết quả của quá trình tăng trưởng kinh tế kỳ diệu trong suốt những năm 60, 70, 80. Chúng ta hãy xét trường hợp của Nhật Bản có bước tăng trưởng nhảy vọt về đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, từ năm 1980 - 1985 tăng gấp 12 lần, tỷ lệ của họ trong tổng ngạch đầu tư trên thế giới từ 50% tăng vọt lên 23,2%. Bắt đầu từ năm 1988, ngạch đầu tư trong năm ấy của Nhật vượt Mỹ, đứng hàng đầu thế giới, cho tới cuối tháng 3 - 1990, tổng ngạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật đã lên tới 253,9 tỷ đô la. (6 - T.21). Từ đó, cho ta thấy rằng, thế độc quyền xuất khẩu tư bản của Mỹ và Tây Âu dần bị thu hẹp.
- Sự thay đổi xu hướng đầu tư vào các nước nhận đầu tư.
Trung Quốc là nước tiếp nhận đầu tư lớn, trong giai đoạn hiện nay kinh tế Trung Quốc không ngừng phát triển ở mức 2 con số. Vì vậy mà Trung Quốc là một môi trường thuận lợi thu hút xuất khẩu tư bản. Từ đó, Trung Quốc đã vươn lê vị trí thứ 2 về sự hấp dẫn vốn đầu tư nước ngoài. Tiếp sau là các nước Châu á - Thái Bình Dương, đây là khu vực kinh tế phát triển năng động nhất thu hút nhiều đầu tư của các nước tư bản phát triển. Như vậy, biểu hiện mới của các nước nhận đầu tư chuyển dần sang các nước công nghiệp mới và các nước Châu á - Thái Bình Dương, Trung Đông, Braxin, Mêxicô tức là trên các địa bàn khác nhau đáp ứng yêu cầu toàn cầu hoá về kinh tế thế giới. Sự vận động hai chiều của xuất khẩu tư bản giai đoạn 60 - 70 chủ yếu giữa Mỹ và Tây Âu thì đến nay mối quan hệ giữa các nước tư bản đó đều bị ảnh hưởng vì vai trò của Nhật Bản.
Những biểu hiện của việc xuất khẩu tư bản của một số quốc gia như là Trung Quốc, Hàn Quốc, Hồng Kông, Braxin, Đài Loan, Mêxicô, ấn Độ, Malaixia nhận đầu tư lớn... xuất khẩu tư bản sang các nước thế giới thứ 3 và các nước công nghiệp mới phát triển đáp ứng xu thế kinh tế hoá toàn cầu.
- Sự thay đổi về hình thức đầu tư
Nếu như trong giai đoạn 60 - 70 xuất khẩu tư bản chủ yếu với hình thức gián tiếp sang các nước thế giới thứ 3 và thuộc địa lệ thuộc, xuất khẩu tư bản giữa các nước đang phát triển với nhau mang tính chất liên kết kinh tế đảm bảo lợi ích mỗi nước. Đến những năm 1980 lại đây xuất khẩu tư bản chủ yếu là sự đa dạng hoá về hình thức xuất khẩu tư bản. Các nước tư bản phát triển và một số nước xuất khẩu tư bản mới ra sức đầu tư vào địa bàn có lợi: cho vay vốn, xây dựng cơ sở hạ tầng, sản xuất công nghiệp, mua cổ phần các xí nghiệp. Thực tế các nhà xuất khẩu tư bản nhằm vào những chỗ béo bở, ít gặp rủi ro mục tiêu lợi nhuận và chỉ đạo để quyết định áp dụng hình thức đầu tư nào có lợi nhất. Các nhà xuất khẩu tư bản qua việc đầu tư cũng mong muốn mở rộng thị trường, mở rộng địa bàn chiến lược của mình để phát triển kinh tế, phát triển các Công ty đa quốc gia đáp ứng yêu cầu xã hội hoá sản xuất cao. ở các nước tư bản phát triển xuất khẩu tư bản chủ yếu là hình thức mua cổ phần, sát nhập các Công ty trở thành những siêu Công ty quốc gia. Xuất khẩu tư bản sang các nước đang phát triển chủ yếu cho vay vốn và đầu tư cơ sở hạ tầng, các xí nghiệp sản xuất dịch vụ. Tuy vậy, xuất khẩu tư bản giai đoạn này chủ yếu là tập trung vào dịch vụ chiếm tới gần 50%, đó là kết quả của một nền sản xuất phục vụ xã hội tiêu dùng.
- Sự thay đổi về vai trò đầu tư của các nước đang phát triển.
Các nước đang phát triển vốn là địa bàn đầu tư của tư bản độc quyền quốc tế. Sau chiến tranh, nhất là từ những năm 70 trở đi, tình hình ít nhiều có thay đổi. Các nước đang phát triển cũng bắt đầu đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, gồm cả đầu tư giữa các nước đang phát triển với nhau và đầu tư vào các nước phát triển. Một trong những hiện tượng nổi bật trong lĩnh vực vận động tư bản quốc tế hiện nay là tăng tỷ lệ các nước đang phát triển với tư cách là nước xuất khẩu tư bản và đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước này được định hướng lại sang các nước tư bản phát triển. Tuy nhiên, khối lượng của nó không lớn, chỉ khoảng 2% tổng đầu tư thế giới (7.T49 - 50). Hiện nay có khoảng 30 đến 50 nước và khu vực đang phát triển đầu tư trực tiếp ra nước ngoài. Lượng đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Hồng Kông, Đài Loan, Xingapo đã có quy mô khác. Ngoài ra, Hàn Quốc, Đài Loan, Achentina, Mêhicô, Vênêxuêla đều đang tích cực đầu tư trực tiếp ra nước ngoài.
"Về đại thể đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các nước đang phát triển gồm có 3 loại hình: Một là, những nước giàu tài nguyên, trong đó phần lớn là các nước xuất khẩu dầu mỏ. Các xí nghiệp độc quyền Nhà nước của họ có số dư xuất siêu lớn, do vậy có năng lực lập ra các Công ty con ở nước ngoài để thống nhất quản lý toàn bộ quá trình sản xuất, tiêu thụ. Loại đầu tư trực tiếp này phần lớn dùng để lập tổ chức tiêu thụ ở nước ngoài. Hai là, các nước giàu lao động, đang nhanh chóng thực hiện công nghiệp hoá. Do tài nguyên thiên nhiên có hạn và thị trường trong nước nhỏ hẹp, họ không thể không tổ chức ra các Công ty sử dụng nhiều lao động hoặc nhận thầu các Công ty nước ngoài ở các nước khác để nhận thầu các Công ty nước ngoài ở các nước khác để tìm lối thoát. Ba là, những nước đang nhanh chóng thực hiện công nghiệp hoá. Họ đã có được những thành tựu nhất định ở trong nước và muốn phát triển ra nước ngoài, cùng với bạn bè ở nước sở tại lập ra những Công ty sản xuất thiết bị công nghiệp, hàng dệt hoặc sản phẩm điện tử" .(8 - T.38).
Cho đến nay, đầu tư ra nước của các nước đang phát triển tăng mạnh và có một vị trí đáng kể trong xuất khẩu tư bản toàn thế giới.
- Sự xuất hiện của các tổ chức liên kết kinh tế, các Công ty xuyên quốc gia và cục diện đa trung tâm.
+ Các Công ty xuyên quốc gia: là hình thức tổ chức quốc tế hoá chủ yếu của tư bản hiện đại. Nó phát triển từ những Công ty độc quyền lớn của các nước tư bản và mở rộng quy mô, thực lực nhờ kết quả của quá trình xã hội hoá sản xuất và phân công lao động. Đầu tư và các Công ty quốc gia ra nước ngoài không ngừng tăng, 25 tỷ USD năm 1990, lượng luỹ kế đầu tư ra nước ngoài vượt 100 tỷ USD với trên 90% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với 35000 Công ty xuyên quốc gia.
Sự xuất hiện của các Công ty xuyên quốc gia với quy mô lớn, hùng hậu là lực lượng chủ yếu xuất khẩu tư bản, thực tế đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu bới sự vận động tư bản quốc tế này nay trên phạm vi toàn cầu.
+ Các tổ chức liên kết kinh tế, khu vực hoá và toàn cầu hoá.
Khu vực hoá kinh tế là hiện tượng ra đời sau chiến tranh thế giới lần hai và đặc biệt phát triển mạnh từ những năm 80 trở lại đây và trở thành xu thế toàn cầu biểu hiện là sự quốc tế hoá sản xuất và đời sống kinh tế phát triển tới một trình độ nhất định. Nội dung liên kết không chỉ giới hạn trong vấn đề mậu dịch và trong việc lưu động quốc tế và kỹ thuật lao động, phối hợp với các chính sách kinh tế đặc biệt là lưu động phát triển về tư bản. Đến nay trên thế giới đã có các tổ chức liên kết như EU, NAFTA (11/1994) APEC.
Khu vực hoá kinh tế thuận lợi cho xuất khẩu tư bản giữa các nước tư bản với nhau, ở đây có mối quan hệ hai chiều. Xuất khẩu tư bản đặc biệt phát triển nhất là xuất khẩu tư bản hai chiều thì rõ ràng cấp thiết đòi hỏi khu vực hoá kinh tế toàn cầu hình thành. Từ khi EU thành lập đầu tư của Mỹ, Nhật vào Tây Âu phát triển mạnh chủ yếu của tư nhân năm 1989 lên tới 150 tỷ USD chiếm 40% tổng đầu tư trực tiếp của Mỹ. Nhật cũng ra sức đầu tư vào Châu Âu và Mỹ, ở đây hai bên đối tác đều tranh thủ lợi nhuận từ khu vực hoá kinh tế.
+ Sự đa phương hoá về kinh tế. Nếu như trong những thập kỷ 70 trở về trước Mỹ là một cường quốc về kinh tế đến 50,7% tỷ trọng công nghiệp của các quốc gia tư bản, ngày nay Mỹ chỉ còn 25%. Vị trí này bị lung lay bởi sự phát triển của Tây Âu và Nhật Bản.
Đến nay Nhật có tổng thu nhập quốc dân bằng 3/5 Mỹ và Tây Âu. Do vậy, thực lực xuất khẩu tư bản giữa các quốc gia này là ngang bằng nhau. Đặc biệt Nhật Bản trở thành nước có tư bản dư thừa nhiều nhất và xuất khẩu tư bản không kém gì Mỹ. Các quốc gia Tây Âu cũng đầu tư mạnh vào Bắc Mỹ 80% FDI (1989).
Nước Mỹ cũng đưa vào Tây Âu 53% FDI, Nhật đưa 50% FDI vào Bắc Mỹ (9 - T.94).
Từ thực tế trên ta thấy, xuất khẩu tư bản giai đoạn này vẫn chủ yếu là xuất khẩu tư bản lẫn nhau giữa ba trung tâm kinh tế lớn của thế giới. Sự phát triển của xuất khẩu tư bản và những biểu hiện của nó trong những năm cuối thế kỷ XX và những năm tiếp theo phụ thuộc 3 trung tâm lớn này của thế giới.
1.2.2. Kết quả và những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay.
1.2.2.1. Kết quả của quá trình xuất khẩu tư bản
Xuất khẩu tư bản cuối thế kỷ XX đã đem lại những thay đổi to lớn đối với sự phát triển của kinh tế thế giới.
- Trước hết xuất khẩu tư bản đã đem lại kết quả là làm thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn cầu, thúc đẩy một bước phát triển mới về khoa học và công nghệ và quan hệ sản xuất mới.
Thứ nhất; nó là sự phát triển kinh tế mạnh của các quốc gia nhận đầu tư: Nhật, Hàn Quốc, Thái Lan, Singapo, Đài Loan, Hồng Kông, Trung Quốc... đã tạo được sự tăng trưởng cao từ những năm 60 lại đây. Mức tăng trưởng GDP liên tục trong vòng vài chục năm thường là trên 10% cao nhất thế giới, các nước này nhanh chóng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước và trở thành các quốc gia phát triển hay còn gọi là các nước Nics. Một điểm dễ nhận ra các quốc gia này đều là các quốc gia trong tranh thủ được sự đầu tư nước ngoài để phát triển đất nước và cũng là các nước nhận đầu tư xuất khẩu tư bản nhiều nhất.
Riêng đối với các quốc gia tư bản phát triển, xuất khẩu tư bản lẫn nhau là chủ yếu nên giúp các nước này bước vào khu vực hoá và toàn cầu hoá kinh tế, hình thành các Công ty xuyên quốc gia. Chính vì vậy, các nước tư bản phát triển đã thu được nhiều thành tựu đặc biệt trên mọi lĩnh vực. Sự gắn kết về lợi ích kinh tế trong xuất khẩu tư bản đảm bảo cho sự phát triển của mỗi quốc gia, mỗi nước tư bản, cho bản thân sự tồn tại của chúng.
Thứ hai, từ sự hợp tác, phân công lao động quốc tế và sự xã hội hoá sản xuất đảm bảo tuyệt đối cho xuất khẩu tư bản trở thành một phương thức để cho các nước tư bản phát triển giải quyết việc thay đổi công nghệ. Trong thời đại khoa học, kỹ thuật có những bước phát triển vượt bậc thường xuyên thay đổi công nghệ góp phần nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm tạo sự cạnh tranh tối đa để thu được lợi nhuận cao. Các nước xuất khẩu tư bản xuất khẩu công nghệ hạng 2 sang các nước thế giới thứ 3 này công nghệ hạng 2 cũng là hiện đại đối với họ, nên đã góp phần thay đổi công nghệ lạc hậu ở các quốc gia đó.
ở các nước tư bản phát triển, công nghệ mới được thay đổi liên tục kích thích khoa học kỹ thuật, phát triển đòi hỏi sự hợp tác quốc tế và sự xã hội hoá ngày càng cao. Do đó, xuất khẩu tư bản đã liên kết các khu vực kinh tế phát triển theo xu hướng toàn cầu.
Thứ ba, "quan hệ sản xuất mới" ra đời: xuất khẩu tư bản đã tạo ra một "quan hệ sản xuất mới", sự hợp tác ngang bằng giữa các quốc gia xuất khẩu tư bản với nhau và sự hợp tác bất bình đẳng với các nước đang phát triển. Do sự phân công lao động sâu sắc nên dẫn đến sự tập trung hoá sản xuất cao độ, giữa nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất.
- Hình thức các tổ chức liên kết quốc tế, các Công ty xuyên quốc gia, tự do toàn cầu hoá kinh tế và thể chế đa trung tâm của kinh tế thế giới.
Sự phát triển vượt bậc của các Công ty xuyên quốc gia, ở thế kỷ XXI này xuất khẩu tư bản thông qua các Công ty xuyên quốc gia. Một khi các Công ty xuyên quốc gia phát triển vượt bậc sẽ dẫn tới sự ràng buộc lẫn nhau về kinh tế tiến tới liên kết khu vực và toàn cầu hoá về kinh tế, xuất khẩu tư bản cũng không nằm ngoài xu thế này.
Thế giới ngày nay, Mỹ đã mất vai trò là cường quốc kinh tế số 1 từ vị trí 50,7% GDP của thế giới đến nay Mỹ còn 20 - 25% GDP thế giới. Thập kỷ 80 trở lại đây đánh dấu sự trỗi dậy của Nhật và Tây Âu. xuất khẩu tư bản trước đây chủ yếu là Mỹ và Tây Âu. Thì ngày nay sự xuất hiện của Nhật đã làm thay đổi quan hệ kinh tế thế giới tạo nên thế chân kiềng vững chắc, là Nhật xuất khẩu tư bản sang Mỹ và Tây Âu, Tay Âu xuất khẩu sang Mỹ và ngược lại.
Tóm lại, sự xuất khẩu tư bản lẫn nhau giữa ba trung tâm kinh tế thế giới, trong đó Nhật đóng vai trò chủ đạo. Tiếp sau đó là sự trỗi dậy của một số quốc gia xuất khẩu tư bản mới như: Trung Quốc, Hồng Kông, Hàn Quốc, Đài Loan, Braxin, Mêxicô...đã đưa đến cho nền kinh tế thế giới những kết quả quan trọng làm thay đổi bộ mặt kinh tế của các quốc gia trên thế giới.
1.2.2.2. Những biểu hiện mới của xuất khẩu tư bản trong giai đoạn hiện nay.
Từ những kết quả của xuất khẩu tư bản cuối thế kỷ XX như đã trình bày ở trên. Xuất khẩu tư bản đã làm thay đổi mọi mặt nền kinh tế cững như sự phát triển của mỗi quốc gia. Thay đổi các quan hệ kinh tế quốc tế và điều quan trọng là sự lột xác của chủ nghĩa tư bản để phù hợp với thời đại. Từ đó chúng ta thấy ra đời một chủ nghĩa tư bản hiện đại mới đặc trưng là sự tập trung hoá sản xuất cao độ đó là sự phát triển tồn tại của chủ nghĩa tư bản.
Xét riêng về xuất khẩu tư bản chúng ta cũng thấy rõ đó là lối thoát cho chủ nghĩa tư bản, là con đường mà chủ nghĩa tư bản không ngừng tìm kiếm lợi nhuận và qua đó nhằm liên kết kinh tế đảm bảo lợi ích chung. Nói một cách khác "chủ nghĩa tư bản hiện đại" là chủ nghĩa tư bản tự biến đổi, tự điều chỉnh trên cơ sở áp dụng những thành tựu của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật vào sản xuất và kinh doanh trên quy mô toàn thế giới.
Sự tập trung hoá kinh tế bởi những tổ hợp kinh tế lũng đoạn toàn cầu, bởi sự xã hội hoá sản xuất ngày càng cao phát triển dựa trên xuất khẩu tư bản giữa các quốc gia, chủ yếu là những nước tư bản phát triển, trong đó nổi bật là 3 trung tâm kinh tế lớn của thế giới.
Các Công ty xuyên quốc gia thúc đẩy quốc tế hoá hàng loạt hoạt động của tư bản, đưa trao đổi sản xuất và mọi hoạt động kinh tế vào hệ thống kinh doanh thế giới rộng lớn. Công ty xuyên quốc gia là hình thức tổ chức quốc tế hoá, chủ yếu là tư bản hiện đại, có vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới hiện nay. Sự phát triển mạnh mẽ của các Công ty xuyên quốc gia và quan hệ giữa các nước liên quan mạnh đến việc xuất khẩu tư bản.
Phát triển vượt bậc của các Công ty xuyên quốc gia mà các Công ty xuyên quốc gia chủ yếu phát triển từ những Công ty độc quyền lớn của các nước phát triển. Thông qua đầu tư trực tiếp ra nước ngoài và kinh doanh xuyên quốc gia, các Công ty này không ngừng mở rộng.
Hiện nay, tổng giá trị sản xuất hàng năm của các Công ty xuyên quốc gia chiếm khoảng một nửa tổng giá trị sản lượng hàng năm toàn bộ thế giới tư bản chủ nghĩa, giá trị sản xuất ở nước ngoài của chúng nhiều hơn tổng lượng mậu dịch thế giới. Lượng luỹ kế đầu tư ra nước ngoài đã vượt quá 100 tỷ đô la, lượng tiêu thụ ở nước ngoài lên tới 4000 tỷ USD, nắm giữ và kiểm soát 50% lượng mậu dịch quốc tế, trên 90% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, trên 80% bản quyền kỹ thuật mới và công nghệ mới. Với quy mô to lớn và thực lực hùng hậu các Công ty xuyên quốc gia đã trở thành lực lượng thao túng chủ yếu đối với sự vận động của tư bản quốc tế ngày nay trên phạm vi toàn cầu.
Sự phát triển của thị trường thế giới với hai nhân tố của khả năng sản xuất và nhu cầu thị trường.
Hợp tác quốc tế sản xuất là một trong những con đường chính hoà nhập kinh tế trong đó dẫn tới việc xuất khẩu tư bản mới của chủ nghĩa tư bản hiện đại cuối thế kỷ XX đầu tư thế kỷ XXI.
Tính đa dạng hoá ngày càng tăng của những đầu tư quốc tế. Các Công ty của Nhật biến thành những người xuất khẩu tư bản chủ yếu hoạt động ngày càng tăng vào Tây Âu, Mỹ, chuyển trọng tâm đầu tư vào các nước đang phát triển.
Quá trình liên kết quốc gia hoá các ngân hàng được đẩy mạnh.
Dịch vụ chiếm tỷ trọng càng lớn trong đầu tư trực tiếp của các Công ty xuyên quốc gia, 40% vốn đầu tư thế giới và 1/2 tổng số đầu tư trực tiếp. Đó là sự thoát dần của các quốc gia lệ thuộc vào xuất khẩu tư bản. Xuất khẩu tư bản của các quốc gia tư bản phát triển đã mang tính chất bình đẳng. Tuy nhiên chủ nghĩa tư bản vẫn còn có trung tâm và ngoại vi của nó.
Tóm lại, xuất khẩu tư bản góp phần lột xác chủ nghĩa tư bản, hình thành chủ nghĩa tư bản hiện đại đáp ứng yêu cầu tồn tại và phát triển của nó. Trong đó, xuất khẩu tư bản là một nhân tố quan trọng trong quá trình thay đổi nội tại của chủ nghĩa tư bản phù hợp với sự phát triển của lịch sử.
Chương II
đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
2.1. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam
2.1.1. Sự cần thiết phải tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt Nam
Việt Nam là một nước đang trong quá trình đổi mới, tiến hành công nghiệp hoá - hiện đại hoá để trở thành một nước công nghiệp phát triển, Việt Nam đang cần đến hai điều kiện hết sức cơ bản là vốn và kỹ thuật. Việc mở cửa nền kinh tế tiếp nhận đầu tư từ nước ngoài đã giúp chúng ta thực hiện những vấn đề cơ bản đó. Trong khi tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế còn thấp, việc khai thác vốn đầu tư từ bên ngoài để có thể kết hợp với nguồn lực nội địa nhằm tạo ra những "bước nhảy" trong tăng trưởng kinh tế. Vì vậy thu hút vốn đầu tư nước ngoài là xu hướng có tính quy luật trong điều kiện quốc tế hoá đời sống kinh tế ngày nay.
Sau hơn 10 năm đổi mới quan hệ kinh tế đối ngoại để thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào trong nước đạt được những thành qủa nhất định. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam trở thành hết sức cần thiết giúp cho nền kinh tế của đất nước thoát khỏi khủng hoảng và tạo tiền đề phát triển đi lên cùng với khu vực và trên thế giới.
Trong thời kỳ quá độ đi lên xây dựng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, đầu tư nước ngoài là yếu tố có khả năng tạo ra những điều kiện quyết định mức độ thành công và tốc độ phát triển của nền kinh tế. Điều đó cũng cho thấy rằng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam đang có chiều hướng gia tăng và là một hình thức kinh tế chủ yếu trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Bởi vì với việc đầu tư nước ngoài vào trong nước (cả gián tiếp lẫn trực tiếp) đã khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển hết khả năng vốn có của nó và việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài ấy lại là một cơ sở quan trọng trong việc hợp tác kinh tế với các nước bạn; thu hút sự chú ý của các nhà đầu tư và nâng cao dần vị thế của mình trên trường quốc tế. Đó chính là nâng cao vai trò, và tầm quan trọng của Việt Nam với các nước trong khu vực và trên thế giới. Bên cạnh đó phát triển nền kinh tế vững mạnh tạo thêm được nhiều công ăn, việc làm cho người lao động, tăng mức thu nhập và sử dụng một cách đúng đắn khoa học tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước.
2.1.2. Vai trò của đầu tư nước ngoài đối với sự phát triển nền kinh tế Việt Nam
2.1.2.1. Vốn đầu tư nước ngoài là nguồn vốn quan trọng và là một trong những điều kiện tiên quyết để Việt Nam thực hiện và đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong hoàn cảnh khó khăn về mọi mặt, trong đó một trong những vấn đề nổi lên tương đối gay gắt là thiếu vốn đầu tư. Huy động vốn, thực sự đã trở thành vấn đề cốt yếu của sự công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Tuy nhiên, dựa vào tính chất, đặc điểm của từng thời kỳ cụ thể, để lựa chọn, huy động sử dụng nguồn vốn nào là việc làm đòi hỏi phải có sự cân nhắc kỹ lưỡng, vì nó ảnh hưởng đến tốc độ, kết quả, và tính bền vững của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá cũng như sự phát triển lâu dài của đất nước. Thời kỳ đầu tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá khi khả năng tích luỹ và huy động vốn trong nước còn khó khăn, khi mà trình độ tổ chức quản lý cũng như các điều kiện để sử dụng vốn vay, còn kém hiệu quả, thì vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đóng vai trò như lực khởi động cho quá trình tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Từ khi thực hiện chính sách đầu tư trực tiếp nước ngoài cho đến nay, vốn đầu tư nước ngoài thực hiện ở Việt Nam bình quân 1.737,7 triệu USD/năm.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản các dự án đầu tư nước ngoài bình quân thời kỳ 1991 - 2000 là 17.423,2 tỷ đồng/năm. Đối với một nền kinh tế có quy mô như của chúng ta thì đây là một lượng vốn đầu tư không nhỏ, nó thực sự là nguồn vốn góp phần tạo ra sự chuyển biến không chỉ về quy mô đầu tư mà điều quan trọng hơn là nguồn vốn này có vai trò như "chất xúc tác - điều kiện" để việc đầu tư của ta đạt được hiệu quả nhất định:
Tính từ năm 1988 trở lại đây khối lượng vốn đầu tư nước ngoài tăng trưởng nhanh qua các năm (xem sơ đồ dưới đây).
Sơ đồ biểu diễn tình hình vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Việt Nam. (10).
Năm
Tổng số vốn đầu tư (triệu USD)
1988
371,8
1989
582,5
1990
839,0
1991
1322,3
1992
2165
1993
2900
1994
3765,6
1995
6530,8
1996
8497,3
1997
4649,1
1998
3897
1999
1568
2000
2012,4
2001
2436
Nếu so với tổng số vốn đầu tư xây dựng cơ bản xã hội thời kỳ 1991 - 2000 thì vốn đầu tư xây dựng cơ bản của các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 24,8%. Và lượng vốn đầu tư này có xu hướng tăng lên qua các năm. (cụ thể xem, bảng sau):
Sơ đồ tỷ trọng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong tổng vốn đầu tư xây dựng thực hiện toàn xã hội thời kỳ 1991 - 2000 (11)
Năm
Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng)
Vốn trong nước (tỷ đồng)
Vốn đầu tư trực tếp của nước ngoài
Số lượng (tỷ đồng)
So với tổng số (%)
1991
13.471
11.545
1.926
14,3
1992
24.737
19.552
5.185
21,0
1993
42.177
31.556
10.621
25,2
1994
54.296
37.796
16.500
30,4
1995
68.048
46.048
22.000
32,3
1996
79.367
56.667
22.700
28,6
1997
96.870
66.570
30.300
31,3
1998
97.336
73.036
24.300
25.0
1999
105.200
86.300
18.900
18,0
2000
120.600
98.200
21.800
18,2
Tổng
701.502
527.270
174..232
24,8
Vốn đầu tư xây dựng từ các dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài (1991 - 2000 = 174.232 tỷ đồng) gần bằng 50% tổng vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước (1991 - 2000 = 354.203 tỷ đồng).
Như vậy, có thể nó đầu tư nước ngoài là một trong những tác nhân có khả năng làm cho việc hình thành tại Việt Nam một thị trường vốn thực sự có tác dụng thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
2.1.2.2. Hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài góp phần tạo ra những năng lực sản xuất mới, ngành nghề mới, công nghệ mới, phương thức sản xuất kinh doanh mới, làm cho cơ cấu của nền kinh tế nước ta từng bước chuyển biến theo hướng của một nền kinh tế công nghiệp hoá, thị trường, hiện đại.
Ta thấy rằng, đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhân tố quan trọng và đang ngày càng khẳng định rõ vai trò của mình trong việc đóng góp vào sự tăng trưởng của nền kinh tế Việt Nam. Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có chỉ số phát triển cao hơn chỉ số phát triển của các thành phần kinh tế khác, và cao hơn hẳn chỉ số phát triển chung của cả nước. (năm 1995 chỉ số phát triển của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 114,98% thì chỉ số phát triển chung của cả nước là 109,54%; năm 1997 là 120,75% và 108,15%; năm 1998 là 119,54%. Số liệu tương ứng của năm 1996 là 119,42% và 109,34%; năm 1997 là 120,75% và 108,15%; năm 1998 là 119,1% và 105,8%; năm 1999 là 117,6% và 104,8% năm 2000 là 109,9% và 106,7%). Tỷ trọng của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài trong tổng sản phẩm trong nước cũng có xu hướng tăng lên tương đối ổn định (tỷ trọng này đạt từ 6,3% - 1995; 7,39% - 1996; 9,07% - 1997; 10,03% - 1998; 12,2% - 1999; lên 13,3% - 2000).
Theo tạp chí của tổng cục thống kê 4/2003 số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam từ năm 01/01 - 20/2/03 được biểu diễn theo sơ đồ sau đây: (12).
Đầu tư trực tiếp của nước ngoài tại Việt Nam từ 01/2001 đến 20/2/2003.
Số dự án (DA)
Số vốn đăng ký (nghìn USD)
Tổng số
Trong đó: vốn pháp định
Tổng số
52
122017
66568
Phân theo ngành kinh tế công nghiệp nặng
14
29365
13876
Dầu khí
1
16000
16000
Công nghiệp nhẹ
20
21033
10027
Công nghiệp thực phẩm
4
10000
5170
Nông, lâm, ngư nghiệp
1
500
350
Khách sạn, du lịch
1
100
300
Văn phòng cho thuê
1
4995
200
Dịch vụ
3
850
270
Giao thông vận tải và bưu điện
1
3524
2400
Xây dựng
2
28000
13800
Văn hoá, y tế và giáo dục
3
2750
1370
Thuỷ sản
1
400
1000
* Đối với ngành công nghiệp: các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài không những có tỷ trọng ca
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những biểu hiện mới trong xuất khẩu tư bản của chủ nghĩa tư bản ngày nay và đôi điều rút ra trong việc tiếp nhận đầu tư nước ngoài vào Việt nam.DOC