MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 1
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu 1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài 2
3. Phương pháp nghiên cứu và nội dung của khóa luận 3
CHƯƠNG I 4
SỰ RA ĐỜI CỦA QUY CHẾ ROME VỀ TÒA ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ ĐÁP ỨNG YÊU CẦU PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC LUẬT 4
VÀ LUẬT HÌNH SỰ QUỐC TẾ 4
1. Quá trình ký kết Quy chế Rome 4
2. Tầm quan trọng của Quy chế Rome 8
2.1. Mối quan hệ của Quy chế Rome với một số Điều ước quốc tế đa phương về Luật hình sự quốc tế 8
2.2. Giá trị pháp lý của Quy chế Rome 9
2.3. Vai trò của Quy chế Rome 10
2.3.1. Đối với việc hình thành thiết chế tài phán quốc tế nhằm trừng trị và ngăn ngừa tội phạm quốc tế 10
1.3.2. Đối với sự phát triển của Khoa học Luật hình sự quốc tế 11
3. Tình hình gia nhập Quy chế Rome hiện nay 14
CHƯƠNG II 15
CÁC VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN CỦA TOÀ ÁN HÌNH SỰ QUỐC TẾ THEO QUY CHẾ ROME 1998 15
1. Khái niệm tội phạm quốc tế 15
1.1. Định nghĩa 15
1.2. Phân loại tội phạm quốc tế 16
1.2.1. Tội diệt chủng 16
1.2.2. Tội chống nhân loại 17
1.2.3. Tội phạm chiến tranh 18
1.2.4. Tội xâm lược 20
2. Quy chế Rome về các thiết chế của ICC 21
2.1. Nguyên tắc chung 21
2.2. Cơ cấu tổ chức của ICC 23
3. Quy định về Thẩm quyền tài phán của ICC 28
3.1. Thẩm quyền của ICC đối với tội phạm quốc tế 28
3.1.1. Tính chất thẩm quyền tài phán của ICC 28
3.1.2. Căn cứ xác định thẩm quyền tài phán của ICC 30
3.1.3. Cách thức thực hiện 33
3.1.4. Luật áp dụng của ICC trong quá trình thực thi thẩm quyền tài phán 37
3.2. Thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia đối với các loại tội phạm quốc tế 38
3.2.1. Căn cứ xác định 38
3.2.2. Cách thức thực hiện 38
4. Hoạt động tố tụng của ICC theo Quy chế Rome 39
4.1. Hoạt động điều tra và truy tố 39
4.2. Hoạt động xét xử 41
4.3. Phúc thẩm và xét lại bản án 43
4.3.1. Phúc thẩm 43
4.3.2. Xét lại lời kết tội hoặc bản án 44
4.4. Quy chế Rome về vấn đề thi hành án 45
5. Quyền và nghĩa vụ của quốc gia thành viên Quy chế Rome 46
5.1. Các quyền cơ bản 46
5.2. Các nghĩa vụ cơ bản 47
5.2.1. Trong lĩnh vực xây dựng pháp luật hình sự quốc gia 47
5.2.2. Về hợp tác với ICC trong đấu tranh phòng, chống tội phạm quốc tế 48
5.2.3. Về tài chính 50
CHƯƠNG III 51
QUY CHẾ ROME VÀ TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ CỦA 51
VIỆT NAM 51
1. Tiến trình hội nhập quốc tế của Việt Nam 51
1.1. Trong khuôn khổ các tổ chức quốc tế phổ cập và khu vực 52
1.1.1. Liên hợp quốc 52
1.1.2. Tổ chức cảnh sát hình sự quốc tế (International Criminal Police Organization - INTERPOL) 52
1.1.3. Tổ chức quốc tế khu vực 55
1.2. Trong khuôn khổ các điều ước quốc tế 56
1.2.1. Các điều ước quốc tế đa phương 56
1.2.2. Các Điều ước quốc tế song phương 57
2. Việt Nam hội nhập quy chế Rome và ICC 58
2.1. Những cơ hội, thách thức đối với Việt Nam trong tiến trình hội nhập Quy chế Rome và ICC 58
2.1.1. Lợi ích từ thực tiễn hội nhập 59
2.1.2. Thuận lợi và thách thức trong thực tiễn hội nhập 59
2.2. Những chuẩn bị cần thiết phục vụ cho yêu cầu hội nhập Quy chế Rome 64
2.2.1. Về tổng thể, Việt Nam cần 64
2.2.2. Về nguồn nhân lực 65
2.2.3. Vấn đề hội nhập pháp luật hình sự quốc tế và Quy chế Rome 65
KẾT LUẬN 66
71 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 6842 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Những vấn đề pháp lý cơ bản về Tòa án hình sự quốc tế (ICC) theo Quy chế Rome 1998 và xu thế hội nhập của Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được áp dụng đối với mọi hành vi phạm tội thực hiện trên lãnh thổ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (khoản 1 Điều 5).
Như vậy, Tòa án quốc gia có thẩm quyền trước tiên trong việc xét xử 4 loại tội phạm thuộc thẩm quyền của của ICC. ICC chỉ thực hiện thẩm quyền tài phán của mình khi quốc gia đó không muốn hoặc không có khả năng tiến hành điều tra, truy tố và xét xử một cách thực sự (khoản 1 Điều 17). Để xác định một quốc gia không muốn điều tra, truy tố, Toà án sẽ xem xét xem có tồn tại một hoặc nhiều yếu tố sau hay không
+ Thủ tục tố tụng đã hoặc đang được tiến hành hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền của quốc gia đó nhằm bao che cho cá nhân thoát khỏi trách nhiệm hình sự;
+ Có sự trì hoãn vô lý thủ tục tố tụng nhằm tránh đưa cá nhân liên quan ra trước công lý;
+ Thủ tục tố tụng đã hoặc đang không được tiến hành một cách độc lập, công bằng hoặc được tiến hành nhằm tránh đưa cá nhân liên quan ra trước công lý.
Để xác định việc một quốc gia không có khả năng điều tra truy tố trong một trường hợp cụ thể, Tòa án sẽ xem xét có phải do hệ thống tư pháp quốc gia bị sụp đổ hoàn toàn hoặc phần lớn hay do không có hệ thống tư pháp mà quốc gia đó không thể bắt giữ được người bị buộc tội, không thể thu thập được chứng cứ, hoặc không thể tiến hành tố tụng được.
Một trường hợp ngoại lệ của nguyên tắc bổ sung cho thẩm quyền tài phán hình sự quốc gia đó là trường hợp Hội đồng Bảo an đưa một vụ việc ra trước Tòa án. Lúc này, không còn sự phân định thẩm quyền giữa ICC và Tòa án quốc gia mà đương nhiên ICC có thẩm quyền ưu thế và quốc gia phải có nghĩa vụ hợp tác.
Trên thực tế, nguyên tắc bổ sung cho thẩm quyền tài phán quốc gia có ý nghĩa hết sức quan trọng. Có nhiều trường hợp, quốc gia có thẩm quyền không muốn thực hiện thẩm quyền tài phán đối với công dân nước khác khi có hành vi thuộc nhóm tội phạm quốc tế xảy ra trên lãnh thổ nước mình, vì phải chịu sức ép từ phía quốc gia mà công dân đó mang quốc tịch. Không chỉ có vậy, nguyên tắc này còn nhằm tránh xảy ra tình trạng xung đột thẩm quyền giữa Tòa án quốc gia và ICC, tránh bỏ lọt tội phạm thực hiện tốt mục tiêu bắt các cá nhân phải chịu trách nhiệm cho các tội ác nghiêm trọng nhất mà chúng đã gây ra làm cả cộng đồng quốc tế phải lo ngại.
Có thể nhận thấy rằng nguyên tắc bổ sung thẩm quyền tài phán quốc gia chưa từng xuất hiện trước đó trong lịch sử pháp luật quốc tế. Chúng ta có thể xem xét mối quan hệ giữa Tòa án quốc gia với một số Tòa án hình sự quốc tế ra đời trước ICC để thấy rõ hơn điều này. Sau chiến tranh thế giới thứ hai, các quốc gia thắng trận đã thiết lập hai Tòa án quân sự quốc tế ở Nuremberg và Tokyo để truy tố những tên tội phạm sừng sỏ nhất phe Trục (Liên minh Đức, ý, Nhật). Tòa án Nuremberg được thành lập ngày 8/8/1945 theo Hiệp ước London, còn Tòa án Tokyo được thành lập ngày 16/11/1946. Đây được coi là Tòa án của những kẻ chiến thắng đối với kẻ chiến bại. Mối quan hệ về thẩm quyền xét xử giữa Tòa án quân sự quốc tế với Tòa án quốc gia được "giải quyết theo phương thức mặc định"[12]. Tòa án quân sự quốc tế sẽ xét xử tội phạm chiến tranh, tội chống hoà bình và chống loài người (Điều 6 Quy chế Tòa án Nuremberg). Còn những tội phạm khác sẽ thuộc thầm quyền xét xử Tòa án quốc gia hoặc Tòa án do lực lượng chiếm đóng quản trị.
50 năm sau đó hai Tòa án hình sự quốc tế adhoc được Hội đồng Bảo an thiết lập trên cơ sở của Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc. Hội đồng Bảo an đã ra Nghị quyết 827 (25/5/1993) thành lập Tòa Nam Tư và Nghị quyết 955 (8/11/1995) thành lập Tòa Ruanda. Hai Tòa án hình sự vụ việc này có thẩm quyền ưu thế hơn Tòa án quốc gia "loại trừ thẩm quyền xét xử của Toà án quốc gia" [12]. Tòa án có quyền yêu cầu Tòa án quốc gia chuyển vụ việc cho mình xử lí vào bất kỳ thời điểm tố tụng nào và Tòa án quốc gia phải chấp nhận (Điều 9 Quy chế Tòa án Nam Tư; Điều 8 Quy chế Tòa án Ruanda).
3.1.2. Căn cứ xác định thẩm quyền tài phán của ICC
Thứ nhất, các tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC. Lời nói đầu của Quy chế Rome có viết " Nhận thấy rằng trong thế kỷ này, hành triệu trẻ em, đàn bà, đàn ông đã trở thành nạn nhân của những hành động tàn ác chưa từng thấy, làm sửng sốt lương tri nhân loại". Những kẻ gây tội ác đó là tội phạm chung của loài người, vì vậy, nhân loại và các quốc gia yêu chuộng hoà bình, công lý phải có trách nhiệm đấu tranh, ngăn ngừa để duy trì một thế giới hoà bình, ổn định. ICC ra đời với chức năng của một thiết chế tài phán quốc tế độc lập nhằm trừng trị các tội ác quốc tế nghiêm trọng nhất tội diệt chủng, tội chống nhân loại, tội phạm chiến tranh và tội xâm lược, đã thể hiện rõ nét mong muốn đó của cộng đồng quốc tế.
Trong Quy chế Rome đối với các tội diệt chủng, chống nhân loại và tội ác chiến tranh đã có định nghĩa và quy định cụ thể các yếu tố cấu thành tội phạm. Điều 6 quy định 5 loại hành vi cụ thể cấu thành tội diệt chủng, Điều 7 quy định 11 loại hành vi cấu thành tội chống loài người cùng với sự giải thích cụ thể về mỗi hành vi, Điều 8 quy định 50 hành vi cấu thành tội chiến tranh.
Riêng đối với tội xâm lược, việc đưa tội xâm lược vào danh mục những tội phạm thuộc thẩm quyền xét xử của ICC là kết quả của cuộc thảo luận, đấu tranh căng thẳng tại Hội nghị Rome. Nhiều nước quan điểm rằng không nên đưa tội danh này vào danh mục tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC vì trong lịch sử pháp luật quốc tế chưa có định nghĩa rõ ràng về tội xâm lược. Mặc dù trên thực tế tội xâm lược đã từng được định nghĩa trong Nghị quyết 3314 năm 1974 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, song cũng rất khó để thống nhất định nghĩa này. Hơn nữa chỉ có Hội đồng Bảo an mới có vai trò quyết định theo như quy định tại Điều 39 của Hiến chương Liên hợp quốc. Một số nước khác thì cho rằng tội xâm lược là tội phạm quốc tế quan trọng nên không thể không thuộc thẩm quyền của ICC. Cuối cùng thì các nước cũng thoả hiệp được với nhau nhất trí đưa tội xâm lược vào danh mục các tội phạm thuộc thẩm quyền tài phán của ICC.
Tuy nhiên, trước mắt ICC vẫn chưa thể thực hiện được quyền xét xử đối với tội phạm này cho đến khi các Quốc gia thành viên thống nhất được định nghĩa. Hiện nay nhóm làm việc đặc biệt về tội xâm lược do Hội đồng Quốc gia thành viên thành lập đang tích cực soạn thảo định nghĩa về tội này.Theo dự kiến định nghĩa về tội này sẽ được đưa lên Hội đồng Quốc gia thành viên tại phiên họp đánh giá về Quy chế Rome năm 2009.
Một câu hỏi đặt ra là liệu Toà án có mở rộng thẩm quyền tài phán của mình đối với các tội phạm khác hay không? Ngày nay, cùng với sự phát triển của toàn cầu hoá, các tội phạm có tính chất quốc tế ngày càng trở nên nguy hiểm với nhiều thủ đoạn tinh vi, gây hậu quả lớn cho cộng đồng quốc tế. Ví dụ điển hình có thể nói đến ở đây là tội phạm khủng bố và tội phạm ma tuý.
Trên thực tế, văn bản dự thảo Quy chế đệ trình tại Hội nghị cấp cao về việc thành lập Tòa hình sự quốc tế cũng có đề cập đến nhiệm vụ xét xử các tội phạm khủng bố và buôn bán ma tuý quốc tế của ICC và đưa ra định nghĩa về các loại tội phạm này. Hầu hết các quốc gia tham dự Hội nghị đều thừa nhận 2 loại tội phạm trên là đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng đến tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của nhiều nước. Tuy nhiên, các quốc gia vẫn chưa đạt được sự thống nhất chung về định nghĩa các tội phạm này. Một số quốc gia cho rằng điều tra tội phạm ma tuý vượt quá khả năng của Toà án. Giải pháp được đưa ra là các quốc gia thành viên sẽ xem xét lại trong Hội nghị thẩm định năm 2009, và cân nhắc tội phạm này vào danh sách các tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án. Do đó, ICC không phải chỉ có thẩm quyền cố định đối với 4 loại tội phạm nêu trong Quy chế mà số lượng tội phạm có thể thay đổi tuỳ vào tình hình diễn biến tội phạm và thoả thuận của quốc gia thành viên. Hiện nay khủng bố quốc tế đang trở thành mối đe doạ của nhiều nước, đặc biệt là sau vụ 11/9/2001 ở Mĩ. Các nước ngày càng tích cực hợp tác chặt chẽ trong đấu tranh chống khủng bố. Vì vậy nhiều khả năng tội khủng bố sẽ được đưa vào danh mục các tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án.
Thứ hai, thẩm quyền theo lãnh thổ của ICC. Thẩm quyền của ICC không chỉ giới hạn trong phạm vi các quốc gia thành viên mà trong một số trường hợp còn đặt ra đối với các quốc gia chưa là thành viên của ICC, chẳng hạn: Trường hợp quốc gia thứ ba, chấp nhận quyền tài phán của Tòa án (khoản 3 Điều 12) thì Tòa án sẽ có thẩm quyền xét xử đối với tội phạm xảy ra trên lãnh thổ quốc gia hoặc tội phạm được thực hiện trên tàu biển, tàu bay có đăng tịch tại quốc gia nói trên; hoặc quốc gia đó có bị cáo là công dân. Hoặc trường hợp vụ việc được Hội đồng Bảo an thông báo cho Toà án theo quy định tại Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc thì dù tội phạm không xảy ra trên lãnh thổ quốc gia thành viên và bị cáo cũng không là công dân của quốc gia thành viên song Tòa án vẫn có thẩm quyền xét xử.
So với dự thảo Quy chế thẩm quyền này của Tòa án đã bị thu hẹp hơn vì trong dự thảo còn quy định quốc gia nơi bị cáo bị giam giữ hoặc có người bị hại là công dân cũng thuộc thẩm quyền xét xử của ICC.
Thứ ba, thẩm quyền đương nhiên của ICC. Điều 12 khoản 1 Quy chế Rome quy định "quốc gia trở thành thành viên của Quy chế này thì cũng chấp nhận quyền tài phán của Toà án đối với các tội phạm nêu tại Điều 5". Như vậy, một tội phạm thuộc quyền tài phán của quốc gia song nếu quốc gia đó không muốn hoặc không đủ khả năng tiến hành điều tra, truy tố thì ICC đương nhiên có quyền thụ lý. Vấn đề quốc gia có thể tuyên bố chấp nhận thẩm quyền của Tòa án theo từng vụ việc không được đặt ra. Tuy nhiên, riêng đối với tội phạm chiến tranh trong vòng 7 năm kể từ khi Quy chế Rome có hiệu lực pháp luật, quốc gia liên quan có quyền không chấp nhận thẩm quyền của Tòa án. Quy định này phần nào hạn chế thẩm quyền đương nhiên của Tòa án.
3.1.3. Cách thức thực hiện
Trong qúa trình thực hiện thẩm quyền của mình ICC phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản sau:
Nguyên tắc không hồi tố (Điều 24): Tòa án chỉ có quyền tài phán đối với những tội phạm thực hiện sau khi Quy chế này có hiệu lực. Do đó, một quốc gia trở thành thành viên của Quy chế này thì phải chấp nhận quyền tài phán của ICC đối với các tội quy định tại Điều 5 Quy chế. Còn đối với quốc gia trở thành thành viên của Quy chế sau khi Quy chế có hiệu lực thì Toà án chỉ có thể thực hiện quyền tài phán đối với các tội phạm xảy ra sau khi Quy chế có hiệu lực đối với quốc gia đó, trừ trường hợp quốc gia trên tuyên bố theo Điều 12 khoản 3. Tức là dù một quốc gia chưa phải là thành viên song vẫn chấp nhận quyền tài phán của Tòa án vì mục đích trừng trị kẻ phạm tội. Quốc gia chấp nhận quyền tài phán sẽ hợp tác với ICC mà không có bất kỳ một sự chậm chễ hoặc ngoại lệ nào.
Nguyên tắc không xét xử hai lần (Điều 20): Theo đó, không ai bị ICC xét xử về một hành vi cấu thành tội phạm mà người đó đã bị ICC kết án hoặc tuyên vô tội. Tương tự như vậy, không ai bị xét xử bởi một Tòa án khác về một tội phạm thuộc thẩm quyền của ICC mà người đó đã bị Tòa án này kết án hoặc tuyên vô tội. Đồng thời, không ai đã bị xét xử bởi một Tòa án khác về hành vi cấu thành tội diệt chủng, chống nhân loại, tội phạm chiến tranh lại sẽ bị ICC xét xử về cùng hành vi đó.
Nguyên tắc không có tội khi không có luật (Điều 22) và không có hình phạt khi không có luật (Điều 23): Theo Quy chế Rome thì không ai phải chịu trách nhiệm hình sự theo Quy chế này, trừ khi hành vi của người đó cấu thành một tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án vào thời điểm thực hiện hành vi đó. Việc định nghĩa tội phạm phải được giải thích nghiêm ngặt và không được hiểu rộng ra theo phép loại suy. Trường hợp có nội dung không rõ ràng, định nghĩa đó phải được giải thích theo hướng có lợi cho người đang bị điều tra, truy tố hoặc kết tội. Và Tòa án chỉ có thể đưa ra các hình phạt cho người bị kết án theo những hình phạt quy định trong Quy chế.
Nguyên tắc trách nhiệm hình sự cá nhân (Điều 25) và bình đẳng trước pháp luật (Điều 27): Người phạm tội thuộc quyền tài phán của Tòa án phải chịu trách nhiệm hình sự cá nhân và trách nhiệm hình sự cá nhân không ảnh hưởng đến trách nhiệm của quốc gia theo Luật quốc tế. Quy chế Rome được áp dụng bình đẳng đối với mọi người, không có bất kỳ sự phân biệt nào dựa trên thân phận chính thức. Cụ thể những thân phận chính thức như Nguyên thủ quốc gia hoặc người đứng đầu Chính phủ, thành phần của Chính phủ hay Nghị viện, dân biểu hoặc quan chức Chính phủ trong bất kỳ trường hợp nào đều không là lý do để miễn trách nhiệm hình sự theo Quy chế cũng như không là lý do để giảm hình phạt.
Ngoài ra, ICC còn thực thi thẩm quyền tài phán của mình dựa trên một số nguyên tắc khác như: Trách nhiệm của của người chỉ huy và cấp trên; Nguyên tắc không áp dụng thời hiệu khởi kiện đối với những tội phạm quy định tại Điều 5.
Bên cạnh các nguyên tắc Tòa án cũng cần xét đến các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự nếu tại thời điểm thực hiện hành vi:
+ Người phạm tội đang dưới độ tuổi 18;
+ Người đó bị bệnh tâm thần hoặc có khiếm khuyết về tâm thần làm mất khả năng nhận thức và điều khiển hành vi;
+ Người đó đang trong tình trạng say làm mất khả năng nhận thức tính trái pháp luật hoặc tính chất của hành vi của mình hoặc khả năng kiểm soát hành vi đó cho phù hợp với các yêu cầu của pháp luật ( trừ khi người đó tự nguyện làm mình say trong hoàn cảnh mà người đó đã biết, hoặc đã bất chấp nguy cơ, là do tình trạng say này họ có thể sẽ thực hiện hành vi cấu thành một tội phạm thuộc quyền tài phán của Toà án);
+ Người đó hành động một cách hợp lý để tự vệ hay bảo vệ người khác hoặc trong trường hợp tội phạm chiến tranh, bảo vệ những tài sản thiết yếu cho sự tồn tại của người đó hay người khác hoặc những tài sản thiết yếu cho việc hoàn thành nhiệm vụ quân sự, chống lại việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp và sắp xảy ra một cách tương xứng với mức độ đe doạ đối với người đó, người khác hoặc tài sản được bảo vệ;
+ Hành vi bị coi là cấu thành một tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án được thực hiện do bị ép buộc xuất phát từ mối đe doạ sắp bị giết hoặc tiếp tục hay sắp bị gây thương tích nghiêm trọng đối với người đó hoặc người khác và người đó hành động một cách cần thiết và hợp lý để tránh được mối đe doạ này, với điều kiện người này không có ý định gây ra thiệt hại nặng hơn so với thiệt hại cần tránh;
+ Một tội phạm thuộc quyền tài phán của Toà án được một người thực hiện mà người đó có nghĩa vụ pháp lý phải tuân thủ mệnh lệnh của Chính phủ hoặc cấp trên; người đó không biết rằng mệnh lệnh đó là trái pháp luật; mệnh lệnh đó không trái pháp luật một cách rõ ràng. Riêng đối với mệnh lệnh thực hiện tội diệt chủng, tội chống nhân loại là loại mệnh lệnh rõ ràng trái pháp luật nên không thể viện dẫn lý do mệnh lệnh không mang tính trái pháp luật rõ ràng để loại bỏ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.
Tòa án sẽ quyết định việc áp dụng các căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự đối với từng trường hợp cụ thể . Ngoài ra sai sót về luật hoặc về sự kiện cũng có thể là một trong những căn cứ loại trừ trách nhiệm hình sự nếu những sai sót này đã dẫn đến việc xác định sai về yếu tố tâm thần cần thiết để cấu thành tội phạm.
Vấn đề thực hiện thẩm quyền tài phán của Tòa hình sự quốc tế được thực hiện theo Điều 13 Quy chế Rome. Theo đó, ICC có thể thực hiện quyền tài phán đối với các tội phạm nêu tại Điều 5 và phù hợp với các quy định trong Quy chế nếu:
+ Vụ việc trong đó một hay nhiều tội phạm nêu trên xảy ra được quốc gia thành viên thông báo cho Trưởng Công tố;
+ Một vụ việc trong đó một hay nhiều tội phạm nêu trên đã xảy ra được Hội đồng Bảo an thông báo cho Trưởng Công tố theo thẩm quyền được quy định tại Chương VII Hiến chương Liên hợp quốc;
+ Trưởng Công tố tự mình mở cuộc điều tra.
Đây là một thủ tục quan trọng để ICC có thể thực hiện quyền tài phán liên quan đến các tội phạm. Một điểm đáng lưu ý là chỉ quốc gia thành viên và Hội đồng Bảo an mới có quyền thông báo và yêu cầu Trưởng Công tố điều tra một vụ việc. Các quốc gia phi thành viên, cá nhân, tổ chức quốc tế không được trực tiếp làm việc này mà chỉ có quyền đề xuất, kiến nghị để Trưởng Công tố xem xét.
Trường hợp Quốc gia thành viên thông báo cho Trưởng Công tố, Điều 14 quy định một quốc gia thành viên có thể thông báo về một vụ việc trong đó một hay nhiều tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án đã xảy ra, yêu cầu Trưởng Công tố điều tra để xác định những cá nhân phải chịu trách nhiệm về việc thực hiện các tội phạm đó. Trong thông báo đó phải kèm theo các tài liệu bộ trợ. Điều này có nghĩa quốc gia thành viên chỉ có thể yêu cầu Trưởng Công tố mở cuộc điều tra nếu quốc gia đó có đối tượng bị tình nghi là công dân hoặc sự việc phạm tội xảy ra trên lãnh thổ quốc gia đó. Vấn đề này liên quan đến thẩm quyền của ICC. Tuy nhiên, có một ngoại lệ nếu một quốc gia không phải là thành viên của Quy chế song tự nguyện đưa vụ việc đó đến ICC và chấp nhận thẩm quyền xét xử của ICC, thì ICC vẫn có thẩm quyền xét xử như đối vối quốc gia thành viên.
Trường hợp Hội đồng Bảo an yêu cầu Trưởng công tố điều tra vụ việc, không có quy định cụ thể về các điều kiện của cơ chế này ngoài điều kiện Hội đồng Bảo an phải hành động tuân theo chương VII của Hiến chương Liên hợp quốc. Sở dĩ quy định để Hội đồng Bảo an có quyền yêu cầu là vì vai trò của Hội đồng Bảo an trong đời sống quốc tế. Cần lưu ý rằng cho dù ICC đã ra đời và đang hoạt động song Hội đồng Bảo an vẫn có thể thành lập Tòa án lâm thời để xét xử tội phạm quốc tế.
Có thể rút ra một vài nhận xét như sau:
Thứ nhất, với tư cách là cơ quan thường trực của Liên hợp quốc, quyết định của Hội đồng Bảo an đương nhiên có hiệu lực với các quốc gia thành viên liên quan. Vì vậy, trong trường hợp Hội đồng Bảo an yêu cầu Trưởng Công tố điều tra vụ việc thì thẩm quyền của ICC không phụ thuộc vào quy định về thẩm quyền theo lãnh thổ. Điều này có nghĩa là ICC có thể thực hiện quyền tài phán của mình không phụ thuộc vào việc quốc gia đó có là thành viên hoặc chấp nhận thẩm quyền của ICC hay không.
Thứ hai, theo quy định của Quy chế thì Hội đồng Bảo an có quyền khởi kiện và đồng thời có quyền xác định hành vi nào là hành vi cấu thành tội xâm lược. Như vậy, xảy ra trường hợp "vừa đá bóng vừa thổi còi" làm ảnh hưởng đến tính độc lập, khách quan trong hoạt động tố tụng của Tòa án.
Cuối cùng, Trưởng Công tố có thể tự mình mở điều tra căn cứ vào thông tin về các tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án (khoản 1 Điều 15). Việc để Trưởng Công tố có quyền tự mở cuộc điều tra là để đảm bảo tính độc lập, khách quan trong điều tra, truy tố. Trưởng Công tố có quyền thu nhận thông tin từ bất kỳ cá nhân, tổ chức nào hoặc do mình tự tìm hiểu phát hiện ra mà không nhất thiết cần có yêu cầu của quốc gia thành viên hay Hội đồng Bảo an - "vốn rất dễ bị hiểu lầm hay suy đoán là có động cơ chính trị"[6]. Tuy nhiên, quy định này cũng có thể tạo ra khả năng lạm quyền của Công tố viên, dẫn đến việc xâm phạm chủ quyền quốc gia. Để hạn chế khả năng này Quy chế quy định thủ tục phê chuẩn của Hội đồng dự thẩm đối với quyết định điều tra của Công tố viên (Điều 42).
3.1.4. Luật áp dụng của ICC trong quá trình thực thi thẩm quyền tài phán
Luật áp dụng đối với hoạt động xét xử của Toà án là một yếu tố hết sức quan trọng, nó ảnh hưởng đến tính đúng đắn trong quá trình xét xử và đảm bảo việc thực thi công lý một cách hiệu quả. Theo Quy chế Rome, trong quá trình thực thi thẩm quyền tài phán của mình ICC có thể áp dụng các loại luật sau:
Một là, các quy định của Luật quốc tế, bao gồm Quy chế Rome với các quy định về yếu tố cấu thành tội phạm, quy tắc về thủ tục và chứng cứ, các Điều ước quốc tế, các nguyên tắc và quy tắc của Luật pháp quốc tế có thể áp dụng cả các nguyên tắc của Luật quốc tế về xung đột vũ trang nếu thích hợp.
Hai là, các quy định của pháp luật quốc gia. Toà án cũng có thể áp dụng các nguyên tắc pháp luật chung từ luật quốc gia, kể cả luật của các quốc gia thông thường sẽ thực hiện quyền tài phán đối với tội phạm nói trong Quy chế nếu thích hợp, với điều kiện các nguyên tắc đó không trái với Quy chế Rome và Pháp luật quốc tế cũng như các quy phạm và chuẩn mực được quốc tế thừa nhận.
Bên cạnh hai nguồn luật trên, Toà án có thể áp dụng các nguyên tắc và quy tắc pháp luật đã được giải thích trong các quy định trước đây của mình.
Việc áp dụng và giải thích luật phải phù hợp với các quyền con người đã được Luật quốc tế thừa nhận và không được mang tính phân biệt đối xử về giới tính, độ tuổi, chủng tộc, màu da, ngôn ngữ, tôn giáo và tín ngưỡng, quan điểm về chính trị hoặc về vấn đề khác, nguồn gốc dân tộc, sắc tộc hay xã hội, tài sản, sự ra đời hoặc các địa vị khác. Theo tinh thần các điều luật của Quy chế thì dường như không hề có sự phân biệt về giá trị hiệu lực giữa các nguồn luật trong quá trình viện dẫn áp dụng để xét xử và trừng trị tội phạm quốc tế. Điều này khác với Tòa án công lý quốc tế khi mà nguồn luật của Tòa án này là các Điều ước quốc tế và Tập quán quốc tế cùng một số phương tiện bổ trợ còn pháp luật quốc gia không được coi là nguồn để viện dẫn trong quá trình xét xử.
3.2. Thực hiện thẩm quyền tài phán của quốc gia đối với các loại tội phạm quốc tế
3.2.1. Căn cứ xác định
Theo quy định tại đoạn 10 của Lời nói đầu và Điều 17 Quy chế Rome thì Tòa án quốc gia có thẩm quyền ưu tiên trong việc điều tra, truy tố, xét xử tội phạm thuộc quyền tài phán của ICC nếu pháp luật quốc gia có quy định về loại tội phạm này. Như vậy, để quốc gia không mất đi thẩm quyền tài phán của mình, quốc gia phải có nghĩa vụ hình sự hoá các tội phạm mà theo xác định của Quy chế Rome cũng thuộc quyền tài phán của ICC.
3.2.2. Cách thức thực hiện
Vấn đề thụ lý vụ án của quốc gia thành viên sẽ được xem xét khi một việc được thông báo cho Tòa và Trưởng Công tố đã xác định có đủ căn cứ hợp lý để mở cuộc điều tra hoặc Trưởng Công tố đã tự mình mở điều tra, thì Trưởng Công tố sẽ thông báo cho những quốc gia mà căn cứ vào thông tin hiện có thông thường sẽ thực hiện quyền tài phán đối với tội phạm liên quan. Quốc gia đó có thời hạn một tháng để thông báo cho Tòa án là đã hoặc đang điều tra công dân nước mình hoặc những người khác, trong phạm vi quyền tài phán quốc gia về hành vi tội phạm có thể cấu thành các tội nêu tại Điều 5 và liên quan đến thông tin đề cập trong thông báo cho các quốc gia.
Theo đề nghị của quốc gia, Trưởng Công tố sẽ để quốc gia đó tiền hành điều tra những người này (Điều 18). Trong qúa trình điều tra, quốc gia thành viên nếu có yêu cầu của Trưởng Công tố thì phải thông báo định kỳ cho Trưởng Công tố về tiến độ điều tra và việc truy tố. Các quốc gia thành viên sẽ thực hiện yêu cầu này một cách không chậm chễ. Việc để quốc gia thành viên tiến hành điều tra có thể bị Trưởng công tố xem xét lại trong thời hạn 6 tháng sau ngày chấp nhận để quốc gia tiến hành điều tra hoặc vào bất kỳ thời điểm nào nếu tình hình có sự thay đổi quan trọng do việc quốc gia đó không muốn hoặc không đủ khả năng tiến hành điều tra thực sự.
Quốc gia có quyền tài phán đối với vụ việc được phép khiếu nại về vấn đề thụ lý và quyền tài phán của Tòa án một lần. Việc khiếu nại phải được tiến hành trước hoặc vào thời điểm mở phiên toà (khoản 4 Điều 19). Nếu khiếu nại vào trước khi lời buộc tội được xác nhận thì sẽ do Hội đồng dự thẩm giải quyết, khiếu nại sau khi lời buộc tội được xác nhận thì sẽ chuyển cho Hội đồng sơ thẩm. Trong thời hạn chờ quyết định của Tòa án thì Trưởng Công tố phải đình chỉ điều tra. Trường hợp Tòa án quyết định không thụ lý vụ việc thì Trưởng Công tố có thể yêu cầu Tòa án xem xét lại quyết định nếu có cơ sở cho rằng những sự kiện mới đã phủ định căn cứ mà trước đó được dùng để xác định không thụ lý vụ việc. Nếu Trưởng Công tố hoãn điều tra thì có thể yêu cầu quốc gia liên quan cung cấp thông tin về quá trình tố tụng.
4. Hoạt động tố tụng của ICC theo Quy chế Rome
4.1. Hoạt động điều tra và truy tố
Việc khởi tố một vụ án có thể được tiến hành từ 3 nguồn khác nhau, đó là từ các quốc gia thành viên, từ Hội đồng Bảo an và từ chính các Trưởng Công tố của ICC. Sau khi nhận được thông tin, Trưởng Công tố phải phân tích xác thực thông tin nhận được để đề ra quyết định điều tra. Trưởng Công tố sẽ xem xét dựa trên những yếu tố có hay không có cơ sở hợp lý để cho rằng tội phạm thuộc quyền tài phán của Tòa án đã hoặc đang thực hiện; Vụ án có thuộc diện thụ lý của Tòa án theo Điều 17 hay không và việc điều tra có phục vụ cho lợi ích công lý hay không. Có 2 trường hợp xảy ra
Trường hợp 1, có đủ các căn cứ để tiến hành điều tra thì Trưởng Công tố gửi văn bản đề nghị Hội đồng dự thẩm cho phép điều tra. Nếu Hội đồng dự thẩm đồng ý, Trưởng Công tố sẽ bắt đầu tiến hành điều tra và có quyền yêu cầu sự hợp tác của quốc gia thành viên, các quốc gia khác cũng như các tổ chức quốc tế (khoản 3 Điều 54). Còn nếu Hội đồng dự thẩm không chấp nhận yêu cầu của Trưởng Công tố thì Trưởng Công tố phải ngừng mở cuộc điều tra. Tuy nhiên, nếu sau đó có thêm tình tiết mới hay chứng cứ mới, Trưởng Công tố có quyền tiếp tục đề nghị Hội đồng dự thẩm cho phép tiến hành điều tra.
Trường hợp 2, không có căn cứ hợp lý để mở điều tra thì Trưởng Công tố phải thông báo cho Hội đồng dự thẩm để Hội đồng dự thẩm quyết định việc đình chỉ điều tra cho đến khi có các sự kiện hoặc thông tin mới.
Trong giai đoạn điều tra, truy tố để đảm bảo nguyên tắc bổ sung thẩm quyền tài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LDOCS (78).doc